Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyên Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 10 tháng 11, 2020
Nguyên Ngọc: Đất chảy
Mùa bão lũ năm nay chưa hết, tháng 10 (dương lịch) đã chiếm kỷ lục, tháng 11 đã có báo động mấy cơn có thể là siêu bão (ouragan), thậm chí không thể nói đến tháng 12 sẽ không còn nữa.
|
Tôi nghe một số nhà khoa học nói đến nguyên nhân là do sự trở lại của La Nina ở Đông Nam Á, chắc hẳn là đúng rồi. Và nhìn lại quá khứ, cũng không phải ta chưa từng chứng kiến, lúc này lúc khác, những năm tai họa tương tự.
Song tôi có cảm giác dường như năm nay, đến giờ này, thì không còn có thể nói đến “tương tự” được nữa. Năm nay đã có cái gì đó mới, khác, cái khác đó lại là cơ bản, rất cơ bản. Tất nhiên ở đời không có gì đùng một cái bỗng xảy ra; cái điều tôi thấy và muốn nói là mới, khác, mà lại là mới, khác một cách cơ bản năm nay, tất nhiên đã từng có dấu hiệu những lần trước rồi, nhưng là lẻ tẻ, thỉnh thoảng, trong một điều kiện cực đoan bất chợt nào đó. Nó tích tụ dần, cho đến năm nay, thì trở thành hiện tượng tai họa cơ bản. Hơn thế nữa, rất có thể từ nay cái cơ bản này sẽ trở thành bình thường, hằng năm, ngày càng nặng hơn, dữ hơn. Thành “quy luật” nếu ta muốn nói cho có vẻ chữ nghĩa, khoa học một chút.
Tôi xin nói rõ: theo tôi, năm nay không phải là lũ lụt. Năm nay không phải lụt. Cũng không chỉ là lũ, theo nghĩa ta quen gọi.
Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2020
Nguyên Ngọc: Cái chết của Nhà thơ Ngọc Anh và ... vụ án Đồng Tâm
Tôi chắc ai cũng biết bài hát nổi tiếng “Bóng cây Kơ-nia”, nhưng hình như người ta biết nhiều về nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, là người đã phổ nhạc bài thơ ấy, rất ít ai nhắc và biết đến tác giả đích thực: nhà thơ Ngọc Anh. Đã có lần tôi nói với anh Phan Huỳnh Điểu: cám ơn anh đã phổ nhạc bài thơ, nhưng theo tôi bài thơ đó đã tự nó hát lên rồi…
Nhưng hôm nay nhắc tới Ngọc Anh không phải để nói chuyện xưa, mà để bàn về các kịch bản kỳ quái do mấy tướng công an tung ra về cái chết của ba người công an trong vụ án Đồng Tâm đang xử.
Ngọc Anh là bạn thân của tôi. Chúng tôi cùng lên Tây Nguyên một lần từ thời kháng chiến chống Pháp. Đến thời chiến tranh chống Mỹ, Ngọc Anh trở vào chiến trường cuối năm 1964, hoạt động ở vùng Kontum, và hy sinh ngày 5-10-1965, vì một tai nạn nghề nghiệp bất ngờ. Cụ thể là thể này : Ngọc Anh phụ trách một nhóm văn nghệ, chuyên đi biểu diễn, tuyên truyền cổ vũ kháng chiến ở các làng, chủ yếu thuộc hai huyện Đăk Glei và Tu Mơ Rông, trên hai sườn của núi Ngọc Linh cao nhất Tây Nguyên. Để tạo ánh sáng ở sân làng cho hằng trăm người xem, họ dùng một cách rất thô sơ: khoét một cái lỗ, lót mấy lớp lá không thấm nước, đổ dầu lửa xuống đấy, che phía trên chỉ chừa lại một khoảng trống nhỏ, rồi nhúng một cái bấc vào và đốt lên. Chỉ dầu lửa thôi nhé, lúc ấy đã làm gì có xăng. Ánh sáng cũng đủ cho các cuộc hát múa rộn rã… Đến khi ánh sáng đã hơi yếu do dầu cạn, lẽ ra phải chờ lửa tắt hẳn thì mới được đổ thêm dầu, rồi đốt lại. Nhưng Ngọc Anh đã vội vã và bất cẩn, bưng cả thùng dầu lửa còn lại rót thẳng vào ngọn lửa đang cháy. Dù chỉ còn le lói, lửa cũng bắt được dầu, bỗng cháy bùng lên, lập tức lan ngược theo dòng dầu đang rót xuống, và phủ cháy cả người cầm thùng dầu. Vậy là Ngọc Anh bị bỏng toàn thân. Người ra sức chạy chữa cho Ngọc Anh lúc bấy giờ, mà vẫn không cứu được, là một y sĩ người Jörai tên là Kösor Kron, còn có tên là Nguyễn Văn Sĩ, cũng được đào tạo từ miền Bắc vào. Sau này có thời gian dài Kösor Kron làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai. Anh chính là người dẫn con trai Ngọc Anh mấy mươi năm sau đi tìm mộ cha trong rừng rậm Tu Mơ Rông, và cũng chính anh đã kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện về cái chết bi thảm của Ngọc Anh, bạn tôi…
Thứ Ba, 4 tháng 2, 2020
Nguyên Ngọc: Tôi Tố Cáo
90 năm ĐCSVN được đánh dấu bằng một hoạt động có một không hai: một Trung đoàn cảnh sát cơ động trực thuộc Bộ CA, trang bị tận răng, tập kích trong đêm ngay trước Tết âm lịch để giết và mổ bụng một cụ già 84 tuổi đang mang thương tật, lại là đồng chí trung kiên trong hàng ngũ của mình, chỉ để cướp cho được một mảnh giấy chứng nhận quyền sở hữu mảnh đất Đồng Sênh của một thôn Hoành từ bao đời nay vẫn cấy cày trên đó để đóng góp cho công cuộc kháng chiến kiến quốc theo lời kêu gọi của Đảng.
Coi như mục tiêu đầu tiên và cao quý nhất của một đảng công nông từ khi mới ra đời - người cày có ruộng - được công khai xoá bỏ bằng một vụ cướp và khủng bố rùng rợn, ở thời điểm tuổi đời của nó đang đạt đến cái ngưỡng gần đất xa trời theo quy luật tự nhiên của Tạo hóa. Một sự xác nhận "giải thể" không còn gì hoàn hảo hơn.
Bauxite Việt Nam nhiệt liệt hưởng ứng lời tuyên bố nóng hổi của nhà văn Nguyên Ngọc và qua trang mạng chúng tôi cũng như nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác, rất mong tiếng nói tố cáo trung thực của nhà văn sớm lan tỏa rộng rãi khắp trong nước và trên toàn thế giới.
Bauxite Việt Nam
Trong nhiều năm qua, nhân dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thuộc thủ đô Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của một số lão nông tri điền đứng đầu là Cụ Lê Đình Kình đã kiên trì đấu tranh quyết giữ cánh đồng Sênh mà cha ông họ đã khai thác, bồi bổ, xây dựng từ ngàn đời, và từ trước đến nay chưa hề có bất cứ lệnh thu hồi của nhà nước cho bất cứ mục đích gì, chống lại âm mưu cướp đoạt cánh đồng này của chính quyền Hà Nội cấu kết với một nhóm lợi ích có tính chất mafia. Cụ Lê Đình Kình là một đại lão nông, năm nay đã 84 tuổi, là một chiến sĩ cách mạng, 58 tuổi đảng, là cựu chiến binh trung kiên của mấy cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, là bậc hiền nhân được nhân dân rộng rãi coi là một vị Bồ Tát nhân hậu và ôn hòa, luôn chủ trương chấp hành mọi chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, trung thành triệt để với quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Thứ Ba, 12 tháng 11, 2019
Trọng Thành (RFI): Nhà văn Nguyên Ngọc - Tường Berlin đổ, trông người mà ngẫm đến ta
![]() |
Một đoạn tường chia cắt thủ đô Berlin. Ảnh chụp năm 1986.Noir/wikipedia.org |
Cách nay 30 năm một sự kiện xảy ra tại Đông Âu gây chấn động toàn cầu. Bức tường Berlin, biểu tượng cho cuộc Chiến tranh Lạnh sụp đổ, báo hiệu cho sự tan rã hoàn toàn của khối cộng sản toàn trị, do Liên Xô đứng đầu. Sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ có ý nghĩa gì với lịch sử Việt Nam đương đại ?
RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà văn Nguyên Ngọc, một trụ cột của cao trào Đổi mới văn nghệ Việt Nam trong những năm 1987-1989, nhân chứng lịch sử của thời điểm bước ngoặt này. Theo nhà văn Nguyên Ngọc, sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ chấn động này đã làm cho người Việt Nam phải suy nghĩ rất nhiều. Tuy nhiên, tình hình Việt Nam trước đây và hiện nay khác xa với Đông Âu. Bởi chế độ cộng sản tại Việt Nam ''ăn sâu, trộn lẫn với chủ nghĩa yêu nước trong một thời gian rất dài''. Tìm được con đường thoát khỏi một chế độ như vậy là vô cùng khó. Để tìm ra được một kịch bản khả dĩ giải thoát cho Việt Nam, cần trở lại với sự lựa chọn gốc : văn minh hay chuyên chế, hướng về các nền dân chủ phương Tây hay ngả sang các thể chế độc tài – toàn trị.
Bức tường Berlin sụp đổ, những biến chuyển trong khối cộng sản toàn trị trước và sau biến cố lịch sử này dường như, với nhà văn Nguyên Ngọc, vẫn là câu chuyện của Việt Nam hôm nay. Thời gian 30 năm như ngưng đọng. Việt Nam vẫn đứng trước thách thức chọn đường thoát, như 30 năm về trước.
***
RFI: Ông nhận định ra sao về sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ ngày 09/11/1989 ?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Đối với Việt Nam cũng như đối với thế giới, đây là một sự kiện rất lớn. Nó chấm dứt một chế độ đã kéo dài cả thế kỉ. Tôi cũng có ở Liên Xô không lâu trước khi Bức tường Berlin sụp đổ. Và tôi cũng có ở một số nước Đông Âu. Thì tôi nghĩ rằng đã có những dấu hiệu là chế độ này không tồn tại lâu dài nữa đâu. Cho nên đến cái ngày nó sụp đổ, thì cũng là bất ngờ, nhưng đối với riêng tôi cũng là tất yếu thôi. Tôi cũng có ở Đức, ngay Berlin, phía đông Berlin. Tôi thấy rằng đối diện với Tây Berlin, với Tây Đức, một chế độ như vậy không thể kéo dài.
Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018
Nhà văn Nguyên Ngọc: Báo động ở Hội An:
Theo báo Người Đô Thị
LTS: “Ký ức Hội An” là một chương trình “nghệ thuật thực cảnh” vừa ra mắt tại sân khấu mới được dựng lên ở cồn nổi trên dòng sông Hoài. Ngoài những phản ứng của dư luận về vở diễn thì dự án xây dựng – nơi đặt sân khấu lại gây bức xúc và lo ngại khác- một cồn nổi đẹp của Hội An, Quảng Nam thành những khối bêtông xám xịt. Bài viết dưới đây của nhà văn Nguyên Ngọc, lên tiếng cảnh báo về một thảm họa văn hóa cho thành phố này, và chắc chắn không chỉ dừng lại ở văn hóa.
Tôi bắt chước anh Nguyễn Sự – nguyên Bí thư Thành ủy Hội An. Anh Sự được mời đi dự ra mắt chương trình hoành tráng “Ký ức Hội An’’, anh từ chối.
Ở cương vị anh và lại ở ngay Hội An, ai cũng có thể hiểu cử chỉ đó của anh, mặc dầu anh đã về hưu, là một thái độ rõ ràng, dứt khoát. Nhưng mấy hôm sau anh lặng lẽ mua vé, hai vợ chồng cùng đi xem, “để cho biết họ thật sự làm gì ở đấy, rồi mình có nói gì mới có căn cứ mà nói chớ’’, anh bảo.
Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017
Thanh Phương/RFI: Nguyên Ngọc: “ Người Việt cũng cần xét lại cuộc chiến Việt Nam ”
Là một trong những người có mặt trong bộ phim tài liệu nhiều tập “ The Vietnam War” về chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Ken Burns, nhà văn Nguyên Ngọc, nguyên là một sĩ quan trong quân đội miền Bắc, cho rằng Việt Nam cũng nên làm như Mỹ, tức là phải nhìn lại quá khứ, xét lại một cuộc chiến tranh mà theo ông đã dần dần trở thành một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn do khác biệt ý thức hệ.
