Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Du. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Du. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2021

Văn Công Tuấn: Cái Lo Của Nguyễn Du

Nhân "Ngày Sách và Bản quyền Thế giới“ - 23 tháng 4

Sè sè „đống sách“ bên đường


Sáng cuối tuần trời nắng đẹp nên ăn sáng xong tôi mặc áo ấm đi dạo. Chợt thấy dọc đường cảnh lạ như vầy, xin kể cho vui.

Trên lối đi, cạnh một góc hoa viên là chỗ đông người qua lại tôi thấy có mấy thùng cạc tông nằm lênh láng. Thời nay rủi ro tràn khắp, lúc nào thấy những thùng gì lạ nằm lênh láng hay những túi xách vô chủ là nghi ngờ. Khôn hồn thì tránh xa! Vì đó có thể là mấy trái bom nổ của nhóm quá khích. Nhất là ở đây, đoạn đường bãi biển thường rất đông người qua lại trong những ngày nắng đẹp này. Cái thói quen cẩn thận lo xa, xem ra đã tích lũy từ những ngày thơ ấu trong chiến tranh. Tôi rẽ ngoặt đi lánh ra xa ngay. Nhưng tò mò thì vẫn cứ tò mò. Chả lẽ ở đây là chợ trời? Vô lý, bao lâu nay chưa hề thấy. Lại có 5, 7 người đứng ngồi cầm những vật trên tay giống như sách báo. Thôi, lo yên thân. Việc của mình là đi dạo thì cứ đi.

Nửa giờ sau. Cái việc đi dạo xem như đã xong, nhưng thay vì đi ngõ khác về nhà như mọi hôm thì lại tôi cố ý quay lại đường cũ để xem cảnh cái “chợ chồm hổm” ấy giờ ra sao.

Lúc này không còn ai, và hơn một nửa số các thùng cạc tông trống cũng đã được dẹp sạch, chỉ còn một. Những thùng sách khác còn lại thì được xếp ngay ngắn trên bệ tường, chỗ mấy đứa trẻ thường leo lên để chạy chơi. Tôi chụp ngay mấy tấm hình như dưới đây. Ít nhất quá nửa số sách lúc nãy đã được những người đi dạo biển lấy đi. Tôi đoán chừng, có thể ai đó trong những người hàng xóm của chúng tôi dọn nhà đi nơi khác (hay chết), không muốn mang số sách quý bỏ vào thùng giấy tái chế nên để ở đây để xem có thể ai đó cần dùng. Người Đức có thói quen quý là thích đọc sách báo rất nhiều, từ người già đến em bé.

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 34 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 34
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính và phổ biến năm 2020
* * * * *

PHỤ LỤC I
NỘI DUNG “TRUYỆN THIỆU NỮ”
SO VỚI NỘI DUNG “TRUYỆN KIỀU”


Tôi thấy truyện ba cô gái Tiểu Thanh, Vương Thúy KiềuThiệu Nữ đều là bậc sắc tài song tuyệt và đều biết trước là số bạc mệnh. Tiểu Thanh tài hoa, xinh đẹp và ngây thơ, theo ngay chàng Công tử con nhà quý phái, để thỏa mãn ái tình, rồi bị Trời ghen, kết cục phải chết vì thất tình ở một biệt thự trong vườn mai đẹp trên bờ Tây Hồ.

Vương Thúy Kiều (như ta đã biết trong truyện) thì khôn ngoan, muốn lấy Kim Trọng để nhờ phúc tướng chồng cho khỏi số bạc mệnh, kết cục cũng bị Trời ghen ghét, bắt phải bỏ Kim Trọng mà sống cuộc đời cực nhục, thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, rồi cũng phải chết ở sông Tiền Đường.

Như vậy, Tiểu Thanh và Thúy Kiều đều vì cưỡng lại mệnh Trời mà không tránh khỏi số bạc mệnh. Còn Thiệu Nữ thì khác: Cô biết số bạc mệnh không thể tránh được, đành chịu bạc mệnh ngay, chịu khổ nhục cho Trời hả cơn ghen với sắc tài của mình, để mong Trời thương tình mà giải phóng cho.

