Thứ Ba, 17 tháng 1, 2023
Trương Nhân Tuấn: 49 năm ngày hải chiến Hoàng Sa– Bàn về chủ quyền Hoàng Sa
Battle of the Paracel Islands, Wikimedia |
![]() |
Bốn chiến hạm của hải quân Việt Nam cộng hòa tham dự trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 - Ảnh tư liệu |
Nhân 49 năm ngày hải chiến Hoàng Sa 17/19 tháng Giêng 1974, thử bàn về chủ quyền Hoàng Sa qua nguyên tắc "ex injuria jus non oritur".
Trong luật có nguyên tắc: "ex injuria jus non oritur". Đại khái có thể hiểu là "lẽ phải không phát sinh từ một hành vi bá đạo".
Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022
Lê Nguyễn: Về một số ngộ nhận liên quan đến nhân vật lịch sử Lê Văn Duyệt (kỳ 3)
![]() |
Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn |
Lê Nguyễn là bút danh của Lê Văn Cẩn, sinh năm 1944, tốt nghiệp khóa 10 Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn (1965), một cây bút quen thuộc của nhiều tờ báo, tạp chí trong nước như Kiến thức Ngày Nay, Thế giới Mới, Khoa học phổ thông, Khoa học và Đời Sống…, là tác giả của khoảng hơn 10 đầu sách đã xuất bản, phần lớn là sách biên khảo lịch sử thời Lê–Nguyễn và thời Pháp thuộc.
Loạt bài này sẽ được đăng làm 3 kỳ. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
6) MỐI QUAN HỆ GIỮA VUA MINH MẠNG VÀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT LÚC SINH TIỀN
Phần 1- Những ân thưởng xứng đáng dành cho một bề tôi
Thứ Ba, 6 tháng 12, 2022
Lê Nguyễn: Về một số ngộ nhận liên quan đến nhân vật lịch sử Lê Văn Duyệt (Phần 2)
![]() |
Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn |
Lê Nguyễn là bút danh của Lê Văn Cẩn, sinh năm 1944, tốt nghiệp khóa 10 Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn (1965), một cây bút quen thuộc của nhiều tờ báo, tạp chí trong nước như Kiến thức Ngày Nay, Thế giới Mới, Khoa học phổ thông, Khoa học và Đời Sống…, là tác giả của khoảng hơn 10 đầu sách đã xuất bản, phần lớn là sách biên khảo lịch sử thời Lê–Nguyễn và thời Pháp thuộc.
Loạt bài này sẽ được đăng làm 3 kỳ. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2022
Lê Nguyễn: Về một số ngộ nhận liên quan đến nhân vật lịch sử Lê Văn Duyệt
![]() |
Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn |
Lời giới thiệu: Diễn Đàn Thế Kỷ nhận được loạt bài nghiên cứu “Về một số ngộ nhận liên quan đến nhân vật lịch sử Lê Văn Duyệt” của tác giả Lê Nguyễn gửi từ Sài Gòn.
Lê Nguyễn là bút danh của Lê Văn Cẩn, sinh năm 1944, tốt nghiệp khóa 10 Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn (1965), một cây bút quen thuộc của nhiều tờ báo, tạp chí trong nước như Kiến thức Ngày Nay, Thế giới Mới, Khoa học phổ thông, Khoa học và Đời Sống…, là tác giả của khoảng hơn 10 đầu sách đã xuất bản, phần lớn là sách biên khảo lịch sử thời Lê–Nguyễn và thời Pháp thuộc.
Loạt bài này sẽ được đăng làm 3 kỳ. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Lễ giỗ lần thứ 190 của Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành, được tổ chức trọng thể vào những ngày cuối tháng 8 vừa qua với sự tham dự của các vị lãnh đạo TPHCM (tên nhà nước cộng sản Việt Nam đặt cho thành phố Sài Gòn không lâu sau ngày 30/4/1975–chú thích của DĐTK) đã mang lại niềm phấn khởi cho những người yêu văn hóa–lịch sử, đặc biệt là những người hằng tôn kính một nhân vật lịch sử có nhiều công lao đối với vùng đất phương Nam như Tả quân Lê Văn Duyệt.
Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018
NGÔ THẾ VINH: CỐNG ĐẬP CHẶN MẶN GÂY RỐI LOẠN HỆ SINH THÁI VÀ NHỮNG CÁI GIÁ PHẢI TRẢ
Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017
Kỹ sư Phạm Phan Long: Ánh sáng mặt trời và gió: Nguồn năng lượng ưu việt bền vững cho nhân loại trước biến đổi khí hậu
Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015
Ngô Thế Vinh - ĐẬP THUỶ ĐIỆN DON SAHONG IN ĐẬM DẤU TAY TRUNG QUỐC
Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014
Thiện Ngộ - Dấu ấn người Chăm trong lễ cúng đất vùng Nam Trung Bộ
Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014
Nguyễn Văn Tuấn - Những chuyện khó tin trong nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012
NGÔ THẾ VINH - SÁNG KIẾN HẠ LƯU MEKONG 2020 VÀ MỘT HỌC VIỆN MEKONG TRÊN ĐẤT LÀO
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
“Như một phần của ‘Sáng Kiến Cam Kết An Ninh Á Châu Thái Bình Dương’, chúng ta tiến tới “Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020”. Như tên gọi, đó là viễn-kiến-nhiều-năm để Hoa Kỳ có thể trợ giúp mỗi đối tác cũng như toàn thể nhằm xây dựng một lưu vực trù phú.” Hillary Clinton
“Chúng tôi nghĩ rằng Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020 có tiềm năng rất lớn, nhưng chỉ có thể thành công nếu mọi thành viên đều hết lòng tham gia, bởi vì chúng tôi cần ý kiến của các bạn, cần những cuộc đối thoại rất xây dựng và thẳng thắn với chúng tôi”. Hillary Clinton
Đây là bài viết thứ hai tiếp theo bài “Lưu Vực Sông Mekong, Địa Bàn Thách Đố của Hoa Kỳ”. Bài thứ nhất được phổ biến cách đây 4 tháng [04/ 11 / 2012], nay lại có thêm sự kiện mới khi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đưa ra một chương trình mở rộng với tiêu đề “Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020” [07/ 13/ 2012] với Miến Điện là thành viên mới thứ năm. LMI 2020 (Lower Mekong Initiative 2020) đánh dấu sự cam kết lâu dài của Hoa Kỳ với vùng Hạ Lưu Mekong. [3]
Trong bài viết cập nhật này, tác giả-- cũng là người từng quan tâm theo dõi trong nhiều năm về những bước phát triển và suy thoái của con Sông Mekong -- sẽ điểm qua các bước hiện thực và triển khai Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020 cùng với những đề xuất–như một đáp ứng góp ý theo yêu cầu của Ngoại Trưởng Hillary Clinton.
-- Rất sớm từ thập niên 40 thế kỷ trước, các nhà xây đập Hoa Kỳ đã quan tâm tới tiềm năng thủy điện của con sông Mekong. Năm 1957, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, chủ yếu là Hoa Kỳ, một Ủy Ban Sông Mekong [Mekong River Committee] được thành lập bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam.
-- Khi soạn thảo kế hoạch phát triển sông Mekong, Liên Hiệp Quốc đã chia Lưu Vực Lớn sông Mekong [GMS, Greater Mekong Subregion] thành hai tiểu lưu vực phân cách bởi khu Tam Giác Vàng: Lưu Vực Trên (Upper Basin) thuộc Vân Nam Trung Quốc. Lưu Vực Dưới (Lower Basin) thuộc 5 quốc gia hạ nguồn: Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, và Việt Nam.
-- Từ 1968 đến 1971, giữa giông bão chiến tranh, Hoa Kỳ đã cùng Ngân Hàng Thế Giới / World Bank tài trợ cho Lào hoàn tất xây con đập Nam Ngum trên một phụ lưu lớn của Sông Mekong, đây cũng là con đập thủy điện đầu tiên của đất nước Lào.
-- Kế hoạch phát triển Lưu Vực Dưới Mekong đầy tham vọng, nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong vùng, nhưng rồi Chiến Tranh Việt Nam đã lan rộng ra cả ba nước Đông Dương nên kế hoạch xây các đập thủy điện trên dòng chính Sông Mekong, và các chương trình khai thác khác đã phải gián đoạn.
-- Ngày 23/ 07/2009 Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đã đưa ra “Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong” (Lower Mekong Initiative/ LMI), khởi đầu với sự kiện Kết nghĩa giữa Ủy Hội Sông Mekong và Ủy Hội Sông Mississippi. [4]
-- Ngày 7/07/2011 Thượng Viện Mỹ thông qua một nghị quyết 227 kêu gọi bảo vệ Lưu vực Sông Mekong với gia tăng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nhằm hoãn xây các con đập dòng chính Sông Mekong. [8]
-- Ngày 7/13/2012 trong cuộc họp cấp Bộ Trưởng ở Phnom Penh, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đưa ra một kế hoạch với tiêu đề “Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020/ LMI 2020” với thêm Miến Điện là một thành viên mới, đánh dấu sự cam kết lâu dài và mở rộng của Hoa Kỳ với vùng Hạ Lưu Mekong. [1,2]
-- Ngoại Trưởng Hoa Kỳ kêu gọi các quốc gia Mekong cần tránh những lỗi lầm của Hoa Kỳ từ hơn 100 năm qua khi quyết định vội vã xây các con đập và sau đó phải trả bằng những bài học đắt giá. Hoa Kỳ cũng sẵn sàng tài trợ cho những cuộc nghiên cứu ảnh hưởng của các dự án xây đập trên Sông Mekong. [2]
Cách đây hơn 3 năm [23-07-2009], nhân Hội nghị Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á [ASEAN], theo yêu cầu của Hoa Kỳ đã có thêm một cuộc họp bên lề của Ngoại trưởng 5 nước: phía Mỹ là Hillary Rodham Clinton, cùng với 4 Ngoại trưởng vùng Hạ Lưu Sông Mekong gồm có Thái , Lào, Cam Bốt và Việt Nam tại Phuket, Nam Thái Lan. Tiếp theo đó là một thông cáo báo chí, liên quan tới những vấn đề quan tâm chung, đặc biệt là trong các lãnh vực Môi trường, Y tế, Giáo dục, và Phát triển Hạ tầng (infrastructure development) trong vùng.