RFI: Thưa nhà văn Nguyên Ngọc, khi xem lại toàn bộ phim “ The Vietnam War”, ông có những nhận xét như thế nào về cách thực hiện bộ phim này?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Theo tôi, đây là một phim lớn và rất quan trọng về chiến tranh Việt Nam. Trước đây đã có nhiều phim về chiến tranh Việt Nam, kể cả hư cấu và phim tài liệu, nhưng đây là phim lớn nhất, dài đến 10 tập và 18 giờ. Đáng nói hơn nữa, đây là một phim rất quan trọng. Sau hơn 40 năm, phim này cho thấy nước Mỹ vẫn chưa ra khỏi cái ảm ảnh của cuộc chiến tranh đó.
Khi nói rằng nước Mỹ chưa ra khỏi chiến tranh Việt Nam, nhiều người, kể cả tôi, đã nghĩ rằng đó là một điểm yếu của nước Mỹ. Nhưng xem phim này thì tôi thấy hóa ra đó là cái mạnh của nước Mỹ. Đấy là một quốc gia luôn luôn nhìn trở lại và đặt câu hỏi về quá khứ, về cuộc chiến tranh của mình, về những gì mình đã làm trong suốt cuộc chiến tranh đó. Sức mạnh của nước Mỹ chính là luôn luôn biết tự đặt câu hỏi về quá khứ của mình.
Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2017
Nguyên Ngọc: Đại chúng hay tinh hoa?
Mấy năm gần
đây tôi thường theo dõi các cuộc thi tú tài ở Pháp, vì thích thú, và cũng có phần
muốn từ đó thử nghĩ lại thêm về giáo dục ở ta. Hình như vừa qua ta chú ý nói
nhiều đến đại học, hẳn vì ở đây dễ thấy rõ sự quá lạc hậu so với thế giới, cũng
lại là nơi liên quan trực tiếp đến việc đào tạo nhân lực cho xã hội. Song cũng
có thể vấn đề chính của giáo dục còn ở chỗ khác, ở phổ thông, nơi ít được dư luận
quan tâm hơn. Có vấn đề ở phổ thông rồi, tất đại học không thể không có vấn đề.
Theo dõi qua
báo chí trên mạng, lại chỉ qua các kỳ thi, nên hẳn không thể biết hết mọi sự của
người ta. Nhưng dù sao thấy người ta thi như thế nào, chắc cũng có thể đoán biết
đôi chút họ dạy và học ra sao. Cũng để mà nghĩ lại mình.
Kỳ thi tú tài ở Pháp diễn ra một tuần vào đầu tháng 6, và có điều
rất thú vị: ngày đầu tiên là thi triết học cho tất cả các ban khoa học, kinh tế
và xã hội, công nghệ và văn học. Có vẻ như dư luận xã hội đặc biệt chú ý ngày
thi này của các cậu tú cô tú (dự bị). Ngày hôm sau, các báo đưa lại các đề thi,
và nhiều lần tạo nên những cuộc thảo luận rộng rãi rất lý thú. Thí sinh phải trả
lời một trong hai câu hỏi bằng một bài luận ngắn, và viết một bài bình về đoạn
trích một tác phẩm kinh điển được cho. Xin thử kể một số câu hỏi đã được nêu
trong các kỳ thi hai năm vừa rồi (xem bảng).
Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017
Phạm Quỳnh: Tâm Lý Ngày Tết
Phạm Quỳnh (viết bằng tiếng Pháp, 1930)
Người dịch: Nguyên Ngọc
Người dịch: Nguyên Ngọc
![]() |
Học giả Phạm Quỳnh |
Vào những dịp để cả một dân tộc được sống cùng nhau trong
một tình cảm, một ý tưởng chung, cùng một xúc động tập thể, bao giờ cũng hiếm.
Thường đấy phải là những sự kiện quan trọng, có liên quan
ngay đến đời sống của cả cộng đồng, mới có thể tạo nên sự đồng nhất như vậy về
ý nghĩa và rung cảm của mọi người.
Người nước Nam cho cái may mắn được gặp một dịp như vậy
thường kỳ, vào những ngày nhất định, mỗi lần năm mới âm lịch đến. Trong dịp ấy,
tất cả trẻ con Nam Việt, từ đứa giàu nhất đến đứa lạc hậu nhất, cùng đồng cảm
trong niềm trang trọng mơ hồ, vô danh tính, ồn áo, to lớn, độc nhất, gọi là
ngày tết.
Tết cái từ ma thuật dường như chứa đựng niềm vui mênh mông
của cả một dân tộc vô tư và vui vẻ, mỗi lần một năm mới bắt đầu, lại quên bẵng
đi tất cả mọi tai ương và khó khăn của họ đã phải chịu đựng suốt năm qua, và
sẵn sàng khởi đầu lại cuộc sống trong hy vọng và niềm vui!
Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016
Đức Tâm: Nhà văn Nguyên Ngọc: "Giá chúng ta giữ Tây Nguyên như một Bhutan"
Ngọc (ngồi giữa)
chụp hình lưu niệm cùng cô trò trường THPT Nguyễn Hữu Huân - Thủ Đức - những
người quý mến ông qua tác phẩm Rừng Xà Nu - Ảnh: ĐT
Sáng
ngày 17-9, nhà văn Nguyên Ngọc có buổi nói chuyện cùng các bạn trẻ TPHCM về Tây
Nguyên, mảnh đất mà ông đã gắn bó hơn nửa cuộc đời. Câu chuyện nói về Tây
Nguyên nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm trong bối cảnh hôm
nay. TBKTSG Online lược ghi.
Tôi lên Tây
Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này.
Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy
tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống.
Tây Nguyên rất
đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây
Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này.
Nói đến Tây
Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di
sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải
là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian
làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây
Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có,
cũng không còn là văn hóa thật.
Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016
Nguyên Ngọc - Làng mất, rừng chết, đồng bằng hạn hán là đương nhiên
“Từ xa xưa,
và cho đến tận năm 1975, xã hội Tây Nguyên đã tồn tại bền vững trên cơ sở một cấu
trúc xã hội đặc trưng, lấy làng làm đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Làng tồn
tại bền vững trên nền tảng kinh tế, vật chất là quyền sở hữu tập thể của cộng đồng
làng đối với đất và rừng.
Ở Tây Nguyên,
từ xa xưa, hoàn toàn không có rừng vô chủ. Từng tấc rừng đều thuộc về một làng
cụ thể. Người ta gọi đó là không gian xã hội, hay không gian tồn tại của làng
... Chủ trương quốc hữu hóa đất và rừng Tây Nguyên từ sau năm 1975, là tước đi
mất cái nền tảng vật chất của làng. Làng Tây Nguyên tất yếu đổ sụp. Văn
hóa cũng không thể còn, chỉ còn văn hóa diễn và giả.
… Đi đôi với
chủ trương quốc hữu hóa đất và rừng tai hại, là chủ trương đưa dân lên Tây
Nguyên với tốc độ và cường độ quá lớn, khiến dân số Tây Nguyên trong thời gian
ngắn, tăng lên hơn 5 lần, đặc biệt làm cơ cấu dân cư đảo lộn lớn và đột ngột,
hiện nay chỉ còn khoảng 20% người của các dân tộc tại chỗ. 80% đã là người
Kinh. Các dân tộc tại chỗ không còn vai trò chủ thể trong đời sống và phát triển
của Tây Nguyên.
Và hôm
nay, ta đang chứng kiến một trong những hậu quả không thể ngờ: Đồng bằng Nam Bộ,
vựa lúa sống còn của cả nước, đang khô cháy và mặn chát … vì mất rừng Tây
Nguyên!
Một bài học
thật lớn, thật cay đắng, về cả tự nhiên lẫn xã hội!”
Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015
Nguyên Ngọc (*) - Làng Ba-na trong sách Người Ba-na ở Kon Tum của Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi
Lời Tòa soạn DĐTK: Năm 2015, nhân 100 năm ngày sinh của học giả Nguyễn Đổng Chi, Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học tại SG đã chủ trì một Hội thảo khoa học với 32 bản tham luận được công bố (trong cuốn kỷ yếu mang tên 100 năm học giả-nhà văn Nguyễn Đổng Chi) chọn lọc từ 60 tiểu luận khoa học, do giới nghiên cứu, giảng dạy văn học, văn hóa trong cả nước gửi về đóng góp.Nguyễn Đổng Chi (1915-1984), quê quán ở Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh là một học giả nổi tiếng từ trước 1945, với các tác phẩm Mọi Kontum (công trình khảo cứu dân tộc học, biên soạn cùng người anh là BS Nguyễn Kinh Chi, 1937);Việt Nam cổ văn học sử (1942); Đào Duy Từ (giải thưởng của Học hội Alexandre de Rhodes, 1943);Hát dặm Nghệ-Tĩnh (1944)… Trong kháng chiến chống Pháp, ông sống ở vùng tự do Khu IV. Sau hiệp định Genève 1954, ông ra Hà Nội, tiếp tục theo đuổi công việc nghiên cứu và cũng để lại nhiều công trình gây tiếng vang rộng rãi ở cả miền Bắc, miền Nam và ít nhiều ở nước ngoài: Lược khảo về thần thoại Việt Nam (1956); Sơ thảo lịch sử văn học việt Nam (5 tập khổ lớn, viết chung, 1957-1961); Hát giặm Nghệ-Tĩnh (3 tập, viết chung với Ninh Viết Giao, 1961-1963); Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến (1968-1978, chưa in); Văn học dân gian sưu tầm ở Ích Hậu (4 tập, soạn chung với Đoàn Thị Tịnh, 1962-1969, chưa in); Địa chí văn hóa dân gian Nghệ-Tĩnh (Chủ biên, 1979-1983, in 1996); đặc biệt là bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam 5 tập, biên soạn và xuất bản ròng rã trong 25 năm (1957-1982). Ngoài tư cách một nhà văn hóa, Nguyễn Đổng Chi còn là một nhà văn, với tập phóng sự đặc sắc Túp lều nát, phơi bày chế độ hào lý mục nát ở nông thôn xứ Nghệ (1937), và cuốn truyện ký Gặp lại một người bạn nhỏ (1949) kể chuyện cuộc kháng Pháp ở Hà Nội trong những ngày cuối năm 1946 đầu năm 1947 mà ông trực tiếp tham dự.Diễn Đàn Thế Kỷ xin chọn đăng lại một số bài trong những bài tiêu biểu công bố trong hội thảo khoa học nhân 100 năm ngày sinh của học giả Nguyễn Đổng Chi nói trên. Những bài này đều do GS Nguyễn Huệ Chi, trưởng nam học giả Nguyễn Đổng Chi nhã ý gửi cho. Nhân đây xin được cám ơn ông. - Diễn Đàn Thế Kỷ
Năm 2008 tôi có tham gia việc xuất
bản sách Rừng người thượng của Henri Maitre, viết năm 1912, được coi là
công trình khảo sát Tây Nguyên công phu và toàn diện nhất cho đến tận ngày nay.
Sách do Viện Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức ấn
hành. Người dịch là Lưu Đình Tuân, tôi nhận phần hiệu đính và viết “Phàm lệ”.
Có một Ban khoa học được thành lập để xử lý những vấn đề khoa học liên quan đến
việc dịch và in sách. Chúng tôi gặp ngay một vấn đề: trong nguyên bản tiếng
Pháp, sách có tên là Les jungles moi, có thể dịch là Rú mọi hay Rừng
mọi. Ban khoa học cân nhắc, thấy để từ mọi ngay trên bìa sách sẽ dễ
gây sốc, nên quyết định bản dịch ra tiếng Việt sẽ có tên trên bìa là Rừng
người thượng; tuy nhiên bên trong sách thì giữ nguyên từ mọi đúng
như nguyên bản, và sẽ nói rõ lý do trong “Phàm lệ”. Được giao giải thích điều
này trong “Phàm lệ”, tôi đã viết rằng theo tôi từ mọi vốn ban đầu không
hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Ba-na (Bahnar),
có nghĩa là khách. Tôi đã biết từ này khi sống ở vùng Ba-na. Cẩn thận, tôi tìm
tra thêm Từ điển Bahnar - Pháp của Guilleminet; theo Guilleminet tơmoi
được dịch sang tiếng Pháp có các nghĩa sau: hôte (khách), invité d’un autre
village (khách được mời từ một làng khác đến), étranger (lạ, người lạ), ennemi
(thù, kẻ thù), pays étranger (nước khác, ngoại quốc). Những người phương Tây
đầu tiên lên Tây Nguyên là các Linh mục Thiên chúa giáo; khi bị Triều đình nhà
Nguyễn truy đuổi họ tìm đường lên vùng cao nguyên miền Tây để tránh khủng bố,
và truyền đạo vào người bản địa nhằm xây dựng cơ sở lâu dài. Sau nhiều nỗ lực
thất bại, họ đến được vùng người Ba-na ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo
Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và
quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Ba-na Kon Tum đến gặp các nhà
truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu
rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ
bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản
địa.
Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015
Nguyên Ngọc - Lên đường khai phóng!
![]() |
Nhà văn Nguyên Ngọc |
(Diễn từ khai giảng trường Đại học Phan Châu Trinh)
Hôm nay, mồng 9 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm ngày sinh của nhà chí
sĩ, nhà văn hóa và nhà giáo dục kiệt xuất Phan Châu Trinh, cũng là ngày truyền
thống của trường ta, trường Đại học Phan Châu Trinh làm lễ Khai giảng khóa K
15, khóa học 2015-2019. Thay mặt lãnh đạo nhà trường, tôi xin chào mừng và chân
thành cám ơn các vị đại biểu đã đến chia vui cùng thầy trò chúng tôi. Xin chào
mừng tất cả các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các sinh viên và cựu sinh viên
của trường. Và đương nhiên, lời chào nồng nhiệt nhất hôm nay của tất cả chúng
ta là dành cho các tân sinh viên, chào mừng các em nữ và nam từ khắp nơi, có em
từ tận Thái Bình cuối Đồng bằng sông Hồng, có em từ tận Thành phố Hồ Chí Minh
xa xôi, đã đến với không gian Phan Châu Trinh thân yêu của chúng ta. Tôi xin
phép, và tôi tin chắc tất cả quý vị đều đồng ý cho phép tôi hôm nay dành diễn
từ khai giảng này để chủ yếu nói với các tân sinh viên, những thành viên mới mẻ
và trẻ trung của gia đình Phan Châu Trinh.
Thứ Ba, 26 tháng 5, 2015
LIÊU THÁI - NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC: “CHÚNG TÔI KHÔNG COI VĂN HỌC VÀ NHÀ VĂN LÀ CÔNG CỤ CỦA AI HẾT” (TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁO NGƯỜI VIỆT)
![]() |
Nhà văn Nguyên Ngọc |
Thưa nhà văn, là một người thuộc vào hàng “công thần khai quốc” của Hội Nhà Văn Việt Nam, đồng thời cũng là chủ khảo của nhiều giải văn học của Hội Nhà Văn Việt Nam (HNVVN), có thể nói là bề dày cống hiến của ông với HNVVN rất dày. Nhưng ông vừa có quyết định từ bỏ HNVVN, ông vui lòng cho biết nguyên nhân và lý do dẫn đến quyết định này? Và HNVVN đã có phản ứng gì với quyết định cùa ông?
Tôi có dự đại hội thành lập HNVVN năm 1957. Tất cả những người dự đại hội đó đều được coi đương nhiên là “hội viên sáng lập”. Tôi là một kiểu “công thần khai quốc” như thế đấy thôi! Hồi đó tôi còn rất trẻ, từ tỉnh lẻ xa xôi mới ngơ ngác về Hà Nội và vừa có tác phẩm đầu tay. Được vào Hội là thích lắm rồi. Về sau mới dần dần hiểu ra và nghĩ khác.
Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2015
Nguyên Ngọc - Đôi lời: Truyện Ngắn VĂN VIỆT 1 & 2
Cuốn sách này tập hợp một số truyện ngắn được đăng trên Văn Việt, tiếng nói của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, nhân một năm tổ chức này ra đời. Dù Văn Việt đã và đang tiếp tục triển khai nhiều lối tiếp cận khác nhau đối với văn học (kể cả văn hóa) và từ nhiều góc độ (lý luận, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật,…), cố gắng ngày càng phong phú và đa dạng hơn, thì trước mắt và lâu dài, sáng tác vẫn là phần quan trọng nhất. Bởi như nhà tiểu thuyết lớn Milan Kundera luôn khẳng định: Nhiệm vụ của nhà tiểu thuyết là nói những gì và bằng cách chỉ duy nhất có tiểu thuyết mới nói được. Khi nhắc đến tiểu thuyết, Kundera không chỉ nói về một thể loại, ông nói về nghệ thuật ngôn từ. Mục tiêu cao nhất của “một nền văn học đích thực” là có sáng tác hay, cuối cùng phải có sáng tác hay. Cho nên, như một sơ kết nhỏ sau một năm, ở đây là một tập hợp truyện ngắn, một phần của chuyên mục sáng tác.
Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013
Nhà văn Nguyên Ngọc : "Phải dừng ngay dự án bauxite Tây Nguyên"
Nhà văn Nguyên Ngọc
Ảnh minh họa: Một nhà máy bauxite ở Guinée, nơi có trữ lượng bauxite lớn nhất thế giới (Photo : AFP)
Thanh Phương (RFI)
Trong những ngày qua, báo chí chính thức ở Việt Nam đã liên tục đăng tải những thông tin cho thấy là các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên vẫn chưa có lãi và các chuyên gia kinh tế cho rằng, với giá hiện nay trên thị trường thế giới, xuất khẩu alumin là cầm chắc thua lỗ.
Những thông tin nói trên như vậy đã khẳng định một trong những điều mà nhiều nhà trí thức, khoa học, chuyên gia đã cảnh báo từ nhiều năm qua, đó là các dự án khai thác bauxite Tây Nguyên hoàn toàn không có hiệu quả về kinh tế, chưa kể đến những tác hại về môi trường, đời sống, văn hóa và an ninh quốc phòng.
Theo Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam ( Vicomin ), hiện nay, có hai dự án thử nghiệm khai thác bauxite đang được thực hiện ở Tây Nguyên, đó là dự án Tân Rai - Lâm Đồng và dự án Nhân Cơ - Đắk Nông. Nhà máy alumin Tân Rai vào cuối năm ngoái đã chạy thử và ra sản phẩm alumin. Dự kiến sẽ đưa nhà máy này vào hoạt động sản xuất vào quý 2 năm nay. Còn nhà máy alumin Nhân Cơ dự kiến giữa năm 2014 sẽ ra sản phẩm.
Những dự án đã được thực hiện “thí điểm” bất chấp sự phản đối của nhiều trí thức, chuyên gia, bởi vì theo lời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tuyên bố vào năm 2009, khai thác bauxite Tây Nguyên chính là “ chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước “.
Thế nhưng, trên tờ Người Lao Động ngày 20/02 vừa qua, một chuyên gia kỳ cựu của Vinacomin là tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn cho rằng với giá bán khoảng 340 đôla/tấn alumin như hiện nay, nếu chỉ mới tính giá thành sản xuất, thì chắc chắn là Vinacomin sẽ lỗ lớn, còn nếu tính luôn cả chi phí vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi xuất hàng, thì mức thua lỗ càng cao hơn nhiều.
Ban đầu Vinacomin dự định xây dựng cảng Kê Gà ở tỉnh Bình Thuận để làm nơi xuất hàng alumin, nhưng sau gần 5 năm dự kiến và 4 lần tuyên bố khởi công rồi dừng lại, cuối cùng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã buộc phải dẹp hẳn dự án này. Như vậy là hiện nay, vấn đề xây dựng đường vận chuyển bauxite vẫn còn để ngõ.
Mặc dù ai cũng thấy lỗ trước mắt, nhưng tập đoàn Vinacomin vẫn khẳng định là dự án bauxite Tân Rai – Lâm Đồng « sẽ có hiệu quả kinh tế ». Theo Vinacomin, dự án này trước mắt không có hiệu quả kinh tế là do “kinh tế suy thoái, nhu cầu tiêu thụ khoáng sản, và giá các khoáng sản, trong đó có alumin, cũng giảm theo”.
Cũng theo Vinacomin, việc dừng đầu tư dự án cảng Kê Gà hoàn toàn không ảnh hưởng đến 2 dự án bauxite Tây Nguyên, vì trong giai đoạn đầu, khối lượng sản phẩm cần thông qua cảng của 2 dự án này còn thấp, nên Vinacomin trước mắt thuê các cảng ở khu vực Thị Vải - Cái Mép, trong khi chờ “nghiên cứu, lựa chọn” địa điểm xây dựng một cảng mới.
Vinacomin còn biện bạch rằng phải tính đến “hiệu quả kinh tế - xã hội lan tỏa” của các dự án bauxite, cũng như ý nghĩa chính trị, an ninh quốc phòng của các dự án này. Họ khẳng định là dự án thu hút 1.500 lao động địa phương, đóng góp cho ngân sách trung ương và địa phương, tạo điều kiện phát triển công nghiệp và hạ tầng cơ sở cho địa phương và khu vực.
Những lập luận như trên vẫn không thuyết phục được những người đã từng phản đối các dự án khai thác bauxite Tây Nguyên.
Trả lời báo Tuổi Trẻ ngày 23/02, tiến sĩ Hồ Uy Liêm, nguyên quyền chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, đã yêu cầu nên đặt lại vấn đề về khai thác bauxite, bởi vì theo ông “nếu cố làm thì mức lỗ sẽ càng nặng hơn”.
Trả lời RFI Việt ngữ, nhà văn Nguyên Ngọc, một người vẫn rất gắn bó với vùng Tây Nguyên và là một trong những người từ nhiều năm qua vẫn chống việc khai thác bauxite ở vùng này, cũng cho rằng cần phải dừng ngay hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ, không chỉ vì lý do thiếu hiệu quả kinh tế, mà còn vì lý do môi trường và an ninh quốc phòng.
Nhà văn Nguyên Ngọc nhân dịp này kêu gọi chính phủ Việt Nam nên từ bỏ chính sách phát triển chỉ dựa trên khai thác tài nguyên và xuất khẩu nguyên liệu sơ chế, chuyển sang chính sách phát triển kinh tế dựa trên đầu tư vào khoa học công nghệ.
Nhà văn Nguyên Ngọc :
“ Thật ra ý kiến của một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa xã hội không phải là mới. Từ tháng 11 năm 2007 đã có cuộc hội thảo đầu tiên do một số cơ quan như Viện tư vấn phát triển phối hợp với một số anh em đứng ra tổ chức tại Đắk Nông.
Cuộc hội thảo đó đã đặt ra những vấn đề hết sức căn bản về chương trình bauxite. Đến năm 2008, có một cuộc hội thảo tiếp theo cũng ở Đắk Nông.
Trong các cuộc hội thảo đó, chúng tôi đã phát biểu một số ý kiến cho rằng dự án bauxite ở Tây Nguyên là không ổn. Mấy hôm nay, báo chí nói nhiều hiệu quả kinh tế của dự án này. Nhưng thật ra thì chúng tôi đã nói điều đó ngay từ đầu. Năm 2009, tôi cùng với anh Nguyễn Thành Sơn có viết một bài nêu lên 10 lý do không nên làm bauxite ở Tây Nguyên, trong đó có lý do kinh tế.
Đến bây giờ chúng ta biết là làm bauxite ở Tân Rai thì giá thành sẽ cao hơn là giá bán ngay tại cửa nhà máy, tức là 40 đôla/tấn, chưa kể khi vận chuyển xuống cảng thì giá còn cao hơn nhiều. Nếu nhà máy đó chạy hết công sất 600 ngàn tấn, thì mỗi năm sẽ lỗ hơn 200, 300 triệu đôla.
Như vậy là 10 lý do không nên làm bauxite mà chúng tôi nêu ra bây giờ bắt đầu bộc lộ ra. Thực ra thì trước vấn đề hiệu quả kinh tế, đã bộc lộ một vấn đề khác, đó là giao thông. Về cảng Kê Gà thì chúng tôi đã đến tận nơi để nghiên cứu, rồi sau đó có đi ngược con đường từ cảng này lên Tân Rai, tức là đường 28, để xem đường đó có thể vận chuyển bauxite được không. Sau đó, chúng tôi có thăm dò con đường ở phía Nam là đường 55, rồi theo dõi việc chuyển sang đường 20, tức là đường từ Đà Lạt về. Lúc đó chúng tôi đã cho dự án cảng Kê Gà là không thể thực hiện được. Không thể vận chuyển qua đường 28, đường 55 được, còn đường 20 thì không thể chịu đựng được xe chở bauxite trọng tải 40 tấn.
Còn một loạt những vấn đề khác nữa, có khi còn nghiêm trọng hơn, ví dụ như môi trường. Trong một cuộc hội thảo gần đây về Tây Nguyên, tôi cho rằng rừng ở Tây Nguyên “đã vượt ngưỡng rồi”, tức là đã vượt qua cái ngưỡng không thể khôi phục được. Có nghĩa môi trường là vấn đề rất quan trọng. Về xã hội thì đời sống ( Tây Nguyên) bị đảo lộn. Còn một vấn đề hết sức quan trọng đó là an ninh quốc phòng ở Tây Nguyên, phải xem dự án bauxite ảnh hưởng xấu như thế nào.