Ta đọc truyện Thiệu Nữ sau đây thì biết nàng tránh bạc mệnh bằng cách vâng phục ý Trời mà chịu đầy đọa, còn hơn là cố đem tài sắc mình ra mà mong biến đổi số bạc mệnh. Thật đúng với hai câu trong đoạn kết Truyện Kiều:

“Trời kia đã bắt làm người có thân / Bắt phong trần phải phong trần” và “Có tài mà cậy chi tài / Chữ ‘tài’ liền với chữ ‘tai’ một vần.”

TRUYỆN THIỆU NỮ (卲 女)


Sài Đình Tân là người phủ Thái Bình, nhà rất giầu, có vợ là Kim Thị không sinh con được, nhưng ghen quái ác. Sài đem trăm lạng vàng ra mua được người vợ lẽ; người phụ nữ này bị Kim Thị đối đãi tàn bạo được một năm thì chết. Sài giận quá, tuyệt tình với Kim Thị, suốt m

Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 33 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 33
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính và phổ biến năm 2020
* * * * *
CÂU 3241 ĐẾN CÂU 3254
“Chớ cậy chi tài, nên tu lấy thiện”


3241. Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
3243. Bắt phong trần, phải phong trần, [1]
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. [2]
3245. Có đâu thiên vị người nào, [3]
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, [4]
3247. Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần. [5]
3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân, [6]
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. [7]
3251. Thiện căn ở tại lòng ta, [8]
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. [9]
3253. Lời quê chắp nhặt dông dài, [10]
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Chú giải và dẫn điển

[1] Phong trần (風 塵) – Nghĩa đen là nơi có gió bụi bốc lên làm bẩn. Nghĩa bóng ở đây là bước đời lầm than khổ sở, con trai thì phải làm ăn vất vả nay đây mai đó, con gái thì phải long đong sa đọa vào những nơi thanh lâu ô nhục. Tác giả dùng câu này để vừa than thở cho số phận của mình long đong trong cuộc bể dâu, vừa than thở cho số phận Kiều gặp cơn gia biến phải sa ngã vào cuộc đời khổ nhục.

[2] Thanh cao (聲 高) = (Cuộc sống) trong sạch, đáng quý, không ai chê cười được.

[3] Thiên vị (偏 為) = Vị nể, lệch lạc, không công bằng.

[4] Dồi dào = Đầy đủ.

[5] Tai (災) = Tàn hại tự nhiên xẩy ra cho ta phải chịu.

[6] Nghiệp (業) = Việc mình đã làm. Theo lẽ nhân quả báo ứng, sách Phật nói: Những việc ác mình đã làm trong kiếp trước là cái “nhân” (mầm) nó kết thành quả của sự khổ sở kiếp này mình phải chịu để đền tội cho kiếp trước. Những việc mình làm kiếp này lại là cái nhân sinh ra “quả” số phận kiếp tiếp sau. Cái sự khổ sở mình phải chịu lần hồi kiếp kiếp như thế gọi là “nghiệp” dùng trong câu Truyện Kiều này.

[7] Trách (咋) lẫn = Trách một cách lầm lẫn, không đúng lẽ phải.

[8] Thiện căn (善 根) = Cội gốc lòng thiện, nghĩa là cái gốc nhân từ ở lòng mình ra.

[9] Chữ “tâm” = Tấm lòng có thiện căn nói trên. Hai câu 3247, 48 khuyên người đời: Muốn được khỏi kiếp khổ cực sau này, thì phải giữ bụng cho tử tế nhân đức, chớ có cậy tài giỏi mà tìm cách để tránh sự khổ sở nghiệp báo của kiếp trước. Hành động như vậy thì không những tránh không được, mà còn nghiệp báo chồng chất kiếp này sang kiếp khác, khổ mãi không thôi, càng thêm nặng nữa.