Trong cuộc gặp gỡ này, Ngoại trưởng Mỹ đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của vùng Hạ Lưu Sông Mekong và của mỗi quốc gia đối với Hoa Kỳ, cùng với cam kết hỗ trợ nhằm thăng tiến hòa bình và thịnh vượng cho khu vực ASEAN như một toàn thể. Các Ngoại trưởng 4 nước Thái , Lào, Cam Bốt và Việt Nam [ lúc đó chưa có Miến Điện cũng là một quốc gia Hạ Lưu ] hoan nghênh sự hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ trong những lãnh vực có ý nghĩa hỗ tương nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững trong vùng.
Năm Ngoại trưởng đã thảo luận về các lãnh vực bao gồm ảnh hưởng biến đổi khí hậu và làm thế nào để đáp ứng có hiệu quả; phòng chống bệnh truyền nhiễm; mở rộng ứng dụng kỹ thuật cho giáo dục và đặc biệt quan tâm phát triển vùng nông thôn; cũng như phát triển cơ sở hạ tầng. Các Ngoại trưởng đã cùng xét duyệt những nỗ lực chung đang tiến hành, và đồng ý mở ra những lãnh vực hợp tác mới; và đặc biệt hoan nghênh sáng kiến “Kết Nghĩa Giữa Hai Ủy Hội Sông Mekong và Ủy Hội Sông Mississippi / Sister-River Partnership ” nhằm chia xẻ kinh nghiệm chuyên môn trong các lãnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu, đương đầu với lũ lụt và hạn hán, khai thác thủy điện và lượng giá ảnh hưởng, quản lý nguồn nước và quan tâm tới an toàn thực phẩm. [4]
Kèm theo đó là “trang dữ kiện/ fact sheet” với những con số cụ thể của Bộ Ngoại Giao Mỹ về Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong:
(1) Môi trường: 7 triệu MK dành cho các chương trình môi trường trong vùng Mekong, đáng kể nhất là kế hoạch kết nghĩa giữa hai Ủy Hội Sông Mekong với Ủy Hội Sông Mississippi của Mỹ để chia xẻ những kinh nghiệm chung . Sẽ yêu cầu Quốc hội Mỹ chuẩn y thêm 15 triệu MK nữa cho năm 2010.
(2) Y tế : 138 triệu MK, tập trung vào điều trị và phòng chống các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS, sốt rét và bệnh lao kháng thuốc, tổng dịch cúm, và chuẩn bị tiến tới một Hội nghị chuyên đề Hoa Kỳ - Mekong về các bệnh truyền nhiễm trong vùng.
(3) Giáo dục: 16 triệu MK, và 500 học bổng Fulbright cho các học giả và sinh viên mỗi năm, phát triển nối kết mạng lưới internet tới thôn quê và tiến tới tổ chức một Diễn đàn Mỹ - Mekong về lãnh vực này.
Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2009 có ý nghĩa biểu tượng quan trọng về sự trở lại của Mỹ trong vùng Đông Nam Á, giữa lúc mà áp lực ghê gớm của Trung Quốc đang đè nặng trên toàn vùng. Với một ngân khoản đầu tư chưa tương xứng so với tầm vóc của chánh sách và nhu cầu của các nước trong lưu vực. Lại càng chưa thể nói là có khả năng “đối trọng” đối với áp lực bành trướng ngày càng gia tăng của Trung Quốc, khi mà Bắc Kinh đang ở thế thượng phong trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong / Greater Mekong Subregion/ GMS so với Hoa Kỳ trong nhiều lãnh vực. [4]
Hình 1_ Hội nghị Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020 cấp Ngoại Trưởng tại Phnom Penh 13/07/2012, có thêm một thành viên mới là Miến Điện với Ngoại Trưởng Wunna Maung Lwin [đứng đầu từ phải] . Source: Heng Sinith / AP
Trong hội nghị này, Ngoại Trưởng Hillary Clinton đã thông báo đưa ra một cam kết mới và lâu dài của Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ cho Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong đã có từ 2009. Nay như một phần của Sáng Kiến Cam Kết An Ninh Á Châu Thái Bình Dương [APSEI / Asia Pacific Security Engagement Initiative], Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020 [LMI 2020] như nội dung của tên gọi, đó là một viễn-kiến-nhiều-năm [multi-year vision] để Hoa Kỳ có thể trợ giúp mỗi quốc gia và toàn vùng nhằm xây dựng một lưu vực sông Mekong trù phú trong nhiều lãnh vực. Có thể nói Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020 là một mở rộng, nâng cao, và lâu dài về tầm nhìn chiến lược của Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á.