Hiện nay, sau vụ dự án cảng Kê Gà phải dừng lại, những vấn đề kinh tế mới bộc lộ ra, cho nên dư luận xã hội xôn xao về chuyện này. Tôi nghĩ rằng sắp tới đây, những hậu quả đã được cảnh báo sẽ tiếp tục bộc lộ. Như vậy, đến lúc không thể nào im được nữa rồi. Tôi cho rằng đây là một bước quan trọng.
Chúng tôi muốn đề nghị dừng luôn dự án Nhân Cơ, hiện đang làm lở dở. Nếu làm tiếp Nhân Cơ thì cả Nhân Cơ và Tân Rai thì mỗi năm sẽ lỗ khoảng 600, 700 triệu đôla. Dự án Tân Rai rồi thì cũng nên dừng lại và trong dịp này rà lại toàn bộ dự án bauxite Tây Nguyên.
RFI : Tức là càng dừng dự án đó sớm thì càng đỡ thiệt hại?
Nhà văn Nguyên Ngọc: Thật ra cách đây hai năm chúng tôi đã có ý kiến dừng Tân Rai lại, tại lúc đó chúng tôi đã thấy bộc lộ những vấn đề, ví dụ như hiệu quả kinh tế, đặc biệt là giao thông vận tải, thấy rất rõ. Lúc đó, thậm chí có một số anh em nói một cách hình tượng: “Nếu làm alumina ở Tân Rai, có khi phải đào đất để chôn lại, chứ không chở đi được!”.
Có cái đặc biệt là trong dự án này, TKV lại không đưa chi phí vận tải vào giá thành. Nếu mà dũng cảm và sáng suốt dừng Tân Rại lai thì lúc đó chỉ lỗ khoảng 200 triệu đôla. Từ đó đến giờ hơn 2 năm rồi, tổn phí của cái trễ hai năm đó đã lên đến gần 400 triệu đôla. Nếu chạy hết công suất 600 tấn/năm thì mỗi năm sẽ lỗ khoảng 300 triệu đôla.
Sau những phản biện, kiến nghị như vậy, lãnh đạo Bộ Chính trị và chính phủ đã quyết định làm thí điểm Tân Rai và Nhân Cơ (Lúc đầu, họ định làm rất lớn và rất nhanh, triển khai tràn lan khắp cả Đắk Nông, Lâm Đồng và cả phía Gia Lai nữa).
Nhưng ngay cả làm thí điểm Tân Rai và Nhân Cơ cũng đã có ý kiến (phản đối) về công nghệ và khoáng sản dùng ở hai nơi đó. Hơn nữa, điều kiện của Tân Rai và Nhân Cơ giống nhau, nếu làm thí điểm thì làm một nơi, chứ sao lại làm hai nơi?
Bây giờ những gì được cảnh báo đã bộc lộ ở Tân Rai, thế thì theo tôi nơi dừng ngay cái thí điểm này, còn Nhân Cơ đang lở dở thì không làm nữa.
RFI : Nhưng các lãnh đạo ngành khoáng sản và than vẫn khẳng định là dự án Tân Rai trước mắt bị lỗ, nhưng sau này sẽ có hiệu quả kinh tế. Theo ông tuyên bố này tai hại như thế nào?
Nhà văn Nguyên Ngọc : Tôi có đọc những tuyên bố đó. Bây giờ chỉ nói riêng Tân Rai thì chắc chắc về hiệu quả kinh tế là lỗ, mà cái đó là chưa tính chi phí vận tải vào đầu vào. Nếu làm con đường đi đến cảng Vĩnh Tân thì hầu như phải làm một con đường mới hoàn toàn, còn nếu nâng cấp đường 20 ( từ Đà Lạt về ) thì cầu La Ngà trên con đường đó chỉ có thể chịu đựng một trọng tải tối đa là 25 tấn thôi, trong khi xe chở bauxite trung bình có trọng tải 40 tấn. Vừa rồi thậm chí có một số xe chở nguyên vật liệu lên nhà máy và chở bauxite về được kiểm tra có trọng tải lên tới 45 tấn. Nếu tính vận chuyển vào thì càng lỗ nữa.
Về mặt kinh tế, còn một vấn đề nữa đó là chỉ có một nơi mua, tức là chỉ có Trung Quốc mua chứ không có ai khác. Chúng ta biết rằng trong buôn bán nếu chỉ có một người mua thì rất nguy hiểm, vì họ có thể dìm giá, cho dù giá thế giới có lên xuống thế nào. Hoặc nếu họ dừng lại, không mua nữa thỉ gay go vô cùng. Như vậy, chắc chắn là không có chuyện cứ làm tới đi rồi sẽ có hiệu quả kinh tế. Theo tôi nói như thế là nói bừa.
RFI : Ông có tin rằng với những thông tin trên báo chí trong những ngày qua, với những ý kiến mới của các chuyên gia, các nhà trí thức, liệu chính phủ có sẽ chấp nhận nghe theo những lời cảnh báo đó để dừng các dự án bauxite hay không?
Nhà văn Nguyên Ngọc : Theo tôi, ngay cả việc dừng hai dự án ở Tân Rai và Nhân Cơ cũng đã khó khăn cho những người đã chủ trương làm. Tôi nghĩ là ngay cả TKV cũng không tha thiết với chuyện ấy đâu, vì làm như vậy rất khó khăn và lỗ. Bây giờ, phải mạnh dạn, dũng cảm dừng lại ( hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ ) và qua đây, rà lại toàn bộ dự án bauxite Tây Nguyên.
Ý kiến của riêng tôi ngay từ đầu vẫn là không thể làm bauxite ở Tây Nguyên, ít ra là trong thời điểm hiện nay, trong vòng 30, 50 năm tới. Còn sau này nếu có những công nghệ mới, khai thác mà không gây ra những ảnh hưởng lớn, thì lúc đó tính sau.
Thật ra, vấn đề bauxite có liên quan đến vấn đề quan trọng hơn, đó là chiến lược phát triển. Vấn đề bauxite Tây Nguyên thể hiện rất rõ môt chính sách phát triển chủ yếu là dựa trên khai thác tài nguyên, thậm chí là tài nguyên thô. Ở Việt Nam, bauxite chỉ mới làm được đến giai đoạn alumina, vì từ alumina đến nhôm tốn kém rất nhiều điện năng.
Theo các chuyên gia, kinh nghiệm trên thế giới cho thấy là những nước có giá điện dưới 3,5 cent thì mới có thể làm nhôm được, nếu trên 3,5 cent thì lỗ nặng. Ở Việt Nam, bán alumina chỉ là bán nguyên liệu sơ chế. Một chiến lược phát triển chỉ dựa trên khai thác tài nguyên thì rất nguy hiểm, không bao giờ đi đến được công nghiệp hóa.
Theo tôi, dư luận về vấn đề bauxite cần phải mạnh mẽ hơn nữa để, vì quyền lợi của đất nước, vì phát triển kinh tế của đất nước, đi đến dứt khoát dừng dự án này lại.
RFI : Xin cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc.
Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012
André Menras Hồ Cương Quyết - Lối thoát duy nhất: phải kháng cự
André Menras Hồ Cương Quyết
Nguyên Ngọc dịch
Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
Lại một công hàm ngoại giao, lại những tiết lộ muộn mằn của các nhà chức trách cấp cao thú nhận với công dân về những sự kiện liên quan đến toàn dân và sự sống còn của quốc gia, khi sự đã rồi? Những thất bại liên tiếp lặp lại của một chính sách ngoan cố, qua nhiều biểu hiện, đã chứng tỏ là phản quốc! Mọi sự cho thấy cứ như Bắc Kinh trong chính sách của họ, chuyển từ món gặm nhấm sang lối xe lăn nghiền nát, đã có tay trong của họ trong ruột Việt Nam, ở cấp cao nhất của ĐCSVN, đặng có thể, như bọn mật thám trong một cuộc thẩm vấn, chơi trò hết mềm lại rắn, giả bộ bất bình để càng dễ nhét liều thuốc đắng vào họng nạn nhân và kiềm chế những người phẫn nộ. Tôi vừa đọc được trên một trang web ý kiến của độc giả, thoạt trông có vẻ chẳng có gì quan trọng, nhưng đặt trong ngữ cảnh này không khiến tôi ngạc nhiên. Ý kiến ấy như sau:
3h35′: Độc giả Hoàng Việt Thắng cho biết: “Tôi vừa điện thoại và nghe người bà con ở Bình Sơn, Quảng Ngãi, nói ngư dân ra khơi được biên phòng và chính quyền địa phương ‘căn dặn’ là cần để ý, nếu thấy tàu Trung Quốc (không nói rõ là tàu dân hay tàu chính phủ) thì cố gắng ‘tránh voi chẳng xấu mặt nào’. Nghe xong, tôi có cảm giác ngư dân ta bị chính các cơ quan chức năng của Việt Nam coi như những tên ăn trộm khi họ đánh bắt trên lãnh hải của ta, còn kẻ ăn cướp đã được chính quyền trao cho vị thế người chủ”.
Quả đúng là như vậy đấy, cảm nhận chung được chia sẻ rộng rãi trong chiều sâu nhất của nhân dân Việt Nam!
Mặc xác các cuộc đấu đá nội bộ vì quyền lực của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Ta đã quá biết trái núi đẻ ra một con chuột nhắt, như cách nói của một người bạn. Điều khủng khiếp là không một người lãnh đạo nào của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối không một người nào, trong giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng của cuộc leo thang ngày càng ráo riết của Trung Quốc, đã lên tiếng một cách rõ ràng chống hành động đó. Và nhất là không một người nào chủ trương những biện pháp cụ thể đế ngăn chặn, để “quốc tế hóa” hành động đó, kiên quyết đưa nó lên diễn đàn quốc tế. Hoàn toàn ngược lại! Vào lúc Bắc Kinh tung ra hộ chiếu “đường lưỡi bò” ngạo nghễ và sỉ nhục, vào lúc các nhà cầm quyền Hải Nam thông báo từ đầu tháng giêng 2013 sẽ tiến hành đơn phương kiểm soát tất cả tàu thuyền “nước ngoài” “xâm nhập” khu vực “đường lưỡi bò”, đương nhiên trước hết là nhằm vào Việt Nam, vào lúc lại xảy ra vụ tấn công mới của các tàu giả danh đánh cá đối với tàu Bình Minh 02… thì những người tự giành riêng cho mình quyền bảo vệ đất nước làm gì?
Họ tiếp các đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc và chúc tụng nhau. Không còn là ngoại giao. Chỉ là những pha của cùng một một trò hề bi thảm ấy! Những khúc đoạn ác mộng đối với mọi công dân sáng suốt yêu nước mình.
Bộ trưởng Quốc phòng tiếp đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc và ca ngợi sự hợp tác mẫu mực giữa Bắc Kinh và Hà Nội: «Bộ trưởng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần bốn tốt… Bộ trưởng khẳng định chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam là Việt Nam… không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác». Cứ như là ta đang nằm mơ: Trung Quốc chẳng phải là một nước ngoài ư? Chẳng phải nó đang tự phong cho mình quyền thiết lập các căn cứ quân sự tại Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam? Những lời nói của ông Bộ trưởng Quốc phòng là nói về phòng thủ QUỐC GIA của Việt Nam hay của Trung Quốc? Trò hề bi thảm!
Tổng bí thư ĐCSVN tiếp đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Trung Quốc và ca ngợi sự hợp tác toàn diện và mẫu mực của hai đảng anh em, là đảm bảo cho tình hữu nghị và chủ nghĩa xã hội. «Về quan hệ Việt-Trung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh rằng quan hệ hai Đảng, hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai nước dày công vun đắp, nay đã trở thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện… Hai bên cũng đã trao đổi ý kiến về những biện pháp tăng cường quan hệ song phương giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam-Trung Quốc trong thời gian tới». Rõ ràng trao đổi này là có lợi… nhưng … lại một lần nữa, chỉ lợi cho đồng chí Tàu. Trò hề bi thảm!
Thủ tướng tiếp Bộ trưởng công an Bắc Kinh: «Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa Bộ Công an hai nước trong thời gian qua, nhất là phối hợp trong phòng chống tội phạm ở khu vực biên giới Việt Nam-Trung Quốc». Ngài nói “biên giới” ư? Biên giới nào vậy? Lãnh thổ toàn vẹn của không gian biển chăng? Không biết. Vùng đặc quyền kinh tế chăng? Không biết. Bộ trưởng công an của một chế độ ăn cắp, bất hợp pháp, bàn tay còn nóng hổi trong túi người ta, đã được đón tiếp như là đối tác cứu rỗi bởi người đại diện của đất nước bị ăn cắp: lại thêm một trò của ngài Thủ tướng dường như đã quên bẵng tuyên bố trang trọng và vang dội của chính ông ta trước Quốc hội chưa đầy một năm trước… Trò hề bi thảm! Dù sao đi nữa các sự kiện đầy tính ác mộng được báo chí chính thống trưng lên hàng đầu đó chẳng hề kích thích được chút hành động kháng cự nào! Mọi sự đều tốt đẹp mà, hỡi các công dân yêu quý! Chúng tôi toan liệu tất. Đừng lo.