[10] Những chữ “lời quꔓdông dài” ở câu này là tác giả nói quá khiêm tốn đó thôi. Thật ra lời chẳng “quê” chút nào và những điển tích tác giả chắp nhặt vào suốt quyển truyện này kể có hàng nghìn, mà chẳng có câu nào “dông dài” cả. Ta chỉ thấy đều rất xác đáng, điển nào đúng sự ấy. Ta lại thấy tác giả thu nhặt rất rộng rãi, gần như hầu hết câu nào trong truyện, tác giả đều đặt theo điển cổ hẳn hoi ở trong các sách đứng đắn, hay theo phương ngôn tục ngữ của nền Việt văn. Những câu quan trọng có điển cố đã đành, lắm câu rất tầm thường mà thường cũng có ở trong sách cũ, ở trong ca dao. Thí dụ như nhóm chữ “hai kinh vững vàng” thì ở Tình Sử có “lưỡng kinh vô sự,” nhóm chữ “mụ thì khấn ngay” lấy điển ở câu “lầm rầm như đĩ khấn tiên sư.” Tôi rất tiếc là tôi học đã ít, trí nhớ lại kém, lại gặp lúc không có sách để tra cứu, nên đành chịu bỏ qua hầu hết.

Diễn ra văn xuôi


Câu 3241, 42 = Ta ngẫm nghĩ cho kỹ thì biết rằng mọi việc trên đời của con người đều do Trời quyết định cả. Trời đã cho ta làm người thì phải có thân.

Câu 3243, 44 = Trời bắt thân ta phải chịu kiếp phong trần, thì ta phải đành chịu phong trần. Khi nào Trời cho thân ta được thanh cao, thì ta mới được hưởng phúc phận thanh cao.

Câu 3245, 46 = Trời chẳng thiên vị người nào mà cho cả phần tài và phần mệnh đều được dồi dào đầy đủ cả.

Câu 3247, 48 = Bởi vậy khi Trời cho ta cái tài, thì ta chớ cậy tài ; ta phải biết chữ “tài” nó liền vần với chữ “tai.” Hãy nhớ rằng một khi Trời đã cho tài, thì Trời không cho mệnh nữa. Và nếu mình cậy tài mà cố làm cho vận mệnh tốt để cưỡng lại ý Trời, thì thế nào Trời cũng gieo cái “tai” cho mình để hãm cái “tài” của mình lại).

Câu 3249, 50 = Khi ta đã mang cái nghiệp báo kiếp trước vào thân mà ta phải phong trần khổ sở, thì ta đừng có lầm lẫn mà trách ông Trời ở gần hay ở xa mà không biết ta là kẻ có tài, lại nỡ để ta phải phong trần như thế.

Câu 3251, 52 = Ta muốn khỏi phong trần, thì ta phải vun trồng lấy gốc thiện ở trong lòng ta. Cái “thiện tâm” của ta đó mới quý gấp ba lần cái “tài hoa” của ta.

Câu 3253, 54 = Quyển sách lời lẽ quê mùa này do tôi lượm nhặt dông dài, mỗi chỗ một câu mà chắp nối lại viết ra. Tôi ước ao độc giả tiêu khiển mua vui cũng được vài ba trống canh khi buồn rảnh.

Những câu có ý móc nối hô ứng với nhau


(1) Mấy câu trong đoạn kết này đều ứng tiếp khẩn thiết với mấy đoạn mở đầu nói về “tài” với “mệnh.” (a) Hai câu “Có đâu thiên vị người nào / Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai” nhắc lại ý câu “Lạ gì bỉ sắc tư phong.” (b) Câu “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần” nhắc lại ý câu “Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.” (c) Duy ở đoạn mở đầu thì nói hẳn ngay là “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen,” những câu nhắc ý đó ở đoạn kết này thì lại dùng hai chữ “Ngẫm hay” để mở đường bàn rộng ra ý tại sao mà khách tài sắc lại bị Trời đánh ghen, và để khuyên người đời phải tu tỉnh lấy thiện căn ở trong lòng.

(2) Muốn khuyên giải cho khách phong trần khỏi “đau đớn lòng” vì bị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” như câu nói ở đoạn mở đầu, thì ở đoạn kết này tác giả nói : (a) Nghĩ cho kỹ thì ta biết bọn tài, sắc phải phong trần ; đó không phải là tại Trời ghen, mà chỉ là vì Trời giữ quyền cân nhắc nghiệp duyên mà định số mệnh cho chúng ta đó thôi. (b) Trời đã bắt ta làm người thì phải có thân, mà cái thân ta đó thường lại xui giục ta làm sự ác để thân ta được sung sướng vật chất. Ai mà không biết tu tỉnh giữ gìn thiện căn như thế, thì kiếp sau sẽ bị Trời bắt thân phải phong trần. Ai mà biết giữ cho thân hiền hậu kiếp này, thì Trời sẽ cho kiếp sau thân được thanh cao. (c) Bởi vì Trời giữ quyền cân nhắc thưởng phạt như thế là công bằng, nên Trời bắt ta thế nào thì ta đành chịu như thế, và chớ cậy tài mà cưỡng lại, cho thêm nặng nghiệp báo kiếp sau.

