Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiencuuquocte.org. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiencuuquocte.org. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2022

The Economist: Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO làm lập luận của Putin sụp đổ (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)


Sự mở rộng của liên minh không phải là nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến của Tổng thống Nga ở Ukraine.

Quyết định của Phần Lan và Thụy Điển nộp đơn xin gia nhập NATO là một hành động thẳng thừng bác bỏ tầm nhìn chiến lược của Tổng thống Nga, Vladimir Putin. Hai quốc gia từng tự hào về lịch sử không liên kết quân sự lâu đời của mình đã nhận định rằng, rủi ro làm mất lòng nước láng giềng không quan trọng bằng sự trợ giúp an ninh bổ sung mà họ có được khi tham gia một liên minh chuyên chống lại sự xâm lược của Nga. Đó là kết quả trực tiếp của việc Nga xâm lược Ukraine, mà theo Putin là để ngăn chặn NATO mở rộng.

Nó cũng là một lời bác bỏ đối với những người lập luận rằng NATO có lỗi vì đã dẫn tới cuộc chiến. Putin không phải là người duy nhất cho rằng việc liên minh mở rộng sang Trung và Đông Âu sau Chiến tranh Lạnh là điều khiến người Nga không thể dung thứ. Nhiều học giả phương Tây đồng tình với lập luận đó. Tuy nhiên, sự lựa chọn của Phần Lan và Thụy Điển cho thấy họ có quan điểm ngược lại. Hai nước tìm cách tham gia NATO vì họ bị Nga đe dọa, chứ không phải để chống lại nước này.

Tin tức từ Phần Lan và Thụy Điển được công bố ngày 15/05, khi các ngoại trưởng của NATO đang nhóm họp để thảo luận về Ukraine và về chiến lược mới của liên minh, trong giai đoạn chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh vào tháng tới. Bất chấp những than phiền từ Thổ Nhĩ Kỳ, việc gia nhập của Phần Lan và Thụy Điển nhiều khả năng sẽ là chính thức. Khi tham gia, cả hai sẽ mang lại khả năng vũ trang đáng kể, đặc biệt là nếu có chiến tranh ở Bắc Cực, và, trong trường hợp của Phần Lan, là lực lượng pháo binh lớn nhất châu Âu. Những lực lượng này có thể nhanh chóng được tích hợp vào cấu trúc chỉ huy của NATO. Tư cách thành viên của hai nước cũng sẽ giúp chiều dài biên giới của liên minh với Nga tăng lên gấp đôi (xem bản đồ). Nó còn củng cố các nước thuộc khu vực phía bắc, đặc biệt là các quốc gia vùng Baltic, nơi sẽ dễ được tiếp tế hơn, và là những nước mà Thụy Điển và Phần Lan sẽ cam kết bảo vệ nếu họ trở thành thành viên NATO.

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

Katsuji Nakazawa (Nikkei Asia): Nếu đi sai nước cờ, Tập có nguy cơ ngã ngựa cùng Putin (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng)

Nếu Nga thất bại ở Ukraine, sẽ nảy sinh nhiều câu hỏi về lãnh đạo độc tài lâu dài.

Liên minh cá nhân giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Putin đang cản trở đường lối ngoại giao của Trung Quốc. Điều đó đang được thể hiện ngày càng rõ khi cuộc chiến ở Ukraine tiếp diễn.

Cả hai người đã đặt xong nền móng để duy trì quyền lực của mình cho đến giữa thập niên 2030. Cả hai đều có tham vọng lãnh thổ: Putin muốn tái lập vùng ảnh hưởng của Liên Xô cũ, còn Tập muốn có Đài Loan.

Nhưng mối dây liên kết này đi kèm với rủi ro đáng kể.


Cách đây vài tuần, các quan chức an ninh và đối ngoại Trung Quốc còn vô cùng rạng rỡ tự tin. Sau khi Tập và Putin gặp nhau tại thủ đô Trung Quốc vào ngày 04/02 và hứa hẹn về một tình bạn không giới hạn, Trung Quốc dần nhận thức được rằng một chiến dịch ở Ukraine đã gần kề. Họ đã thu thập thông tin tình báo thông qua các mối quan hệ ở Nga, cả chính thức lẫn không chính thức, vốn đã được thiết lập từ nhiều năm qua.