Mọi sự diễn ra cứ như là chẳng phải trông cậy vào những người lãnh đạo ấy để bảo vệ đất nước. Chính sách chung nhất quán mà họ áp đặt một cách đồng bộ, bất chấp những vòng vo và những mâu thuẫn nội tại thứ yếu của chúng, là một chính sách từ bỏ chủ quyền quốc gia, cúi đầu trước xâm lược của Trung Quốc và đàn áp sự kháng cự của nhân dân. Nó gây thảm họa cho hiện tại và tương lai của Việt Nam vốn chủ yếu sẽ được quyết định trên biển.
Chẳng cần phải chờ đợi gì thêm nữa: Bắc Kinh sẽ tiếp tục, sẽ tăng tốc. Đấy là điều đã được báo. Là điều chắc chắn! Bắc Kinh sẽ gây đổ máu, máu Việt Nam: đấy là điều đã được ghi đậm ngay trong bản chất chính sách của họ. Và cái đám ca sĩ giọng nam cao người Việt hót vang tình hữu nghị bất diệt giữa hai đảng “cộng sản”, những “4 tốt” với lại “16 chữ vàng”, những ông vua về thái độ “mũ ni che tai” và những nhà vô địch về im lặng đồng lõa sẽ đừng hòng mà còn chùi sạch tay: tên tuổi của bọn chúng, của gia đình chúng sẽ mãi mãi được khắc ghi vào những trang đen tối nhất của lịch sử Viêt Nam. Về thời gian rất gần với những trang vinh quang mà họ đã từng có thể góp tay viết nên, còn về phần mình nhân dân Việt Nam không bao giờ quên.
Hơn bao giờ hết đối với mỗi người Việt Nam xứng đáng mang danh xưng đó, danh dự lúc này là nói không với cái chính sách tự vẫn kia và nói có với các kiến nghị, các cuộc biểu tình, các cuộc xuống đường, bất chấp đàn áp. Ở Hà Nội, ở Sài Gòn, ở Huế, khắp từ Bắc đến Nam đất nước, khắp mọi nơi ở Việt Nam. Hãy hành động thật đông đảo, thật tự nguyện kỷ luật và kiên định, không để cho bọn khiêu khích đủ loại gây sự, để chứng tỏ với Bắc Kinh và với những người bạn của Việt Nam ở châu Á, ở Trung Quốc, ở Nhật Bản, ở Philippines, ở Ấn Độ, và trên toàn thế giới rằng dân tộc việt Nam không cúi đầu, không chấp nhận điều không thể chấp nhận, không muốn, mãi mãi không muốn một nền hòa bình Trung Hoa. Như Chủ tịch Trương Tấn Sang đã nói về đấu tranh chống tham nhũng, có thể bỏ tù vài ba người nhưng không thể bỏ tù hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu công dân hòa bình!
Từ nay không có gì có thể cứu được nước Việt Nam và nhân dân của nó ngoài cuộc kháng cự đối mặt với mối hiểm nguy ngày càng tăng, tức thì mất biển, mất đảo, mất nước. Phải tiến hành cuộc kháng cự ấy ngay bây giờ, và liên tục, nhất thiết không thể tránh, cùng với những người lãnh đạo hay không có họ, điều ấy thùy thuộc ở họ. Đây là vấn đề sống còn.
A.M. H.C.Q.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012
Những quyền lực của bóng tối hay một bóng tối đầy quyền lực
André Menras Hồ Cương Quyết
Nhà văn Nguyên Ngọc dịch
Vừa mới trở về Pháp, tôi nhận được tin buồn, gây sốc, đáng lo, trĩu nặng đe dọa đối với giai đoạn đang mở ra ở Việt Nam: bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của nữ blogger Tạ Phong Tần đang bị chế độ truy nã và bỏ tù, đã tự thiêu trước trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố.
Trước nay tôi đã quá biết ở Việt Nam có những lực lượng của bóng tối và đàn áp. Nhưng tôi không lường được hết tầm rộng lớn của chúng. Tôi cũng không lường được sức tàn phá của áp lực tâm lý hàng ngày mà một hay nhiều cơ quan công an được vài dân quân ở quận hay phường giúp sức, cùng một số phần tử gây rối gần với bọn lưu manh hơn là người lương thiện có thể tác động lên những công dân bình thường chỉ có mỗi cái tội duy nhất là muốn bảo vệ đất nước mình chống ngoại xâm, tham nhũng và đàn áp bạo tàn.
Kinh nghiệm gắn liền với cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ đất nước Việt Nam thân yêu của tôi chống Trung Quốc xâm lược đã cho tôi biết một cách trực tiếp và cụ thể cái nằm bên dưới đáng lo và đáng sợ của một hệ thống chính trị đầy những vùng tối. Ở đấy, người ta khủng bố một cách bí mật trong sương mù của tình trạng vô pháp luật, hay hại người công khai. Người ta cách ly về thể xác hay bằng sợ hãi những người dám nói lên và bày tỏ sự bất bình và lòng yêu nước của mình, ra khỏi gia đình, bạn bè của họ. Tôi đã khám phá ra những gì nằm bên dưới một hệ thống chính trị trong đó theo dõi về thể xác và thường xuyên những công dân lương thiện va bình thường, nghe lén điện thoại di động, kiểm soát liên lạc internet, tịch thu máy vi tính, điện thoại di động, cấm họ thuê nhà, bắt và bỏ tù một cách bí mật, kéo dài tùy thích thời gian giam giữ và chậm đưa họ ra trước “công lý”: tất cả những xâm phạm nghiêm trọng đến cá nhân, tài sản và tự do của họ ấy ngày càng trở thành tự nhiên, thậm chí là chuyện vặt. Trong mọi trường hợp luật pháp chân chính đều bị nhạo báng. Các vi phạm đó được thực hiện ngay tại chỗ, tùy tình huống, tùy ý thích của các nhà cầm quyền chính trị và các lực lượng gọi là “an ninh”. Không được phép có bất cứ sự kiểm soát nào và đòi hỏi một sự kiểm soát như vậy sẽ là nguy hiểm.
Việc cấm chiếu một cách thô bạo bộ phim của tôi bày tỏ tình đoàn kết với ngư dân bị tổn thương hồi tháng 11 năm 2011 (1), những ngăn trở lặp đi lặp lại mới đây không cho chiếu bộ phim hoàn toàn chính thức “André Menras: một người Việt” ở Sài Gòn (2), việc công khai theo dõi những người bạn của tôi: Cao Lập, Lê Công Giàu, Huỳnh Tấn Mẫm, Hạ Đình Nguyên… và những uy hiếp bất thành văn nhưng rõ ràng mà các biện pháp ấy chứng tỏ: tất cả những cái đó nằm trong một hệ thống có mục tiêu chính là tìm mọi cách làm nản lòng cuộc kháng cự ái quốc chống lại xâm lược của Trung Quốc và việc tổ chức cuộc kháng cự ấy. Tôi nói rõ hai chữ ái quốc và tôi thách bất cứ kẻ nào trong các thế lực của bóng tối đã đàn áp chúng tôi, trong số những kẻ thậm chí đã không đủ can đảm xưng rõ danh tính dưới những văn bản công khai để biện hộ cho các lệnh cấm của họ, tất cả những kẻ ấy hãy thử chứng minh rằng chúng tôi không yêu nước. Tôi không cho phép họ dạy chúng tôi những bài học yêu nước. Chúng tôi đã là những người yêu nước, chúng tôi đang là những người yêu nước, và sẽ mãi mãi là như vậy! Mục đích duy nhất của chúng tôi là bảo vệ Việt Nam, bảo vệ đất nước này chống lại một cuộc xâm lược hiển nhiên.
Những lý lẽ chính thống lảm nhảm đã được dùng ngay từ đầu để chống lại chúng tôi và lấy làm lý do cho những cấm đoán, theo dõi và đàn áp có thể được diễn đạt như sau: “Chớ làm bất cứ điều gì có nguy cơ khiến lãnh đạo Trung Quốc không bằng lòng và tạo điều kiện cho họ có những hành động trả đũa mạnh mẽ và bành trướng đối với Việt Nam. Phản đối, biểu tình, kháng cự là đẩy Việt Nam vào chỗ nguy hiểm. Cần im lặng và chịu đựng! Hãy để cho các thế hệ mai sau giải quyết những vấn đề này. Đây không phải là việc của các người. Đừng làm phức tạp thêm việc của lãnh đạo. Hãy tin tưởng ở lãnh đạo. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải có biện pháp chống lại các người để bảo vệ đất nước”. Chính bằng các lý lẽ quanh co đó và nhân danh “ổn định chính trị” mà một số nhà cầm quyền đã biến những người yêu nước chân chính thành mối uy hiếp đối với hòa bình và an ninh, khiến họ trở thành những phần tử phải kiểm soát, phải trấn áp, phải vô hiệu hóa hay, trắng trợn hơn, phải loại trừ khỏi đời sống xã hội. Cái vòng lẩn quẩn đã khép lại!
Nếu vào những thời đầu quan điểm đó có được một số người lãnh đạo yêu nước chia sẻ một cách lương thiện vì nó phù hợp với một tình thế khi Việt Nam còn tương đối bị cô lập, còn yếu, rất phụ thuộc Trung Quốc, thì ngày nay đã trở thành không thể biện minh, không thể bênh vực. Việt Nam không còn cô lập trước các tham vọng của Bắc Kinh. Một mặt trận chung chống bành trướng đã hình thành do phản ứng lại với các cuộc gây hấn của Trung Quốc ở Nhật Bản, ở Hàn Quốc, ở Philippines, ở Hoa Kỳ, ở Nga, ở Ấn Độ, ở New-Zealand, ở Úc. Khắp thế giới, và ngay cả ở Trung Quốc, dư luận công chúng đã nhận ra bản chất thật của chế độ Bắc Kinh và mối hiểm nguy nó gây ra cho hòa bình, an ninh và phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Dư luận công chúng ở Việt Nam bị khóa miệng quá lâu vẫn không bị khuất phục. Trái lại trên nhiều mặt nó đã gia tăng sức kháng cự nhờ có các phương tiện thông tin hiện đại, không thể kiểm soát. Luật Biển được thông qua ở Quốc hội là một trong những kết quả tốt đẹp nhìn thấy được của sự thúc đẩy trên tầm cỡ quốc gia và quốc tế ấy của nhân dân nhằm bảo vệ quyền của các dân tộc và quyền con người bị Bắc Kinh và những kẻ phục vụ chính sách của họ công khai uy hiếp.
Tôi đã nhiều lần nói và viết rồi: Chính sách cúi đầu và những tháo lui liên tục là một thất bại nặng nề, một trách nhiệm nặng nề và tội lỗi của những kẻ đã áp đặt nó trong nhiều năm ở Việt Nam. Năm này sang năm khác, đối với những phản đối một cách hình thức mà lại thụ động hoàn toàn trên thực tế của phía Việt Nam, lãnh đạo Bắc Kinh chỉ có lấn tới, sáp nhập, củng cố, tổ chức, khiêu khích và chuẩn bị những vụ sáp nhập hung bạo mới... Cho đến giai đoạn Scarborough mới đây, họ càng làm điều đó ngày càng dễ dàng vì không gặp bất cứ kháng cự nào, mà lại còn luôn được ban tặng “16 chữ vàng” với lại “4 tốt” ngay cả khi họ ngược đãi, bỏ tù và làm tan gia bại sản ngư dân của chúng ta. Một số lãnh đạo cấp cao của Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục cái trò diễn dối trá và thảm hại đó với các đồng sự Trung Quốc của họ trong khi một hải đội Trung Quốc gồm 23000 tàu bán vũ trang rời đảo Hải Nam đi xâm chiếm tài nguyên và không gian Biển Đông Nam Á!!! Những người từng thành thật tin tưởng ở thiện chí của Trung Quốc thì nay đã thấy rõ cái hố ngăn cách giữa lời nói hòa bình và hành động chiến tranh của họ. Những người ấy chẳng có chút lý do danh dự nào nữa để còn nấn ná mãi trong thụ động hay im lặng. Họ thấy rõ những người lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tiếp tục cuộc bành trướng hung bạo giày xéo lên luật pháp quốc tế, lên các quyền của các dân tộc láng giềng, và cả của chính dân tộc họ.