(3) Có lẽ tác giả đặt câu “Mua vui cũng được một vài trống canh” làm câu cuối cùng đoạn kết để nối nghĩa với câu đầu đoạn mở “Trăm năm trong cõi người ta” để tỏ lòng than thở: Suốt cuộc đời đằng đẵng một trăm năm ở cõi người ta mà chỉ được có vài trống canh là vui!

[ĐÀM DUY TẠO]

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 32 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 32
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp 
hiệu đính và phổ biến năm 2020
* * * * *
CÂU 3187 ĐẾN CÂU 3240
“Tình xưa điệu mới, khổ tận cam lai”


3187. Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
3189. Thêm nến giá nối hương bình, [1]
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan. [2]
3191. Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
3193. Nàng rằng: Vì mấy đường tơ, [3]
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi! [4]
3195. Ăn năn thì sự đã rồi!
Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
3197. Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa. [5]
3199. Khúc đâu đầm ấm dương hòa, [6]
Ấy là Hồ điệp hay là Trang sinh. [7]
3201. Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ quyên? [8]
3203. Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, [9]
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông ! [10, 11] 
3205. Lọt tai nghe suốt năm cung, [12]
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao. [13] 
3207. Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
3209. Tẻ vui bởi tại lòng này,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai? [14]

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 31 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 31
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp 
hiệu đính và phổ biến năm 2020
* * * * *
CÂU 3131 ĐẾN CÂU 3186
“Chút trinh cầm vững, muôn phần kính thêm”


3131. Nhà vừa mở tiệc đoàn loan, [1]
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. [2]
3133. Cùng nhau giao bái một nhà, [3]
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135. Động phòng dìu dặt chén mồi, [4]
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xư .
3137. Những từ sen ngó đào tơ, [5]
Mười lăm năm mới bây giờ là đây !
3139. Tình duyên ấy hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.[6]
3141. Canh khuya bức gấm rủ thao, [7]
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
3143. Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi !
3147. Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.[8]
3149. Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi !
3151. Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua.
3153. Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 30 Kim Vân Kiều Đính Giải

KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) ĐàmTrungPháp
hiệu đính và phổ biến năm 2020

* * * * *
CÂU 3059 ĐẾN CÂU 3130
“Kẻ thẹn hoa tàn, người khen dăng tơ”


3059. Một nhà về đến quan nha, [1]
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. [2]
3061. Tàng tàng chén cúc dở say, [3, 4]
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
3063. Rằng: Trong tác hợp cơ trời . [5]
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao .
3065. Gặp cơn bình địa ba đào, [6]
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em . 
3067. Cũng là phận cải duyên kim, [7]
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao ? [8]
3069. Những là rày ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình !
3071. Bây giờ gương vỡ lại lành, [9]
Khuôn thiêng lựa lọc đã rành có nơi . [10]
3073. Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa .
3075. Quả mai ba bảy đương vừa, [11]
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. [12]

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 28 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 28
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp 
hiệu đính và phổ biến năm 2020


* * * * *

CÂU 2973 ĐẾN CÂU 3058
“Mừng cảnh đoàn viên, tủi tình lưu lạc”


2973. Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, [1]
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975. Trông lên linh vị chữ bài, [2]
Thất kinh mới hỏi: “Những người đâu ta?
2877. Với nàng thân thích gần xa, [3]
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?” [4]
2979. Nghe tin ngơ ngác, rụng rời,
Xúm quanh kể họ, rộn lời hỏi tra:
2981. “Này chồng này mẹ này cha,
Này là em ruột, này là em dâu.
2983. Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!” [5]
2985. Sư rằng: “Nhân quả với nàng, [6]
Lâm Tri buổi trước, Tiền Đường buổi sau.
2987. Khi nàng gieo ngọc chìm châu,
Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
2989. Cùng nhau nương cửa bồ đề, [7]
Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. [8]