Vì thấy được tiềm năng lớn lao trong hợp tác để giải quyết những thách đố về y tế, cơ sở hạ tầng, môi trường và giáo dục, nay thành lập thêm một Nhóm Định Hướng Hành Động [action-oriented group] qua đó có thể cải tiến cách lượng giá về hậu quả thay đổi khí hậu, bắt đầu chia xẻ những kinh nghiệm tốt nhất trong phương cách quản lý những dòng sông lớn như con Sông Mekong.
Có thể kể vài bước sắp tới nhằm cụ thể triển khai Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020/ LMI 2020: [1]
-- Việt Nam sẽ cùng chủ tọa một hội nghị về Môi Sinh và Nước bao gồm rộng rãi các vấn đề vệ sinh, đương đầu với lũ lụt, cung cấp nước cho các đô thị, và những vấn đề liên quan khác.
-- Miến Điện sẽ cùng chủ tọa một hội nghị về các vấn đề Canh Nông và An Toàn Lương Thực cho toàn cư dân lưu vực Sông Mekong. Và cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của ASEAN.
-- Lào cũng sẽ cùng chủ tọa một hội nghị xây dựng một nền móng Nối Kết [Connectivity], nhằm phát triển tối ưu hệ thống giao thông đường xá, các mạng lưới dẫn điện và khép lại sự phân tán của mạng lưới số [digital divide] giữa các cơ sở học viện và các nhóm cư dân.
-- Tiến đến hình thành “nhóm chuyên gia độc lập” từ bên ngoài có khả năng cống hiến những ý tưởng mới mẻ [fresh thinking] về sự kết hợp vùng [subregional integration], phát triển bền vững, ganh đua kinh tế, và quyền lợi hỗ tương trong các lãnh vực khác.
Đi thêm vào chi tiết của Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020, (1) Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ một kết hợp mới [new partnership] giữa Chánh phủ Việt Nam và Đại học Harvard nhằm đào tạo một thế hệ tương lai những chuyên gia và các nhà lãnh đạo vùng trong các lãnh vực chủ yếu,(2) Nỗ lực gia tăng phòng chống sốt rét và biến đổi khí hậu. Hoa Kỳ sẽ đầu tư thêm 50 triệu MK trong 3 năm tới. Đây là phần thêm vào đối với những hỗ trợ song phương [bilateral support] mà Hoa Kỳ đã cung cấp, (3)Và để triển khai mạng lưới điều hợp Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020, bước đầu tiên sẽ là một “tụ điểm điều hợp” [coordination hub] tại cơ quan USAID Bangkok. Và đã tới lúc cần di chuyển trung tâm này tới gần hơn con sông Mekong để chúng ta có thể tăng cường hợp tác và liên lạc.
Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, qua Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020 cũng đã đặt ra “những câu hỏi nghiêm trọng về các con đập trên dòng chính Sông Mekong”.Hoa Kỳ đã từng khẩn thiết kêu gọi các quốc gia Mekong“hoãn xây những con đập mới” cho tới khi lượng giá được mọi ảnh hưởng của những con đập ấy. Một số khảo sát đã đề cập tới lợi lộc của sản xuất thủy điện, nhưng vẫn còn đó các câu hỏi thực sựchưa có lời giải đáp –là hậu quả của các con đập dòng chính ấy trên ngư nghiệp, canh nông, môi trường, sức khỏe và đời sống cư dân sẽ ra sao?
Qua Sáng Kiến Hạ Lưu Sông Mekong 2020, Hoa Kỳ đã sẵn sàng đóng góp thêm 1 triệu MK cho Ủy Hội Sông Mekong cho nghiên cứu và phát triển bền vững Sông Mekong, trong đó có khảo sát về tiềm năng ảnh hưởng những con đập dòng chính. HoaKỳ cũng yểm trợ thêm cho Ủy Hội Sông Mekong 2 triệu MK để thăng tiến Khả năng kỹ thuật cho các phát triển ngư nghiệp bền vững và cải thiện cuộc sống nông thôn.
Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020 có tiềm năng rất lớn, nhưng chính Ngoại Trưởng Hillary Clinton cũng thấy được tính uyển chuyển/ flexible của các dự án và chỉ có thể thành công nếu mọi thành viên đều hết lòng tham gia, góp ý vớinhững cuộc đối thoại rất xây dựng và thẳng thắn.[2]
Trong bài viết cập nhật này, tác giả sẽ bàn về những bước triển khai và hiện thực của Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong 2020 cùng với những đề xuất – như một đáp ứng theo yêu cầu góp ý của Ngoại Trưởng Hillary Clinton.
Đó là vào những năm 1960s giữa cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng leo thang, lúc đó tác giả bài viết này còn là sinh viên, điều hành tờ báoY khoa Tình Thương, tòa soạn nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây cũng là nơicó dịp tiếp các phái đoàn sinh viên quốc tế như WUS (World University Service), và những nhà báo ngoại quốc tới thăm, với một vài tên tuổi tôi còn nhớ như: Takashi Oka phóng viên Chistian Science Monitor & New York Times, Jean-Claude Pomonti báo Le Monde, có cả nhà báo Phạm Xuân Ẩn tuần báo Times của Mỹ (mà sau này mới được biết là một điệp viên tình báo chiến lược của Hà Nội)… [14]
Nói chung giới truyền thông Tây Phương rất quan tâm tới “cái nhìn” của thanh niên sinh viên Việt Nam đối với cuộc chiến tranh đang diễn ra khốc liệt thời bấy giờ. Chưa kể tới cái giá phải trả về sinh mạng, mỗi tuần người Mỹ đổ vào cuộc chiến ấy hàng tỉ MK cho bom đạn và máy bay. Cũng giữa cuộc chiến tranh tàn phá khốc liệt đó, như một bông hoa hiếm trên sa mạc – một Trung Tâm Giáo Dục Y khoa hiện đại với hỗ trợ của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ (American Medical Association) tổn phí 2.7 triệu MK, một nửa do Hoa Kỳ tài trợ,một nửa từ ngân sách Việt Nam, đã được nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt thiết kế và hoàn tất xây cất từ 1966, và trường Y Khoa Sài Gòn từ 28 Trần Quý Cáp, đã được chính thức dọn về địa chỉ mới này trên đường Hồng Bàng. [12]
Dự án xây cất một Bệnh viện Thực tập hiện đại 500 giường cũng trong khu đất kế cận TTGDYK, có cả Helipad tải thương là giai đoạn tiếp theo,đã không thể thực hiện khi người Mỹ bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Cũng tại tòa soạn báo Tình Thương ấy, chúng tôi còn nhớ là đã hơn một lần nói với những nhà báo Mỹ tới thăm ấy, là sau Chiến Tranh Việt Nam, người ta sẽ không còn nhớ đã có bao nhiêu chiếc máy bay và trực thăng bị bắn rơi, nhưng Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Sài Gòn ấy sẽ cứ mãi là biểu tượng xây dựng của Hoa Kỳ trên đất nước Việt Nam.
Hình 2_ Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Sài Gòn với yểm trợ của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ được xây cất và hoàn tất năm 1966 giữa giông bão của cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Và ngót nửa thế kỷ sau, Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa trên Đại lộ Hồng Bàng ấy, được xem như Made in USA ấy, [mà trị giá chỉ hơn một chiếc trực thăng bị bắn rơi] vẫn cứ an nhiên tồn tại, không phải chỉ như một cơ sở vật chất nhưng hơn thế nữa luôn luôn là một dấu ấn xây dựng tốt đẹp trong tâm khảm của người Việt ở cả hai phía.
-- Thời điểm năm 2000, với nhận định Đồng Bằng Sông Cửu Long, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn Sông Mekong, nơi sẽ chịu ảnh hưởng tích lũy do các bước khai thác không bền vững trên suốt chiều dài con sông;đó cũng là nơi trực tiếp bị ảnh hưởng của Biến Đổi Khí Hậu với nhiễm mặn và nước biển dâng cao. Do đó người viết đã đề nghị thành lập một Phân khoa Sông Mekong nơi Đại Học Cần Thơ,đó như một “think tank” có tầm vóc quốc tế,là trung tâm vừa nghiên cứu vừa giảng dạy nhằm cung cấp nguồn chất xám cho toàn lưu vực Sông Mekong.[13]
Nhưng rồi một thập niên trôi qua, Đại Học Cần Thơ vẫn chưa hình thành được một Phân Khoa Mekong, không phải chỉ do hạn chế về nguồn nhân lực và vật lực, nhưng hơn thế nữa do không có một nền “tự trị đại học” thì nơi ấy chưa thể là cái nôi cho một dự án như vậy.