Bọn diều hâu Bắc Kinh đã quyết dấn tới. Họ đã tuyên bố rõ ràng điều đó với toàn thế giới. Họ sẽ còn dấn tới nữa, dù chiến lược được sử dụng của họ là gì (bằng lực lượng quân sự công khai hay bằng đặc công giả dạng ngư dân) và cuối cùng sẽ làm đổ máu những người vô tội, những công dân Việt Nam hay các nước khác, như họ đã làm hồi 1974 và 1988. Họ sẽ không bao giờ ký COC để bị cột chặt vào luật đàm phán đa phương trên cơ sở Công ước của Liên Hiệp Quốc về chủ quyền trên biển mà họ đã ký. Đạo luật duy nhất của họ là luật của kẻ mạnh hơn, mà họ nhầm to tưởng họ đã có. Tất cả đã quá hiển nhiên.
Chỉ có một cuộc kháng cự thích đáng và thống nhất mới có thể đánh bại các ý đồ đen tối của bọn chúng. Sức kháng cự đó nhất thiết phải xuất phát từ nhân dân Việt Nam, không có nhân dân ấy thì những người lãnh đạo chẳng là gì cả. Sức kháng cự ấy cũng phải đến từ dư luận công chúng quốc tế. Vậy mà hiện nay một số người lãnh đạo đang làm gì? Họ đã cho phép những lực lượng của bóng tối do họ hay không do họ điều khiển làm những gì? Họ đàn áp, truy nả những người yêu nước ưu tú nhất, có ý thức mạnh mẽ và dũng cảm nhất. Họ đập vỡ một sự thống nhất vừa hình thành duy nhất có thể cứu đất nước. Thay vì nuôi dưỡng lòng tin, họ thiết lập sự sợ hãi. Thay vì tổ chức một sự kháng cự đông đảo, họ khuyến khích sự chia rẽ. Thay vì làm sống lại quá khứ để phục vụ hiện tại, họ gợi lại quá khứ để càng vùi sâu nó hơn trong các bảo tàng phủ bụi.
Tôi nói điều này với niềm lo lắng và nỗi buồn sâu sắc: ở Việt Nam đang có cánh cộng tác thật sự với Trung Quốc. Tôi dùng từ “cộng tác” theo nghĩa tiêu cực nhất. Cái nghĩa mà những người yêu nước của Pháp đã dùng trong thời thế chiến thứ hai để chỉ những người Pháp đứng về phe bọn chiếm đóng phát-xít chống lại cuộc kháng chiến của Pháp. Cái cánh Việt Nam cộng tác với Tàu này khá mạnh. Nó không xưng danh. Hành động sau lưng luật pháp. Điên cuồng chống lại mọi cải cách dân chủ, mọi sự lên tiếng của dân chúng. Nó đánh lén. Nó không do dự dựa vào bọn côn đồ. Theo lối Tàu.
Thật khủng khiếp cho nhân dân Việt Nam khi không còn lựa chọn nào khác ngoài cách hoặc là co rúm lại trong sợ hãi và hổ thẹn, hoặc là bước vào kháng cự, một cuộc kháng chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới. Những người yêu nước dấn mình vào cuộc kháng chiến này và sẽ dấn mình vào ngày càng đông, theo gương tổ tiên và tự dọn mình cho những hy sinh mới chống lại kẻ thù bên ngoài và bên trong. Quả là tấn bi kịch của Việt Nam phải sống bên cạnh Trung Hoa!
Đàn áp chỉ làm cho kháng chiến thêm vững mạnh. Mưu đồ chia rẽ lại đưa đến kết đoàn mạnh bơn. Mưu đồ cô lập lại thúc đẩy công cuộc tổ chức. Bởi vì sự nghiệp của những người yêu nước Việt Nam là chính nghĩa, hợp pháp và đã là một tiến trình sống còn khắc sâu trong lịch sử và văn hoa Việt Nam. Không gì có thể ngăn cản nó lên tiếng. Cuộc kháng cự đó cũng quyết liệt chống lại những lực lượng của bóng tối đang tạo điều kiện cho xâm lược của ngoại bang: không thể có ổn định chính trị trong cộng tác! Không bao giờ! Các lực lượng của bóng tối rất đáng sợ đó cũng bị đại đa số nhân dân khinh bỉ. Chúng còn nặng tội hơn cả chính bọn xâm lược là những kẻ còn có thể viện cớ vì quyền lợi của đất nước chúng trong chính sách bành trướng; còn đám cộng tác Việt Nam chỉ có một biện minh duy nhất là lợi ích riêng đen tối của chúng, chống lại lợi ích của chính nhân dân mình.
Còn có cách gọi nào khác hơn là “bọn cộng tác” những kẻ chịu trách nhiệm về việc cho nhiều thế hệ các công ty nước ngoài, thường là Trung Quốc, thuê hàng nghìn hecta đất ở những khu vực chiến lược của đất nước; những kẻ đem bán tống tháo một cách đáng xấu hổ cho Trung Quốc các tài nguyên thiên nhiên và năng lượng quốc gia; những kẻ cho phép hàng hóa Trung Quốc tràn ngập và bóp chết, phá hoại thị trường nội địa; những kẻ đem dâng cho tuyên truyền của Bắc Kinh các phương tiện truyền thông của Việt Nam; những kẻ thêm một ngôi sao (Việt Nam) lên lá cờ Trung Quốc trong dịp các sự kiện chính thức, lén dời các cột mốc biên giới, xóa trọn những hàng chữ dài trên các tấm bia ghi nhớ các cuộc xâm lược của Trung Quốc; những kẻ lén lút ngăn cấm thô bạo việc tưởng niệm các anh hùng ngã xuống trên biển đối mặt với hải quân Trung Quốc hay trên đất liền đối mặt với quân đội của họ hay quân đội bù nhìn của họ; những kẻ để hàng chục nghìn công dân Trung Quốc xâm nhập và cư trú một cách bất hợp pháp, rồi không có bất cứ sự kiểm soát nào có thể tiến hành những hoạt động chẳng chút liên quan đến lợi ích của đất nước; những kẻ từ nhiều năm qua cho phép các tổ chức lưu manh của Trung Quốc làm giàu trên lưng nhân dân Việt Nam bất chấp luật pháp của Việt Nam, làm ô nhiễm môi trường, đe dọa sức khỏe công cộng (vụ nuôi trồng ở Cam Ranh, vụ “bác sĩ” Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh) v.v. và v.v.
Đàn áp những người yêu nước, các lực lượng của bóng tối bảo vệ và nuôi dưởng căn bệnh ung thư chính trị, kinh tế và xã hội này. Cho phép nó duy trì và phát triển. Dù muốn dù không cuộc chiến đấu yêu nước hôm nay đã đi đến chỗ hòa làm một với cuộc chiến đấu chống tham nhũng và vì dân chủ, để một lần nữa cứu đất nước. Tất cả các cuộc chiến đấu đó gắn liền với nhau như môi với răng. Nếu thái độ của những người lãnh đạo Việt Nam xứng đáng với tên gọi đó, nếu các lực lượng trong sạch và yêu nước trong Đảng Cộng sản Việt Nam, công an, quân đội không tỉnh thức để nhổ tận rễ đám cỏ dại sinh ra từ cộng tác với Trung Quốc và được nó nuôi dưỡng, nếu lực lượng đó không gắn chặt với nhân dân để chặn đứng những hành xử gần như mafia đang tồn tại trên hàng chục khu vực vô pháp luật của lãnh thổ đất nước, thì Việt Nam sẽ đi vào một thời kỳ chia xé đau đớn. Đã dến lúc thực hiện cuộc cách mạng của sự tinh sạch và sáng tỏ dân chủ!
Để kết luận, tôi muốn trở lại trường hợp tự thiêu nhắc chúng ta đau đớn nhớ lại những năm đen tối và những năm then chốt của Lịch sử Việt Nam. Cuộc tự sát này không diễn ra ở một nơi bất kỳ nào, mà là ngay trước trụ sở của nhà cầm quyền địa phương. Rõ ràng qua đó người chết muốn nói rằng đây là kết quả cả một phẫn nộ, một bất công khổng lồ, một niềm tuyệt vọng mênh mông mà các nhà cầm quyền phải chịu trách nhiệm phần lớn. Cuộc tự sát này là một cuộc tự sát xã hội, chính trị, không phải là tự sát vì rối loạn tâm thần. Khi một hệ thống đẩy các công dân đến mút đường cùng như vậy thì phải hỏi: Hệ thống đó có thể tồn tại lâu dài như vậy chăng? Tôi nghĩ rằng khi một phong trào, dù không có tổ chức, bắt đầu có những người tử vì đạo, hệ thống đó phải thay đổi, hoặc là nó sẽ biến mất. Đấy là một quy luật của Lịch sử. Những người lãnh đạo hiện nay buộc phải thật sự dọn dẹp hàng ngũ của mình khi còn có thời gian bởi vì bầu không khí đã rất dễ bắt lửa và những tia lửa bi đát như ở Bạc Liêu sẽ có thể dẫn đến một đám cháy khổng lồ.
Hãy ngừng truy nã những người yêu nước, hãy thực sự bảo vệ ngư dân bị tấn công, hãy thực hiện các biện pháp đã được luật pháp quy định về biển, hãy bảo vệ nông dân và đất đai của họ, hãy thực sự kiểm soát các công ty và và công dân Trung Quốc không vì bất cứ cảm tình riêng nào, nhanh chóng xem xét lại hiến pháp một cách dân chủ trên cơ sở hiến pháp 1946, đưa quyền được biểu tình hòa bình, tập họp tự do vào luật, tiến đến một nền báo chí tự do và có trách nhiệm... tất cả các biện pháp sớm muộn phải thực hiện ấy sẽ đánh bại các lực lượng của bóng tối hung hãn và đã bắt rễ sâu nhất. Đấy không phải là kết liễu một chế độ xa dân mà là cơ hội sống còn duy nhất của nó, gần, rất gần với nó.
Ngày 2 tháng Tám, năm 2012
A. M. H. C. Q.
(1) Hôm nay ngày 2 thâng Tám tôi được tin một nhân vật của quyền lực bóng tối thuộc Ban Tuyên Giáo Trung Ương đã buộc Đài Truyền hình Quảng Ngãi, đang sẵn sàng chiếu bộ phim này, phải sửa cho nó có thêm “tính Đảng”.
(2) Một ví dụ về sự tùy tiện trong việc áp dụng luật của nhà cầm quyền và về việc cấm chiếu, dù là trong chỗ riêng tư, bộ phim “Hoàng Sa – Việt Nam: Nỗi đau mất mát” và những cản trở việc chiếu, dù trong chỗ riêng tư, bộ phim “André Menras: Một người Việt”. Nên biết rằng hơn một năm nay Truyền hình cáp Quy Nhơn QCTV1 và QCTV 2 đã chiếu phim này, không có phép, không có “văn bản” nào cả. Tổ chức được quyền ưu tiên bất hợp pháp đó chính là Pisico, một tổ chức hợp tác với hiệp hội Nhân Bang, một hiệp hội... Trung Quốc, mà Chủ tịch chẳng là ai khác ngoài viên Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư Trung Quốc ở Việt Nam (Tuổi Trẻ ngày 15/6/2012)
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Tư, 11 tháng 7, 2012
Nguyên Ngọc - Những con diều hâu Bắc Kinh ngày càng cô độc: Thất bại được báo trước của một chính sách gây chết chóc và tự sát ở Biển Đông
André Menras Hồ Cương Quyết
Nguyên Ngọc dịch
Cho đến nay nhiều người vẫn còn tin rằng những cuộc diễu võ dương oai và phô trương của Trung Quốc chỉ là trò bịp chẳng có nguy hiểm thật sự nào. Một số là do không có ý thức và không biết bản chất thật của bọn diều hâu Trung Hoa. Một số người khác là vì điều đó biện minh cho trạng thái khó chịu do thái độ thụ động tội lỗi của họ. Một số khác nữa vì là những kẻ bảo thủ cố cựu, dù không có chút ý thức hệ đã tiêu tán hết rồi, họ dính chặt với Bắc Kinh về mặt chính trị quá lâu và theo thói quen. Số nữa do những vụ áp phe khổng lồ đủ loại, công khai hay ám muội, trước đây hay hiện nay, đã bị cột chặt vào “Ông Anh Lớn”... Tất cả đều nhìn thấy mối hiểm nguy nhưng không còn biết làm thế nào để lùi lại.
Nhưng hôm nay gây hấn đã cụ thể, rõ rệt và dấn sâu tới mức không ai có thể giả vờ không biết đến nữa. Tới mức đã thấy một sự lo lắng nào đó ngay trong những đám người vốn ủng hộ Bắc Kinh vô điều kiện. Thôi thì muộn còn hơn không. Hãy tha thứ cho cái bệnh cận thị chính trị và dối trá do sợ sệt hay thiển cận con buôn.