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2020

Đàm Duy Tạo: Chương 26 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 26
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính năm 2019

* * * * *

CÂU 2565 ĐẾN CÂU 2736
“Sông Tiền sạch nợ, am cỏ chay lòng”


2565. Trong quân mở tiệc hạ công, [1]
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan. [2]
2567. Bắt nàng thị yến dưới màn, [3]
Dở say lại ép cung đàn nhật tâu. [4]
2569. Một cung gió tủi mưa sầu,
Bốn dây giỏ máu năm đầu ngón tay!
2571. Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
2573. Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
2575. Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
2577. Khúc cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”
2579. Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2019

Đàm Duy Tạo: Chương 25 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 25
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính năm 2019

* * * * *

CÂU 2439 ĐẾN CÂU 2564
“Triều đình riêng cõi / Thiền thổ một đôi”


2439. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan, [1]
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. [2]
2441. Triều đình riêng một góc giời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà. [3]
2443. Đòi phen gió quét mưa sa, [4]
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam. [5]
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm, [6]
Những loài giá áo túi cơm sá gì! (7)
2447. Nghênh ngang một cõi biên thùy, [8]
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! [9]
2449. Trước cờ ai dám tranh cường, [10]
Năm năm hùng cứ một phương hải tần. [11]
2451. Có quan tổng đốc trọng thần, [12]
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. [13]
2453. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, [14]
Tiện nghi phủ tiểu, việc ngoài đổng nhung. [15]

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2019

Đàm Trung Pháp: Lời Lời Châu Ngọc Hàng Hàng Gấm Thêu (2016, bổ sung 2019)

Nguồn minh họa: The Internet
Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Johann Wolfgang von Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Francois-René Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và William Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc. 

Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên Die Leiden des jungen Werthers (Nỗi ưu sầu chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một số thanh niên đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện tự kết liễu cuộc đời mà trong túi quần vẫn còn cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết Atala, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Samuel Taylor Coleridge xuất bản tập thơ Lyrical Ballads, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong nền văn học quốc gia ấy. 

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2019

Đàm Duy Tạo: Chương 24 Kim Vân Kiều Đính Giải

CHƯƠNG 24
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính năm 2019

* * * * *

CÂU 2289 ĐẾN CÂU 2438
“Tha người tri quá / Cứ phép gia hình”


2289. Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi: [1]
2291. Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương. 
2293. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295. Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
2297. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao. [2]
2299. Ba quân chỉ ngọn cờ đào, [3]
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy,
2301. Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra. [4]
2303. Lại sai lệnh tiễn truyền qua, [5]
Giữ gìn họ Thúc một nhà cho yên.

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019

Hạ Long Bụt sĩ LVV: Đại Đàn Giải Oan



Đàn giải oan là một truyền thống cao đẹp của Việt Nam. Trong Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh Nguyễn Du đã nói lên tất cả ý nghĩa nhân bản của việc cúng tế này :

...Cho hay thành bại là cơ,
Ma oan hồn biết bao giờ cho tan…

Khi thất thế ma rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc biển chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao!..

Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe lửa ngọn ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương..

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2019

Đàm Duy Tạo: Chương 21 - Kim Vân Kiều Đính giải

CHƯƠNG 21
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp hiệu đính năm 2019


= = = = =

CÂU 1939 ĐẾN CÂU 2060

“Nghe ngâm biết hết / cười hiểm dọa chơi”

1939. Những là ngậm thở nuốt than,
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. [1]
1941. Thừa cơ, sinh mới lẻn ra, [2]
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
1943. Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh: [3]
1945. “Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa! [4]
1947. Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
1949. Vì ta cho lụy đến người,
Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
1951. Quản chi lên thác xuống ghềnh, [5]
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953. Tông đường chút chửa cam lòng, [6]
Nghiến răng bẻ một chữ ‘đồng’ làm hai. [7]
1955. Thẹn mình đá nát vàng phai, [8]
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?” [9]
1957. Nàng rằng: “Chiếc bách sóng đào, [10]
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
1959. Chút thân quằn quại vũng lầy,
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
1961. Cũng liều một giọt mưa rào, [11]
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
1963. Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu!