-- Cũng thời điểm năm 2000 ấy, vẫn chưa có những biểu hiện đe dọa nhãn tiền về dự án 11 con đập dòng chính Hạ Lưu Sông Mekong. Vì kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc mới lại được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi / feasibility study của những con “đập dòng chảy / run-of-river” thuộc Lưu Vực Dưới Sông Mekong.
-- Trong số 11 dự án con đập dòng chính Hạ Lưu, thì đã có 9 con đập nằm trên lãnh thổ Lào [ 2 đập còn lại Stung Treng và Sambor, thì thuộc Cam Bốt ]. Xayaburi, 1.260 MW, là con đập dòng chính đầu tiên của Lào, đang gây sóng gió cho toàn lưu vực.
-- Quốc gia Lào với sẵn 9 dự án đập dòng chính và chưa kể vô số các con đập phụ lưu, sẽ là một vị trí địa dư tốt nhất cho một Học Viện Mekong; sẽ đóng vai trò “Ngọn Hải Đăng Trí Tuệ” chỉ đường cho mọi bước phát triển trong lưu vực.
-- Nhu cầu một tụ điểm điều hợp: cho dù đã có một tụ điểm điều hợp [coordination hub] của cơ quan USAID[Agency for International Development of the U.S.] tại Bangkok, nhưngnhư nhận định của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, đã tới lúc cần di chuyển trung tâm này tới gần hơn con Sông Mekong để chúng ta có thể tăng cường hợp tác và liên lạc. [1]
-- Thu hẹp khoảng cách phát triển: Lào là một nước thiếu tài nguyên ngoài tiềm năng thủy điện, được coi là một quốc gia nghèo và kém phát triển nhất trong 5 quốc gia Hạ Lưu Mekong.Một Học Viện Mekong trên đất Lào là một bước cụ thể để thu hẹp khoảng cách phát triển ấy. Đây cũng là một đền bù xứng đáng cho một đất nước bị tàn phá không ít trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai mà Lào không hề trực tiếp tham dự.
-- Cuối cùng nhưng không phải không quan trọng: Học Viện Mekong ấy không những có chức năng vô cùng cần thiết nhưng đó cũng là một chọn lựa đầu tư hiệu quả nhất [the most cost-effective investment] và là một biểu tượng ý nghĩa của hợp tác bền vững của Hoa Kỳ trong thời bình.
Sau đây là đề xuất của tác giả, với đề nghị từng bước thực hiện cụ thể để tiến tới hình thành một Học Viện Mekong:
-- Cơ sở của Học Viện Mekong tương lai sẽ được nhóm kiến trúc sư Mỹ Lào thiết kế (giống như bước khởi đầu của Trung tâm Giáo Dục Y Khoa Sài Gòn do nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt kết hợp). Công trình kiến trúc ấy sẽ vừa phản ánh tính hiện đại vừa mang đậm nét văn hóa của dân tộc Lào. Kinh phíxây dựngmột nửa sẽ do các quốc gia Mekong đóng góp, một nửa từ cơ quan USAID của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên Học Viện Mekong sẽ có một tầm vóc và quy mô lớn hơn TTGDYK Sài Gòn, tương xứng với chức năng của một “học viện nghiên cứu khoa học và giáo dục” trên quy mô của toàn vùng Đông Nam Á.
-- Sự kiện kết nghĩa với Ủy Hội Sông Mississippi là một thuận lợi rất lớn cho những bước phát triển của Học Viện Mekong. Ủy Hội Sông Mississippi với lịch sử hàng trăm năm từ 1879,với kinh nghiệm tích lũy của gồm những thành tựu và cả sai lầm – chính những sai lầm ấy là bài học qúy giá để các quốc gia Mekong không một lần nữa tái phạm. Cũng cần học thêm cả “tầm nhìn xa” của các nhà quy hoạch Mỹ với “Viễn kiến 200 năm như một Cam Kết Liên Thế hệ”(America’s Watershed: A 200-year Vision, An Intergenerational Commitment signed on August20, 2009).
-- Trong khi chờ đợi thiết kế và hoàn tất xây dựng cơ sở cho một Học Viện Mekong như trên, thì địa điểm khởi đầu của Học Viện Mekong có thể sẽ là Đại Học Quốc Gia Lào (NUOL / National University of Laos) ngay thủ đô Vạn Tượng,[cũng là nơi có trụ sở Ủy Hội Sông Mekong]. Đại Học Quốc Gia Lào còn rất non trẻ được thành lập năm 1996, là Đại Học Quốc Gia duy nhất, có liên kết với một số đại học ngoại quốc, chủ yếu là Nhật Bản. Đặc biệt hơn nữa, Đại Học nàycòn là thành viên của Mạng Lưới Giáo Dục và Nghiên Cứu Lưu Vực Lớn Sông Mekong (GMSARN/ Greater mekong Subregion Academic and Research Network) và cũng thuộc Mạng Lưới Đại Học ASEAN (AUN/ ASEAN University Network).