Nhưng Trung Quốc đã mong đợi Nga sẽ kiềm chế hành động quân sự cho đến khi Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh bế mạc vào ngày 13/03. Nhận định này dựa trên trao đổi của Putin với Tập trong một cuộc trò chuyện riêng.

Những kỳ vọng của Trung Quốc nay đã được chứng minh là không thực tế. Putin hóa ra chỉ quan tâm nửa vời đến chủ nhà Olympic. Cuộc xâm lược Ukraine bắt đầu sau khi Thế vận hội Mùa đông bế mạc vào ngày 20/02, nhưng trước khi Thế vận hội Dành cho Người khuyết tật bắt đầu vào ngày 04/03.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn hy vọng cuộc tấn công sẽ diễn ra nhanh chóng, và khi Paralympic khai mạc, lực lượng Nga đã thiết lập được quyền kiểm soát ở Ukraine.

Thế nhưng, nhiều điều bất ngờ đã xuất hiện, và thay vì tạo ra sự chia cắt giữa Mỹ và châu Âu, cuộc xâm lược của Nga lại củng cố tình đoàn kết của phương Tây. Washington sẽ không sa lầy ở Đông Âu, và sẽ không có sóng gió địa chính trị để Bắc Kinh tận dụng.


Thứ Tư, 25 tháng 8, 2021

Bonnie S. Glaser & Gregory Poling: Sự cướp đoạt quyền lực của Trung Quốc ở Biển Đông (Biên dịch: Phan Nguyên)

Nguồn: Bonnie S. Glaser & Gregory Poling, “China’s Power Grab in the South China Sea”, Foreign Affairs, 20/08/2021.

Hoa Kỳ phải đối mặt với một bài toán hóc búa ở Biển Đông: Trung Quốc đang thay đổi mạnh mẽ hiện trạng trên biển theo hướng có lợi cho mình. Nhưng kể từ năm 2016, các quốc gia Đông Nam Á, những nước có quyền lợi hợp pháp đang bị chà đạp, lại miễn cưỡng trong việc chống lại Bắc Kinh.

Hoa Kỳ và các nước cùng chí hướng không thể thay đổi hành vi trên biển của Trung Quốc nếu không có sự tham gia tích cực của các bên tranh chấp thuộc khu vực này. Tuy nhiên, ở phần lớn Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, giới tinh hoa và công chúng đánh giá cam kết của Washington đối với khu vực một phần dựa vào việc liệu Mỹ có giúp họ bảo vệ các quyền lợi trên biển hay không.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và nhóm của ông đã kế thừa phần lớn các chính sách của chính quyền Trump ở Biển Đông. Chính quyền hiện tại của Hoa Kỳ đã xác nhận quan điểm từ thời Trump rằng, tất cả các yêu sách trên biển nào của Trung Quốc, mà không phù hợp với phán quyết năm 2016 của tòa trọng tài đặc biệt, đều là bất hợp pháp. Hơn nữa, chính quyền Biden đã khẳng định rằng các nghĩa vụ hiệp ước của họ đảm bảo Hoa Kỳ sẽ đáp trả trong trường hợp xảy ra tấn công vào các lực lượng của Philippines ở Biển Đông, đồng thời tiếp tục đẩy nhanh tốc độ các hoạt động của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực, vốn được thiết lập dưới thời Tổng thống Donald Trump.

Chuyến thăm gần đây của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đến Manila đã mở ra một cơ hội để tăng cường chính sách của Hoa Kỳ ở Biển Đông. Philippines từ lâu đã là quốc gia “tuyến đầu” ở Đông Nam Á [trong việc chống Trung Quốc], nhưng dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte, nước này đã theo đuổi quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh và hạ cấp quan hệ với Washington. Duterte đã cam kết hủy bỏ Thỏa thuận Lực lượng Viếng thăm (VFA), vốn tạo điều kiện cho việc đưa binh lính Hoa Kỳ vào nước này, nhưng trong chuyến thăm của Austin, ông đã thông báo sẽ chấm dứt quy trình bãi bỏ hiệp định này. Bước đột phá này đã mang lại cho liên minh Hoa Kỳ – Philippines một số thuận lợi – và đặt Washington vào một vị thế mạnh mẽ hơn trong việc đẩy lùi các hành vi xấu của Trung Quốc.