Sự thật là, ngay từ lúc khởi đầu của mọi khởi đầu trong cuộc tấn công của họ, cần phải nhận rõ ý đồ thật sự của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính hầu hết không gian biển đảo trên vùng biển Đông Nam Á. Hành động đó, được chuẩn bị từ rất lâu bằng các bản đồ, các cuộc tuyên truyền dựa trên một thái độ mềm yếu, thậm chí đồng lõa công khai của các thế lực thực dân và tân thực dân, đã bắt đầu một cách cụ thể bằng việc chiếm đóng đẫm máu Hoàng Sa năm 1974. Rồi chiếm đóng, cũng đẫm máu như vậy, Gạc Ma và các đảo khác của Việt Nam ở Trường Sa, năm 1988. Năm 2009, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên 80% biển Đông Nam Á tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, khẳng định về chính trị, thiết lập về pháp lý từ Bắc Kinh, về hành chính từ Hải Nam, tăng cường quân sự cả bằng nhân lực và bằng trang bị kỹ thuật cao và siêu cao, gần đây hơn là rao mời thầu 9 lô có tiềm năng dầu lửa nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gửi đến Trường Sa các tàu tuần tra vũ trang “sẵn sàng chiến đấu” đã bắt đầu truy đuổi một tàu của Việt Nam... Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: rất đồng bộ và đều chứng tỏ Bắc Kinh không chơi trò bịp, rằng họ đã lao vào vòng cuốn của một tấn công mù quáng mà họ không còn biết đâu là chỗ dừng. Toàn bộ cuộc leo thang đó chỉ có thể dẫn đến đổ máu, tàn phá, đổ nát và đau khổ. Chắc chắn, trước máu và đau khổ của nhân dân, tất cả cái đám lãnh đạo “cộng sản”, “xã hội chủ nghĩa”, “quốc tế vô sản” vĩ đại tỷ phú đô la Mỹ kia đã nhiều lần chứng tỏ chúng không hề đắn đo: đè nát các sinh viên của nhân dân dưới xích xe tăng, xả súng vào những người bảo vệ đảo đang sắp chìm giữa biển khơi, quay phim và cho phát đi một cách vô liêm sỉ tội ác đó, đầu độc, tra tấn, bỏ tù chung thân hàng trăm nghìn đồng bào của họ... Đấy là chuyện thường ngày của chính quyền của họ, chỉ dựa trên một đạo luật trung cổ duy nhất: giết sạch những kẻ yếu hơn mình và những ai chống cự lại ...
Được rồi, nhưng hãy xem: cái nước Trung Hoa muốn tự coi là hiện đại ấy không phải là thế giới. Chỉ là một bộ phận. Và cái bộ phận ấy, dù lúc này có đông và mạnh về kinh tế đến mấy, vẫn phải phụ thuộc một cách sinh tử vào bộ phận khác đông hơn và mạnh hơn nhiều. Bọn diều hâu Bắc Kinh cứ nhìn mãi vào mỗi cái rốn của mình đã hóa thành cận thị. Từ khi kinh tế của họ tăng trưởng mạnh, họ gào thét đòi hải chiến trên khắp các vùng biển mà lại bắt chước một loài chim khác: con đà điểu. Ai cũng biết: cái con chim to sụ ấy, giữa sa mạc mênh mông, giấu đầu sau một hòn sỏi mà cứ tưởng không ai nhìn thấy mình vì chính nó không nhìn thấy ai cả... Trong khi, làm thế, nó càng phơi cái mông to tướng của nó ra trước mắt mọi người. Và dư luận công chúng toàn cầu ngày càng không thể chịu đựng được cảnh tượng cái mông to sụ của đám lãnh đạo Bắc Kinh, cái ngạo mạn trần trụi lông lá cùng những cái nhọt sưng phù của nó.
Ngày càng nhiều người, như kẻ đầy tớ của các vị là tôi đây, đã quyết liệt chiến đấu chống xâm lược của Mỹ, vì nền độc lập thật sự của Việt Nam, và do vậy, về khách quan đã từng đứng bên cạnh nước Trung Hoa của Mao và Chu Ân Lai mà chúng tôi từng coi là những người tiến bộ, những đồng minh trung thành của cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc. Ngày ấy chúng tôi ngây thơ biết bao!
Nhiều người trong chúng tôi vẫn mãi ngưỡng mộ tất cả những đóng góp của nền văn minh Trung Quốc cho nhân loại. Nhưng nhiều người trong chúng tôi vốn cũng say mê thư pháp, hôm nay rất mong ước được vung tay phóng bằng lối chữ thảo lên bức tường Trung Nam Hải, dinh thự của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh, một dòng này: “Thật may là có người Mỹ!”. Vâng, tôi lặp lại lời đó, dù là với đắng cay và một đau nhói thật trong lòng khi tôi nghĩ đến những đau khổ mà Johnson, Nixon, Mac Namara với Kissinger đã bắt hàng triệu người Việt Nam phải chịu đựng. Nhưng tôi nói lên và viết lên điều đó chẳng chút ngập ngừng dưới ánh sáng trần trụi của ngày hôm nay: “Rất may là có người Mỹ, và cả người Nhật, người Ấn, người Úc, người Nga, người châu Âu, người Philippines và các dân tộc khác của ASEAN đang ngẩng cao đầu!”.
Chỉ có một đám cận vệ già cỗi chậm trễ và cố chấp còn dám bênh vực cho sự xâm lược của Trung Quốc, như cái bà nhà báo của tờ Nhân Đạo, trong một bài viết dối trá thảm hại. Chẳng chút khách quan bà lần theo dòng các sự kiện để nói rằng Trung Quốc chống lại một cuộc bao vây do Hoa Kỳ gây ra. Mọi người đều thấy rằng hoàn toàn trái ngược lại, Hoa Kỳ đã kiên nhẫn hi vọng, trì hoãn sự can thiệp của họ, hy vọng một thái độ biết điều của Trung Quốc.
Họ đã cố thương lượng trong một tình thế mà các công ty dầu lửa của họ bị đe dọa, các tàu của họ bị tấn công trên đường biển quốc tế (UNSS Impeccable), rất nhiều lần họ đã khẳng định sự trung lập của họ về các “vùng tranh chấp”, và làm điều đó khi đồng minh của họ bị tấn công.
Bắc Kinh không cho họ có chọn lựa nào khác ngoài cách triển khai một lực lượng chiến lược nhằm bảo vệ tự do lưu thông quốc tế – tức cũng là của nước Pháp – trong không gian biển sống còn đối với nhiều nước. Hoàn toàn hợp pháp, họ cũng phải cứu giúp các đồng minh của họ là nạn nhân của cuộc cướp bóc kinh khủng của Trung Quốc dưới hình thức “đường lưỡi bò” được Bắc Kinh thông báo rất chính thức từ năm 2009 tại Liên Hiệp Quốc.
Những sự kiện mới đây ở Scarborough hẳn đã tạm thời làm giảm nhuệ khí săn mồi của Bắc Kinh. Đơn độc, chắc chắn người Philippines không thể ngăn chặn Trung Quốc lấn tới và máu đã có thể đổ. Thật may là người Mỹ đã có mặt ở đấy bên cạnh Philippines và đã chứng tỏ đàng hoàng. Không có họ và khẳng định quyết tâm của họ ở lại trong khu vực, có thể Luật Biển được Quốc hội Việt Nam thông qua còn chưa ra đời, dù nó là kết quả của nhiều năm đấu tranh nội bộ và dũng cảm của những người yêu nước Việt Nam.
Còn về cái lý lẽ hàng đầu, thực tế là duy nhất và lố bịch của Bắc Kinh là uy hiếp bằng quân đội, hung hăng tung ra cái bóng ma của một cuộc tràn ngập bằng đoàn quân khổng lồ và được siêu trang bị của họ, thì này Bắc Kinh, hãy suy nghĩ lại một chút đi. Dù chẳng có chút lương tri nào, các nhà chiến lược bàn giấy lạnh lùng ấy quá biết rằng khó nhất không phải là đưa các binh đoàn, với xe tăng và máy bay vào một nước láng giềng. Họ đã thấy rõ điều đó hồi 1979 rồi. Khó nhất, thậm chí không thể làm được, là ở lại đấy. Họ quá biết một quả lựu đạn đơn giản thôi, một quả bom tự tạo thôi cũng có thể phá tan một chiếc máy bay, một kho quân sự. Chỉ cần một bàn tay, thậm chí bàn tay trẻ em đặt thôi, nó có thể phá tan một chiếc tàu, một căn cứ quân sự, một giàn khoan dầu... Kỹ thuật tàn phá tinh vi phức tạp nhất cũng chẳng là gì cả trước ý chí kháng chiến của một nhân dân ở tại quê hương mình, trên đất đai của tổ tiên mình, ý thức về quyền chính đáng và về nền văn hóa của mình. Đấy là bài học của Lịch sử, luôn luôn giữ nguyên giá trị và riêng dành cho bọn háu chiến tranh ở Bắc Kinh suy nghiệm... Nếu bọn hiếu chiến điên cuồng Trung Hoa chơi với lửa thì chúng sẽ bị thiêu cháy bởi ngọn đuốc Việt Nam. Và các ngọn đuốc khác nữa. Và toàn bộ nước Biển Đông cũng không đủ để dập tắt đâu! Nếu bọn hiếu chiến điên dại Bắc Kinh đẩy tới nữa những hành động tấn công và cướp bóc có tính nhà nước của chúng, một ngày nào đó chúng sẽ đổ máu. Chắc chắn. Và ngày đó Bắc Kinh sẽ mất sạch tất cả kể cả an ninh nội địa của họ trong một sự suy sụp quốc gia không đường quay lại, đau đớn và ô nhục. Đến lúc đó bầy diều hâu sẽ phải ra quầy thanh toán mà trả nợ cho nhân dân của chúng. Những kẻ đã ủng hộ chúng hay cúi đầu quá lâu trước chúng, do vậy mà khuyến khích cuộc cướp mồi, cũng phải thanh toán trong đất nước của mình. Cái cơn ham muốn thống trị điên cuồng bằng nanh và vuốt đó quá hiểm nguy đối với chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc và với nhân dân của họ, quá chắc chắn sẽ thất bại, đến mức nó mang màu sắc tự sát.
Trong khi có thể có một đường lối khác. Đường lối thương lượng hòa bình, trung thực, đa phương, tôn trọng chặt chẽ luật pháp quốc tế. Đó là đường lối của một cường quốc xứng đáng với danh xưng ấy như Trung Quốc có thể là vậy. Một đường lối cơ sở trên sự tôn trọng hoàn toàn đối với các láng giềng của mình trong hợp tác lành mạnh, không thiên vị và cùng có lợi. Trong sự tôn trọng quyền của các dân tộc, tôn trọng các nền văn minh và các quyền của con người. Đấy là cách tốt nhất cho Bắc Kinh để gìn giữ an toàn biên giới, tăng cường sức mạnh quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị bằng một sự phát triển kinh tế vững chắc và tạo ra một tình thế công bằng xã hội êm thắm. Sức mạnh và uy tín của Trung Quốc nhờ đó sẽ được tăng cường và sẽ phát triển bền vững. Khi đó Trung Quốc sẽ có thể trở thành một cực hấp dẫn không chỉ đối với châu Á mà cả toàn cầu, chứ không phải như hiện nay, là một kẻ xấu xí nguy hiểm chẳng bao lâu sẽ là mục tiêu của các liên minh tự vệ hùng mạnh. Chọn con đường bạo lực, bành trướng, đe dọa chiến tranh, Bắc Kinh đã chọn con đường ngược lại: con đường đơn độc, tự cô lập, chắc chắn sẽ chặn đứng phát triển, rất nhanh chóng đưa đến suy thoái.
Còn đối với một số lãnh đạo Việt Nam, đã đến lúc để họ chọn con đường của họ trước cuộc tấn công đang tăng lên của Trung Quốc vào đất nước và các tài nguyên của nó, chống lại nhân dân và tương lai của dân tộc. Tình thế đang ngày càng nghiêm trọng chẳng còn chừa chỗ cho những bào chữa, cho chỉ những tuyên bố về nguyên tắc, cho những chần chừ tránh né, cho những cuộc thăm viếng hữu nghị dối trá. Gỡ mặt nạ xuống đi mà chọn lấy chỗ đứng rõ ràng và tỏ rõ mình là ai. Xác định rõ ranh giới không thể vượt qua, với phẩm cách và quả quyết. Ở cấp độ chính trị cũng như trên thực địa.
Nếu những người lãnh đạo không làm điều đó, thì nhân dân sẽ tự mình đảm nhiệm lấy mà làm khi cuộc leo thang của Trung Quốc khiến cho việc đàn áp các hành động kháng cự lành mạnh và hợp pháp của nhân dân trên đường phố, trên báo chí, ở Quốc hội, kể cả trong một bộ phận quân đội cảm thấy bị sỉ nhục, sẽ ngày càng không thể thực hiện được nữa.