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: NGUYỄN DU VIẾT VỀ NHẠC PHI (1103-1142)


Năm 1813 trên đường đi sứ từ 9-8 đến22-8 năm Quý Dậu Nguyễn Du đi qua Yển Thành thuộc tỉnh Hà Nam, ở phía Nam thành Hứa Xương nơi Nhạc Phi đóng quân. Nguyễn Du viết bài Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ. Năm 1790 trên bước đường đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc (1787-1790) Nguyễn Du từng dừng chân ở Tây Hồ, Hàng Châu nơi Miếu Nhạc Phi dưới chân núi Thê Hà, Nguyễn Du đã làm  5 bài thơ trong lúc chờ đợi gặp lại Nguyễn Đại Lang, một bài viết về Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị.


Nhạc Phi là một anh hùng dân tộc được kính trọng tại Trung Quốc, học sinh từ Tiểu Học học riêng một chương về anh hùng Nhạc Phi.

Nhạc Phi người thời Nam Tống, quê huyện Thang Âm, Tương Châu. Nhà nghèo ham học giỏi cả văn lẫn võ, yêu thích sách binh pháp Tôn Tử và Ngô Khởi. Ông sinh ra vào thời nước Liêu và Đại Kim xâm lăng nhà Tống.

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH: NGUYỄN DU QUA MỘ ÂU DƯƠNG TU (1007-1072)


Nguyễn Du  qua mộ Âu Dương Tu  trong khi đi sứ năm 1813, thời gian từ 9-8 đến 22-8 năm Quý Dậu, khi đi ngang qua tỉnh Hà Nam, cựu  kinh đô Khai Phong tức Đông Kinh nhà Tống. Âu Dương Tu là một trong 10 văn hào lớn nhất Trung Quốc : Khuất Nguyên,Tư Mã Thiên, Đào Uyên Minh, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Âu Dương Tu, Tô Thức, Tào Tuyết Cần ; và một trong 8 nhà văn lớn thời Tống : Đường Tống  Bát Đại Gia : Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Vương An Thạch, Tăng Củng.
Trước mộ văn hào Âu Dương Tu, Nguyễn Du đã xúc động viết bài thơ : Mộ ông Âu Dương Văn Trung Âu Dương Tu là một nhà thơ trữ tình xuất sắc, một ngòi bút sử gia chính trực, một mẫu mực của người quân tử ngày xưa. Sớm đỗ đạt, làm quan cao. Suốt đời theo đường lối ngay thẳng không để lại điều gì để đáng ân hận. Nghìn năm qua chốn suối vàng còn vang tiếng danh. Một trong những việc ngay thẳng của Âu Dương Tu để lại tiếng danh là việc bênh vực nhà cải cách chính trị Phạm Trọng Yêm (989-1052).

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

Trần Gia Phụng: Thi Sĩ Nguyễn Du Qua Ải Nam Quan


Năm 1813 (quý dậu), Nguyễn Du (1765-1820) vừa được phong hàm Cần chánh điện học sĩ, (1) vâng lệnh vua Gia Long (trị vì 1802-1819), làm chánh sứ sang nhà Thanh (Trung Hoa).  Trên đường đi sứ, ông sáng tác nhiều bài thơ chữ Nho và sau tập hợp lại thành sách Bắc hành tạp lục.
Bắc hành tạp lục gồm 110 đề mục, và vì có nhiều đề mục thi sĩ  Nguyễn Du sáng tác hai bài thơ, nên có tất cả 120 bài thơ chữ Nho, trong đó có hai bài Nguyễn Du viết về tâm sự của mình khi tiến qua ải Nam Quan để vào đất Trung Hoa.  Đó là bài “Nam Quan đạo trung” và “Trấn Nam Quan.”     
NAM QUAN ĐẠO TRUNG
“Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan,
Vạn lý đan xa độ Hán quan.
Nhất lộ giai lai duy bạch phát,
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san.
Quân ân tự hải hào vô báo,
Xuân vũ như cao cốt tự hàn.
Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn,
Minh Giang bắc thướng thị Trường An.”
(2)
 

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Phạm Thảo Nguyên - Thơ chữ Hán Nguyễn Du: Nguyễn Du, Người Tráng Sĩ