Thứ Ba, 24 tháng 8, 2021

Đỗ Thiện phỏng vấn Lê Hồng Hiệp: Tại sao Việt Nam nên thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược với Mỹ?

https://lh4.googleusercontent.com/proxy/Kt99Orovt5Fchcn6f5mcaeVqEM9pktEmWcmTQCTJMW6a3zSSEq678xB3BcjYs5SwxucDC-8HwyruPHHYRzkN2cWY5JLV3mn7n33GMAwyZqYC2pbR-VvCnYHJWeyWUpoMo9U=s0-d


Ngày mai (24-8), Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris dự kiến sẽ rời Singapore và đến thăm Việt Nam theo chương trình công du châu Á kéo dài khoảng một tuần. TS Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute, Singapore), nhận định: Quan hệ Việt Nam và Mỹ đang vào giai đoạn thuận lợi nhất trong vòng hơn hai thập niên qua. Đây là nền tảng quan trọng để cả hai nghiên cứu thúc đẩy mối quan hệ song phương lên tầm cao mới trong tương lai.

Vị thế Việt Nam đang cao nhất trong mắt Mỹ từ năm 1995.


Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về quan hệ Việt – Mỹ hiện nay, nhất là khi Mỹ gần đây liên tục có các chuyến thăm và các chính sách tích cực với Việt Nam?

TS Lê Hồng Hiệp: Theo tôi, quan hệ Việt – Mỹ chưa bao giờ thuận lợi như hiện nay. Hiện tại, Mỹ đang rất coi trọng quan hệ với Việt Nam, vị thế của Việt Nam trong mắt Mỹ đang ở mức cao nhất kể từ khi hai bên bình thường hóa quan hệ năm 1995. Ngược lại, Việt Nam cũng đang rất coi trọng vai trò của Mỹ về mặt kinh tế cũng như an ninh – quốc phòng và chiến lược. Ngoài các lợi ích từ hợp tác kinh tế vốn là nền tảng cho mối quan hệ song phương hơn 25 năm qua, chính sự song trùng lợi ích gia tăng về mặt chiến lược trong bối cảnh xuất hiện nhiều thách thức an ninh trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông, cũng đang thúc đẩy hai nước xích lại gần nhau hơn.

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

Lý Quang Diệu viết về Bắc Triều Tiên (Biên dịch và Hiệu đính: Tống Thị Thanh Duyên)

Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “North Korea: A Grand Hoax”, in L.K. Yew, One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp. 137-146.

BẮC TRIỀU TIÊN: Một cú lừa ngoạn mục


Tôi chưa bao giờ đến Bắc Triều Tiên. Tôi chưa bao giờ cảm thấy phải đến nơi ấy. Đó là một quốc gia bất thường bậc nhất. Ngay cả ở Trung Quốc, dân chúng cũng được sống với những quyền cơ bản nhất định. Ở Bắc Triều Tiên, người dân bị trấn áp hoàn toàn và cách ly triệt để khỏi thế giới bên ngoài. Nếu nói rằng nhà Kim đã xây nên nạn sùng bái cá nhân thì đó vẫn là một sự nói giảm trầm trọng. Để mê hoặc người dân Triều Tiên, gia tộc Kim đã trở thành những người bán thần thánh.

Người dân kính sợ gia tộc đó, không nhận thấy rằng họ thực ra đang sống trong một trò lừa đảo. Tất cả những người đàn ông và phụ nữ trông nghiêm nghị diễu hành qua đều là một phần của một trò lừa lớn. Khác xa một thiên đàng xã hội chủ nghĩa trên trái đất, Bắc Triều Tiên là một trong những quốc gia được cai trị tệ nhất thế giới, thất bại với cả những nghĩa vụ cơ bản nhất, ví dụ như đảm bảo cho người dân được đủ ăn.

Cách họ xoay xở để duy trì một cú lừa ngoạn mục như vậy trong thời đại giao tiếp tức thời ngày nay bản thân nó là một điều khá ấn tượng.

