Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Đình Đăng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Đình Đăng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

Tranh Mèo Của Họa Sĩ Nguyễn Đình Đăng

Họa sĩ Nguyễn Đình Đăng sinh năm 1958 tại Hà Nội, hiện sống tại Nhật Bản, nơi ông nghiên cứu lý thuyết vật lý hạt nhân tại viện RIKEN đồng thời vẽ tranh và tham gia triển lãm thường niên của hội Mỹ thuật Chủ Thể (主体美術協会) tại Bảo tàng Mỹ thuật Tokyo. Ông là hội viên của hội này từ năm 2005 và của hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1987.

Với kinh nghiệm 50 năm vẽ sơn dầu và hơn 50 năm vẽ dessin, trong thời gian 9 năm (2009 - 2018) Nguyễn Đình Đăng đã làm 9 thuyết trình và viết hơn 40 chuyên khảo để truyền bá kỹ pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp của các bậc thầy Cổ điển và các hiểu biết về chất liệu sơn dầu tới các sinh viên mỹ thuật và các họa sỹ Việt Nam. Những kiến thức của ông được tập hợp lại trong 2 cuốn sách “Kỹ thuật vẽ sơn dầu”Nghệ thuật dessin, đều do Công ty Cổ phần Văn hóa Đông A và NXB Dân trí xuất bản năm 2018 và 2022.

Đón chào năm Quý Mão, họa sĩ Nguyễn Đình Đăng có bộ tranh Mèo Quý Mão rất đặc sắc. Diễn Đàn Thế Kỷ xin giới thiệu vài bức trong bộ tranh này:



Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Nguyễn Đình Đăng - Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và 80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy tại cấp tiểu học Việt Nam


Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh



Alexandre de Rhodes
(1591 - 1660)  

Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.

Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).

Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).

Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.



Nguyễn Văn Vĩnh
(1882 - 1936)  


*** Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ (chữ viết của quốc gia)***

Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.

Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống.

Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.

Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng.

Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng.

Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc.

Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles.

Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí.

Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.

Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do.

Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.

Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ.

Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩmcủa các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp.

Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm),Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được.

Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ.

Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt.

Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.

Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt – La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.

Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình.

Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.

Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông.

Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.

Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole.

Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một tháng với những người tìm vàng.

Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông.

Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.

---Tôi đã vẽ bức tranh Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam – Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.

Lời cảm ơn:
Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình – nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp.

Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.

Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh, đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học.

Nguyễn Đình Đăng
Tokyo, 10/11/2004




Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

Nhà tưởng niệm nỗi nhục của báo chí

Nguyễn Đình Đăng

“Trận đánh Chernobyl” là nhan đề bộ phim tài liệu sản xuất năm 2007 nói về tai nạn hạt nhân lớn nhất trong lịch sử do con người gây ra. Đó là vụ nổ lò phản ứng tại nhà máy điện nguyền tử (NMĐNT) Chernobyl (Ukraine) xảy ra vào ngày 26/4/1986. Vụ nổ đã khiến hơn 40 ngàn dân trong vùng giáp nhà máy bị nhiễm bụi phóng xạ gấp 100 lần phóng xạ của hai quả bom nguyên tử ném xuống Nhật Bản, và mây phóng xạ lan khắp châu Âu. Ngoài những tai hoạ khủng khiếp do phóng xạ gây ra, bộ phim còn phát hiện một “nguyên tố” nguy hiểm không kém các nguyên tố phóng xạ như iodine 131, hay cesium 137. Nguyên tố đó có tên là Lie 86 (Dối trá năm 1986). Trong lời giới thiệu của bộ phim có đoạn: “Dựa trên những tài liệu tối mật quốc gia chỉ mới được tiết lộ vào thập niên 1990 khi Liên Xô sụp đổ, bộ phim đã phát giác một sự che giấu có hệ thống sự thật của thảm họa, bao gồm cả khả năng xảy ra một vụ nổ thứ hai do magma nóng chảy trong lò gây ra, mà đám mây phóng xạ có thể biến toàn châu Âu thành vùng đất không thể sinh sống được. Cố gắng của nhà nước Xô Viết nhằm ngăn chặn tai họa này đã kéo dài hơn 7 tháng và đã phải hy sinh số phận của hàng ngàn binh sĩ, thợ mỏ và các công nhân khác.”

Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2011

Tai họa tại Nhật: Thư của cảnh sát viên (Nhật Bản) Hà Minh Thành gửi Tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng

Nguồn: Nguyễn Đình Đăng’s Blog

Xin chào anh Đăng.

Xin được giới thiệu tôi tên là Hà Minh Thành. Qua anh Nguyễn Hữu Viện tôi mới được biết anh và trang tin của anh dù tôi làm việc cách chỗ của anh cũng không bao xa. Xin hân hạnh được làm quen với anh.