Hình 3_ Logo biểu tượng của Đại Học Quốc Gia Lào, thủ đô Vạn Tượng cũng là thành viên của GMSARN / Mạng Lưới Giáo Dục và Nghiên Cứu Lưu Vực Lớn Sông Mekong.
-- Xây dựng một Trung tâm Học Liệu (Learning Resource Center) chuyên ngành với tất cả sách vở tài liệu liên quan tới hệ sinh thái con sông Mekong và con sông Mississippi, và cả những con sông lớn khác, những con đập thủy điện của thế giới và hậu quả, ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và nạn nhiễm mặn…
-- Thiết lập ban giảng huấn sẽ bao gồm các chuyên gia của Ủy Hội Sông Mekong và Ủy Hội Sông Mississippi, cùng với nhóm Chuyên Viên Tham vấn Quốc tế từ Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc [UNEP/ United Nations Environment Programme], chuyên gia Hội Các Con Đập Thế Giới [WCD/ World Commission Dams], Mạng Lưới Sông Quốc tế [IRN/ International River Network]… Họ sẽ được mời như những Giáo Sư Thỉnh Giảng cho Học Viện Sông Mekong. Tài liệu giảng của họ sẽ là nguồn thông tin vô cùng quý giá do từ những đúc kết qua thực tiễn.
-- Tuyển sinh mở rộng cho toàn lưu vực, từ các thành phần ưu tú biết ngoại ngữ, cộng thêm với tiêu chuẩn Fulbright “học tập xuất sắc và có năng khiếu lãnh đạo”. Việc cấp học bổng cho các sinh viên không phải chỉ có Lào mà cả từ các quốc gia trong toàn lưu vực như Cam Bốt, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam và cả từ Vân Nam Trung Quốc; không thể không bao gồm cả những sinh viên từ quốc gia Tây Tạng, không chỉ là cái nôi của con Sông Mekong và mà của cả những con sông lớn Châu Á.
-- Chương trình hướng tới đào tạo các kỹ sư môi sinh, ngoài phần lý thuyết họ sẽ được tiếp cận với thực tế bằng những chuyến du khảo qua các trọng điểm của con sông Mekong, qua các con đập, và không thể thiếu một thời gian thực tập tại cơ sở các Ủy Hội Sông Mekong và Ủy Hội Sông Mississippi. Họ sẽ ra trường với một tiểu luận tốt nghiệp về những đề tài khác nhau liên quan tới bảo vệ hệ sinh thái của con sông Mekong. Trong một tương lai xa hơn, có thể tiến tới những chương trình hậu đại học / post graduate education cho các học vị thạc sĩ và tiến sĩ.
Với trình độ kiến thức và tinh thần liên đới của đám sinh viên đa quốc gia ấy sẽ là “nguồn chất xám” bổ sung cho Ủy Hội Sông Mekong, thế hệ chuyên viên và lãnh đạo tương lai cho các chánh phủ địa phương đang bị thiếu hụt nhân sự trầm trọng. Lớp chuyên viên trẻ đầy năng động này sẽ là mẫu số chung của một “Tinh Thần Sông Mekong”, tạo sự nối kết mở đường cho các bước hợp tác phát triển bền vững của 7 quốc gia trong toàn lưu vực sông Mekong. [7]
--Học Viện Mekong sẽ là nơi diễn ra các Hội Nghị Quốc Tế, các cuộc Hội Thảo về Sông Mekong. Hướng đến thời điểm 2020,với 9 dự án đập dòng chính, đất nước Lào nói riêng và cả Lưu Vực Dưới Sông Mekong nói chung,nơi ấy đang trở thành “một trận địa môi sinh” khốc liệt không phải chỉ do hậu quả những con đập thủy điện bậc thềm khổng lồ của Trung Quốc trên thượng nguồn mà còn do những bước “khai thác tự hủy”của chính các quốc gia hạ nguồn.
TỚI SÁNG KIỀN HẠ LƯU MEKONG 2100
Phải xem đây như một kế hoạch đầu tư dài hạn và rất ý nghĩa cho “Một Tinh Thần Sông Mekong” trong toàn bộ các kế hoạch hợp tác và phát triển vùng. Mốc thời gian không phải chỉ có 8 năm [2012 – 2020], Học Viện Mekong sẽ là “viễn kiến 100 Năm”thế kỷ đầu của Thiên Niên Kỷ thứ Ba này.