Họ không có iPhone hay truyền hình vệ tinh. Nếu họ có, trò lừa đảo này sẽ không thành. Một vài người Bắc Triều Tiên cuối cùng đã đi khỏi đất nước và thấy được rằng thế giới – và, đặc biệt là Nam Hàn – đã phát triển đến đâu và đất nước của họ đã bị bỏ xa đến thế nào. Nhưng những người này chỉ là thiểu số. Họ là những người thấy rằng cuộc sống của họ đã quá mức chịu đựng đến mức họ sẵn sàng đặt mình vào một mối nguy hiểm lớn khi cố gắng trốn sang Trung Quốc hay Nam Hàn. Một vài người đã thành công. Nhiều người khác thất bại. Những người thành công biết rằng họ đã trốn thoát trong gang tấc. Họ đặt mạng sống của mình vào tình thế đương đầu với sóng to gió lớn trên những con thuyền gỗ hay đi đường bộ với nguy cơ bị lính biên phòng bắt được. Ngày mà phần lớn người dân Bắc Triều Tiên nhận ra điều tương tự – rằng đất nước của họ bị mắc lại trong những tháng năm đen tối bởi chế độ hiện tại – thì sẽ là sự bắt đầu cho ngày tàn của chế độ này.

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2021

Jude Blanchette & Richard McGregor (Biên dịch: Phan Nguyên): Cuộc khủng hoảng kế nhiệm sắp tới của Trung Quốc

Sau gần chín năm cầm quyền, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thống trị hệ thống chính trị của đất nước mình. Ông kiểm soát quá trình hoạch định chính sách trong nước, quân đội và chính sách đối ngoại. Quyền lực vô song của ông trong Đảng Cộng sản Trung Quốc khiến ông Tập trở thành một người không thể chạm tới, như Joseph Stalin hay Mao Trạch Đông sau những cuộc thanh trừng tàn bạo từng được thực hiện trong thời kỳ Đại Khủng bố hay Cách mạng Văn hóa. Khi không có những đối thủ chính trị đáng kể, bất kỳ quyết định nghỉ hưu nào đều sẽ do ông Tập tự quyết định và theo lịch trình mà ông chọn.

Việc dỡ bỏ các giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch nước hồi năm 2018 cho phép ông cầm quyền vô thời hạn, nếu muốn. Nếu từ bỏ các chức vụ lãnh đạo chính thức của mình, ông Tập vẫn có khả năng giữ được quyền kiểm soát trên thực tế đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân đội Giải phóng Nhân dân. Ông càng nắm quyền lâu thì cơ cấu chính trị càng phù hợp với tính cách, mục tiêu, ý muốn bất chợt và mạng lưới thân hữu của ông. Đến lượt mình, càng tại vị lâu thì ông Tập càng trở nên quan trọng hơn đối với sự ổn định chính trị của Trung Quốc.

Sự tập trung quyền lực cá nhân này khiến Trung Quốc phải trả giá. Ông Tập vẫn chưa chỉ định một người kế nhiệm, gây ra sự nghi ngờ về tương lai của một hệ thống vốn ngày càng phụ thuộc vào sự lãnh đạo của ông. Chỉ một số ít các quan chức cấp cao của đảng mới có một ít thông tin nào đó về kế hoạch dài hạn của ông Tập, và cho đến nay, họ vẫn im lặng về việc ông muốn tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo trong bao lâu. Ông sẽ nghỉ hưu tại Đại hội Đảng lần thứ 20 vào năm 2022, hay sẽ bám lấy quyền lực vĩnh viễn? Nếu ông đột tử khi đang cầm quyền, như điều xảy ra với Stalin năm 1953, liệu có xuất hiện sự chia rẽ trong đảng khi các phe cánh tranh giành quyền lãnh đạo hay không? Liệu những người quan sát bên ngoài có thể phát hiện ra những dấu hiệu của sự bất hòa đó hay không?