Trích đoạn bài Nguyễn Du Cuộc Đời Trong Thơ

Thuở Trời Đất Nổi Cơn Gió Bụi
Năm 1786 dưới triều Lê Trịnh,Nguyễn Du đã đỗ tú tài, chưa thành danh, lên Thái Nguyên tập ấm chức quan võ Chánh thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, từ người cha nuôi họ Hà mới mất. Cùng năm, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, diệt Trịnh, trả ngôi lại cho vua Lê Cảnh Hưng. Cả nước chưa bị loạn lạc, triều đình nhà Lê vẫn còn, chỉ những cận thần tâm phúc của chúa Trịnh như Nguyễn Khản, Nguyễn Điều... bỏ chạy. Còn những quan nhỏ như Nguyễn Du, lại ở xa tận Thái Nguyên, chưa chắc bị ảnh hưởng. Sau đó Thăng Long còn hân hoan cử hành lễ cưới công chủa Ngọc Hân, được vua cha gả cho Nguyễn Huệ. Khi vua Cảnh Hưng già mất đi, cháu nội lên làm vua là Lê Chiêu Thống, ông vua này xin cầu viện nhà Thanh 1788. Và tới mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 vua Quang Trung đại phá quân Thanh tại Đống Đa thì khác hẳn. Đó là một trận đại chiến long trời lở đất, quân Thanh đại bại, bỏ chạy về Tầu, vua Lê Chiêu Thống và vài cận thần lúp súp chạy theo. Nhà Lê sụp đổ Nước nhà đổi chủ. Nhà Tây Sơn trị vì. Nguyễn Du cùng một số quan lại nhà Lê không muốn hợp tác với Tây Sơn, bỏ trốn sợ bị truy đuổi. Đó là cái mốc rất quan trọng trong đời thi sĩ: Đang là quan lại nhà Lê, dòng dõi đại thần đầu triều, thành kẻ không nhà phiêu bạt, đói rét cô đơn. Ông nghèo đói tới nỗi phải nhận lòng thương hại của người đời trong bài Khất Thực (Xin Ăn):
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên…                 
Đói rét bất ngờ nhận của cho…

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH - NGUYỄN DU QUA ĐÌNH TÔ TẦN


Nguyễn Du có hai bài thơ viết về đình Tô Tần khi đi qua cố kinh  Lạc Dương, nơi quê hương Tô Tần. Lạc Dương là một trong bốn kinh đô lớn trong lịch sử Trung Quốc, phía Tây tỉnh Hà Nam, tỉnh phía Nam sông Hoàng Hà, giáp tỉnh lị Trịnh Châu. Lạc Dương nằm bên bờ sông Hà Lạc còn có tên là Đông Kinh, Tây Kinh. Được xây dựng từ thế kỷ 11 trước Công nguyên đặt tên là Thành Chu, trở thành kinh đô nhà Đông Chu từ năm  770 trước CN. Từnăm 25 đến 190 sau CN thành kinh đô nhà Đông Hán từ Hán Quang Vũ Đế đến Hán Hiến Đế. Nhà Tùy thống nhất Trung Quốc năm 589 định đô ở Trường An. Năm 605 Tùy Dạng Đế cho xây dựng Đông Đô Lạc Dương. Trong thời hạn một năm nhân công dùng mỗi  tháng đến 2 triệu người. Do việc đôn đốc khắt khe, 10 người chết đến 4, 5. Do hao tổn nhân lực tiền bạc, nhà Tùy suy sụp, các cuộc khởi nghĩa bùng nổ , nhà Tùy  diệt vong năm năm 617.   Nguyễn Du viết các bài Đình Tô Tần, và Phân Kinh Thạch Đài tại cựu kinh đô Lạc Dương năm 1789-1790. Khi đi sứ Nguyễn Du có đi ngang qua tỉnh Hà Nam, qua huyện An Dương, nhưng không đến Lạc Dương. Đình Tô Tần lập ở quê hương Tô Tần là Lạc Dương.  Lạc Dương có ngôi chùa Bạch Mã là chùa đầu tiên của Trung Quốc,  lập năm 65 sau công nguyên, có lẽ Phân Kinh Thạch Đài nhà Tùy nằm nơi này. Tôi có đến Trường An năm 2009  tìm Phân Kinh Thạch Đài nơi chùa Đại Hồng Nhạn và Tiểu Hồng Nhạn, nơi Trần Huyền Trang dịch kinh nhưng không  ai biết.