Hợp tác với Bắc Kinh hôm nay đã phơi bày rõ diện mạo của một liên minh với ma quỷ trong một sự quy phục không thể chấp nhận. Và những ai còn nán lại trong hợp tác mang tính khổ dâm ấy rất có nguy cơ chẳng bao lâu nữa đâu sẽ phải chia sẻ nỗi cô độc đắng cay của những kẻ mà họ bám theo và đã đưa họ đến ngõ cụt.
A. M. H. C. Q.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012
Nguyên Ngọc - Hóa ra ông Vương Đình Huệ không đơn độc
Mấy năm nay nhiều người đã rất thích thú theo rõi thường xuyên ở mục ‘Câu chuyện triết học’ trên báo Sài Gòn tiếp thị những bài viết tuyệt vời của Bùi Văn Nam Sơn.
Đấy là những bài ngắn, giản dị, hấp dẫn về những vấn đề triết học cơ bản. Đương nhiên không phải ai cũng cần trở thành nhà triết học, nhưng những hiểu biết sơ đẳng về triết học, “biết đôi chút cái mùi triết học” như có người nói, là cần cho mọi người, bởi lịch sử triết học cũng chính là lịch sử hình thành và phát triển tư duy của loài người, trong quá trình lâu dài trăn trở làm người, từ mông muội cho đến trưởng thành.
Như ai cũng biết, viết được về những vấn đề trừu tượng và cao siêu như vậy một cách dễ hiểu, lại lôi cuốn, cho mọi người, thường là những người cầm bút rất uyên bác, nắm rất vững vấn đề, đến mức có thể tung tăng đùa bỡn mà vẫn nghiêm túc, duyên dáng mà chặt chẽ, nhiều khi như nói chơi mà là sâu xa những chuyện hệ trọng nhất của cuộc đời, thậm chí là chuyện muôn thuở, và nói cho đúng cho đến nay nhân loại vẫn còn suy nghĩ và bàn bạc chưa xong. Và những chuyện đó, chừng xa xôi, lại cũng là chuyện thiết thân cho mỗi người, không chỉ trong công việc mà cả trong sống và ứng xử từng ngày… Mấy năm qua, Bùi Văn Nam Sơn đã tận tụy làm công việc đó, có thể gọi không quá đáng là một công việc khai hóa, về lâu dài là không hề nhỏ, một đóng góp quan trọng cho xã hội…
Vậy mà gần đây bỗng có tin Sài Gòn tiếp thị đã cắt bỏ mục này *.
Hỏi ra thì được biết: ấy là theo lệnh của một cơ quan hay một người nào đó có trách nhiệm và có quyền ở cái thành phố lớn nhất nước này. Hình như là lệnh miệng, qua một cú điện thoại hay một tin nhắn, nghĩa là không để lại dấu vết hiển thị nào hết, chắc là khắp thế giới không còn nơi nào nữa có kiểu ra lệnh, “chỉ đạo” hay ho đến thế.
Lệnh là: “Tiếp thị sao lại đi nói chuyện triết học? Dẹp!”.
Ôi, vậy mà mấy hôm nay tôi cứ tưởng ông Vương Đình Huệ * cô đơn lắm khi ông nhỡ mồm dạy các nhà báo về chức năng của báo chí. Hóa ra ông chẳng hề cô đơn chút nào, và cũng chẳng nhỡ mồm. Ông ở trong một hệ thống nhất quán, quyết liệt, triệt để, ngày càng triệt để.
Thêm một ví dụ nữa để chứng minh tính nhất quán, quyết liệt, và triệt để ấy: Cách đây vài tháng một nhà xuất bản định in một cuốn sách tập họp một số bài viết của Bùi Văn Nam Sơn về triết học (đã đăng trên Sài Gòn tiếp thị) đã không thể nào xin được giấy phép. Lý do? Người ta lệnh, cũng bằng nói miệng vô bằng: Bây giờ phải rất cảnh giác với các sách triết học, “họ” lợi dụng triết học để dưa dân chủ vào! Thôi thế là quá rõ rồi: người ta sợ triết học, vì người ta sợ dân chủ!
Nhưng mà, tôi là người ngây thơ, dễ tin, tôi ngơ ngác muốn hỏi: Vậy cái khẩu hiệu lừng danh “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là thế nào nhỉ? Thậm chí còn cãi nhau chán rồi mới quyết định đưa ‘dân chủ’ lên trước ‘công bằng’, coi như một thắng lợi lớn. Chuyện to thế, chẳng lẽ nói đùa? Tôi không dám nói chuyện chính trị. Tôi chỉ xin nói chuyện đạo đức: Đừng nghĩ rằng câu chuyện vừa nói trên, chuyện tiếp thị, đi buôn thì cấm tiệt nói triết học, cứ lo chúi mũi làm tiền đi, là không liên quan gì đến đạo đức xã hội mà ai cũng biết là đang xuống đến đáy. Không liên quan đến việc sinh ra những Lê Văn Luyện đang có nguy cơ không còn cá biệt *. Không liên quan đến tội ác đang tràn lan nhức nhối.
Nghĩa là những cấm đoán trắng trợn mà giấu tay kia cũng là tội ác đấy! Nó tạo ra môi trường cho tội ác. N.N. Nguồn: Bauxite Việt Nam – * Ba Sàm bổ sung: - Nếu sớt trên mạng Google từ khóa “Câu chuyện triết học”, sẽ được kết quả các bài viết lâu nay của SGTT. Còn đây là bài báo cuối cùng, ngày 12/4/2012: Quà tặng của thánh thần và lời “từ biệt” nép mình bên dưới, có đoạn “Do nhu cầu tổ chức mặt trang, kể từ số báo này, chuyên mục “Chuyện xưa chuyện nay” thường kỳ vào thứ tư hằng tuần xin được tạm dừng …”
- Vụ “chỉnh” báo chí của ông Vương Đình Huệ, nhiều báo đã gỡ bài, không rõ là ông Huệ đã “xin” hay là “ra lệnh” mà ghê vậy?
+ Bài Bộ trưởng và báo chí trên VNEconomy bị gỡ mất nhưng còn 14 phản hồi sót lại, tuy nhiên nội dung trên trang Baomoi.com thì vẫn còn. Bài này được Sài Gòn Tiếp thị đăng lại cũng đã biến mất, nhưng báo này lại có một bài khác đá móc ông Huệ: Ai lộn sân?
+ Báo Thanh niên có bài “Không chuẩn, cần phải chỉnh” của TS Tô Văn Trường cũng bị bóc mất, nhưng vẫn còn trên Baomoi.com và bài gốc không bị biên tập cắt bớt.
+ ÔNG VƯƠNG ĐÌNH HUỆ “ĐÁ LỘN SÂN” LÀ CÓ CHỦ ĐÍCH? (Người lót gạch). + CHẬP CHENG! — (Người lót gạch).
- Thảm án kinh hoàng ở tiệm Internet: Lê Văn Luyện thứ hai? (An ninh Thủ đô, 19/4/2012).
Nguồn: http://anhbasam.wordpress.com/2012/04/21/910-hoa-ra-ong-vuong-dinh-hue-khong-don-doc/
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ |
Vậy mà gần đây bỗng có tin Sài Gòn tiếp thị đã cắt bỏ mục này *.
Hỏi ra thì được biết: ấy là theo lệnh của một cơ quan hay một người nào đó có trách nhiệm và có quyền ở cái thành phố lớn nhất nước này. Hình như là lệnh miệng, qua một cú điện thoại hay một tin nhắn, nghĩa là không để lại dấu vết hiển thị nào hết, chắc là khắp thế giới không còn nơi nào nữa có kiểu ra lệnh, “chỉ đạo” hay ho đến thế.
Lệnh là: “Tiếp thị sao lại đi nói chuyện triết học? Dẹp!”.
Ôi, vậy mà mấy hôm nay tôi cứ tưởng ông Vương Đình Huệ * cô đơn lắm khi ông nhỡ mồm dạy các nhà báo về chức năng của báo chí. Hóa ra ông chẳng hề cô đơn chút nào, và cũng chẳng nhỡ mồm. Ông ở trong một hệ thống nhất quán, quyết liệt, triệt để, ngày càng triệt để.
Thêm một ví dụ nữa để chứng minh tính nhất quán, quyết liệt, và triệt để ấy: Cách đây vài tháng một nhà xuất bản định in một cuốn sách tập họp một số bài viết của Bùi Văn Nam Sơn về triết học (đã đăng trên Sài Gòn tiếp thị) đã không thể nào xin được giấy phép. Lý do? Người ta lệnh, cũng bằng nói miệng vô bằng: Bây giờ phải rất cảnh giác với các sách triết học, “họ” lợi dụng triết học để dưa dân chủ vào! Thôi thế là quá rõ rồi: người ta sợ triết học, vì người ta sợ dân chủ!
Nhưng mà, tôi là người ngây thơ, dễ tin, tôi ngơ ngác muốn hỏi: Vậy cái khẩu hiệu lừng danh “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là thế nào nhỉ? Thậm chí còn cãi nhau chán rồi mới quyết định đưa ‘dân chủ’ lên trước ‘công bằng’, coi như một thắng lợi lớn. Chuyện to thế, chẳng lẽ nói đùa? Tôi không dám nói chuyện chính trị. Tôi chỉ xin nói chuyện đạo đức: Đừng nghĩ rằng câu chuyện vừa nói trên, chuyện tiếp thị, đi buôn thì cấm tiệt nói triết học, cứ lo chúi mũi làm tiền đi, là không liên quan gì đến đạo đức xã hội mà ai cũng biết là đang xuống đến đáy. Không liên quan đến việc sinh ra những Lê Văn Luyện đang có nguy cơ không còn cá biệt *. Không liên quan đến tội ác đang tràn lan nhức nhối.
Nghĩa là những cấm đoán trắng trợn mà giấu tay kia cũng là tội ác đấy! Nó tạo ra môi trường cho tội ác. N.N. Nguồn: Bauxite Việt Nam – * Ba Sàm bổ sung: - Nếu sớt trên mạng Google từ khóa “Câu chuyện triết học”, sẽ được kết quả các bài viết lâu nay của SGTT. Còn đây là bài báo cuối cùng, ngày 12/4/2012: Quà tặng của thánh thần và lời “từ biệt” nép mình bên dưới, có đoạn “Do nhu cầu tổ chức mặt trang, kể từ số báo này, chuyên mục “Chuyện xưa chuyện nay” thường kỳ vào thứ tư hằng tuần xin được tạm dừng …”
- Vụ “chỉnh” báo chí của ông Vương Đình Huệ, nhiều báo đã gỡ bài, không rõ là ông Huệ đã “xin” hay là “ra lệnh” mà ghê vậy?
+ Bài Bộ trưởng và báo chí trên VNEconomy bị gỡ mất nhưng còn 14 phản hồi sót lại, tuy nhiên nội dung trên trang Baomoi.com thì vẫn còn. Bài này được Sài Gòn Tiếp thị đăng lại cũng đã biến mất, nhưng báo này lại có một bài khác đá móc ông Huệ: Ai lộn sân?
+ Báo Thanh niên có bài “Không chuẩn, cần phải chỉnh” của TS Tô Văn Trường cũng bị bóc mất, nhưng vẫn còn trên Baomoi.com và bài gốc không bị biên tập cắt bớt.
+ ÔNG VƯƠNG ĐÌNH HUỆ “ĐÁ LỘN SÂN” LÀ CÓ CHỦ ĐÍCH? (Người lót gạch). + CHẬP CHENG! — (Người lót gạch).
- Thảm án kinh hoàng ở tiệm Internet: Lê Văn Luyện thứ hai? (An ninh Thủ đô, 19/4/2012).
Nguồn: http://anhbasam.wordpress.com/2012/04/21/910-hoa-ra-ong-vuong-dinh-hue-khong-don-doc/
Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011
Bốn nhà văn lớn từ chối giải thưởng Nhà Nước, Hồ Chí Minh
HÀ NỘI (TH) - Cho rằng nhà văn Sơn Nam chỉ muốn “đi vào lòng người đọc” chứ không màng giải thưởng danh vọng, gia đình ông hôm Thứ Năm gởi thư lên chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam muốn được rút ra khỏi danh sách đề cử giải thưởng Nhà Nước.
Gia đình nhà văn Sơn Nam là người mới nhất muốn rút khỏi danh sách đề cử hai giải thưởng văn học trong nước năm nay, là giải Nhà Nước và giải Hồ Chí Minh.
Nhà văn Sơn Nam (Ảnh: Internet)
Gia đình nhà văn Sơn Nam là người mới nhất muốn rút khỏi danh sách đề cử hai giải thưởng văn học trong nước năm nay, là giải Nhà Nước và giải Hồ Chí Minh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)