Đặt ra những câu hỏi này không phải là một sự suy đoán vu vơ. Một ngày nào đó, theo một cách nào đó, ông Tập sẽ phải rời khỏi sân khấu chính trị. Nhưng chưa có bất kỳ dấu hiệu nào về việc ông ấy sẽ rời đi khi nào và theo cách như thế nào, hoặc ai sẽ là người thay thế ông. Do đó, Trung Quốc đối mặt với khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng kế vị. Trong vài năm qua, ông Tập đã né tránh các chuẩn mực mong manh của Đảng về việc chia sẻ và chuyển giao quyền lực. Khi đến thời điểm phải thay thế ông, một điều tất yếu phải xảy ra, tình trạng rối loạn ở Bắc Kinh có thể gây ra những tác động bất ổn vượt ra ngoài biên giới của Trung Quốc.

Thứ Tư, 14 tháng 7, 2021

Hoàng Thị Hà: Tại sao người Việt Nam phản ứng trái ngược trước vắc-xin Trung Quốc và phương Tây?

Hai sự kiện tương tự nhau nhưng phản ứng của người dân lại hoàn toàn khác nhau. Ngày 7/7, Việt Nam tiến hành tiếp nhận 97.000 liều vắc-xin Pfizer được chuyển về nước. Thứ trưởng Y tế Việt Nam và Đại biện lâm thời Đại sứ quán Hoa Kỳ đã chủ trì buổi lễ chuyển giao. Số lượng khiêm tốn này là lô đầu tiên trong số 31 triệu liều vắc-xin mà chính phủ Việt Nam đặt hàng từ Pfizer-BioNTech, một công ty liên kết giữa Mỹ và Đức. Chỉ hai tuần trước đó, một buổi lễ tương tự đã được tổ chức để tiếp nhận 500.000 liều vắc-xin Sinopharm do Trung Quốc tài trợ. Bộ trưởng Y tế Việt Nam và Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam cũng tham dự buổi lễ.

Nhìn chung, có sự cân bằng trong cấp độ lễ tân và ý nghĩa chính trị mà chính phủ Việt Nam dành cho cả hai sự kiện. Tuy nhiên, phản ứng của công chúng trên cả phương tiện truyền thông chính thống và mạng xã hội cho thấy thái độ đa phần tiêu cực đối với vắc-xin Trung Quốc, trái ngược với sự đón nhận nhiệt tình của họ đối với vắc-xin phương Tây.

Điều này cũng phản ánh tinh thần chung ở Việt Nam. Nhìn chung, người dân Việt Nam, đặc biệt là những người trẻ tuổi, có thái độ ưu ái hơn đối với Hoa Kỳ vào thời điểm quan hệ song phương đang trên đà phát triển. Ngược lại, thái độ phổ biến đối với nước láng giềng phía Bắc của Việt Nam ít mặn mà hơn, một phần là do tranh chấp Biển Đông đang sôi sục.

Các ý kiến trong mục bình luận của độc giả trên các trang báo nổi tiếng nhất của Việt Nam – trang tuoitre.vn và vnexpress.net – có thể cho thấy điều này. Trong hai bài báo của vnexpress.net và tuoitre.vn có tiêu đề tương tự “Việt Nam phê duyệt vắc xin Covid-19 của Sinopharm” vào ngày 4/6, rất ít ý kiến bày tỏ sự ủng hộ đối với vắc-xin Sinopharm. Đa số nói rằng họ thà chờ đợi và trả thêm tiền để có được những lựa chọn hàng đầu – như vắc xin Pfizer và Moderna do Mỹ sản xuất. Ngoài ra cũng có nhiều người chấp nhận vắc-xin Astra Zeneca, Sputnik của Nga và các vắc-xin do Việt Nam tự sản xuất trong tương lai. Chất lượng vắc-xin xét về mặt hiệu quả và an toàn được dẫn là lý do chính lý giải cho quan điểm này. Nhiều độc giả đã bác bỏ hoàn toàn vắc-xin Sinopharm, do thái độ bài Trung Quốc cố hữu hoặc sự mất lòng tin quá lớn vào các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc. Chỉ một số ít đưa ra những lý do dựa trên thông tin và có cân nhắc, chẳng hạn như việc vắc-xin Trung Quốc thiếu các dữ liệu thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả thấp hơn so với vắc-xin Pfizer và Moderna, hay sự gia tăng ca nhiễm Covid-19 ở các quốc gia đã tiêm vắc xin Trung Quốc như Bahrain, Seychelles, Uruguay và Chile.