Đã có những công trình tặng dữ nặng tính phô trương trên đất nước Lào: như Cung Văn Hóa do Trung Quốc xây ở Vạn Tượng, Viện Bảo Tàng Kaysone Phomvihane do Việt Nam xây ở Cây Số Sáu… Nhưng Học Viện Mekong là một biểu tượng khác hẳn: có một giá trị giáo dục và nhân bản không chỉ giúp ích cho đất nước Lào mà với cả Lưu Vực Lớn Sông Mekong/ Greater Mekong Subregion, mà là mối quan tâm cho hạnh phúc và an sinh cho hàng trăm triệu cư dân trong lưu vực mà xa hơn nữa là bảo vệ một con sông lớn thứ 11 của thế giới với cả một hệ sinh thái vô cùng phong phú – chỉ sau con Sông Amazon, trên toàn hành tinh này.
Cho dù bà Hillary Clinton không còn giữ chức Ngoại Trưởng trong nhiệm kỳ Tổng Thống mới của Hoa Kỳ, ông Jim Webb không còn là Thượng Nghị Sĩ của Thượng Viện, dù Dân Chủ hay Cộng Hòa, thì dấu ấn của “Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong”của Ngoại Trưởng Hillary Clinton cho những bước “phát triển bền vững, sustainable development” của toàn Lưu Vực không thể không tiếp tục và triển khai vì giá trị chiến lược và biểu tượng xây dựng hòa bình của viễn kiến ấy.
Dĩ nhiên có một cái giá cao và xứng đáng phải trả để bảo vệ con Sông Mekong: bảo vệ nguồn cá, nguồn lương thực, và bảo vệ cả một hệ sinh thái được coi như phong phú nhất của hành tinh này, cũng là bảo vệ cuộc sống hiện nay của ngót 70 triệu cư dân sống trong lưu vực và cả cho cho các thế hệ tương lai. Với tâm niệm rằng “Nói tới nguy cơ là còn thời gian. Tiêu vong là mất đi vĩnh viễn” (Endangered means we still have time. Extinction is forever -- Sea World San Diego).
NGÔ THẾ VINH, M.D.
California, 08/ 16/ 2012
Tham Khảo:
1/ Remarks From the Fifth Lower Mekong Initiative Ministerial
Remarks; Hillary Rodham Clinton; Phnom Penh, Cambodia, July 13, 2012http://www.state.gov/secretary/rm/2012/07/194971.htm
2/ Remarks at the Second Friends of the Lower Mekong Ministerial
Remarks; Hillary Rodham Clinton, Phnom Penh, Cambodia; July 13, 2012http://www.state.gov/secretary/rm/2012/07/194957.htm
3/ The Mekong Basin: A Challenging Neighborhood for The U.S. Ngô Thế Vinh; http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/88
4/ The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership: Similarities and Differences; Ngô Thế Vinh, http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/58
5/ Challenge to Water and Security in Southeast Asia; U.S. Senate Committee on Foreign Relations; September 23, 2010; http://www.foreign.senate.gov/hearings/hearing/?id=4c2fd291-5056-a032-52fd-414f26c49704
6/ China Sees U.S. as Competitor and Declining Power, Insider Says; By Jane Perlez, April 2, 2012; http://www.nytimes.com/2012/04/03/world/asia/chinese-insider-offers-rare-glimpse-of-us-china-frictions.html?_r=1&hp
7/ Challenge to Water and Security in Southeast Asia; U.S. Senate Committee on Foreign Relations; Presiding: Senator Webb, Thursday, September 23, 2010; http://www.foreign.senate.gov/hearings/hearing/?id=4c2fd291-5056-a032-52fd-414f26c49704
8/ The Senate of The United Stated; S.Res. 227, July 7, 2011, A resolution calling for the protection of the Mekong River Basin and increased U.S. support for delaying the construction of mainstream dams along the Mekong River.http://www.govtrack.us/congress/bills/112/sres227/text
9/ The Mekong River at Risk 2012: With The “Spirit of The Mekong” We will Together Develop the Basin. Ngô Thế Vinh;http://www.vietecology.org/Article.aspx/Article/80
10/ Mekong, Tipping Point: Hydropower Dams, Human Security and Regional Stability; Richard Cronin, Timothy Hamlin; The Henry Stimson Center 2010; www.stimson.org
11/ Upon Their Shoulders: A History of The Mississippi River Commission from its Inception through the Advent of The modern Mississippi River and Tributaries Project. Charles A. Camillo and Mathew T. Pearcy. Mississippi River Commission; Vicksburg, Mississippi, 2006
12/ Saigon Medical School: An Experiment in International Medical Education: An Account of the American Medical Association’s Medical Education Project; C.H. William Ruhe and Ira Singer; Published by AMA June 1988.
13/ “Cần có Phân khoa Mekong cho Đại học Cần Thơ”http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/334051/“Can-co-phan-khoa-Mekong-cho-Dai-hoc-Can-Tho”.html
14/ Nguyệt San Tình Thương 1963-1967; Tiếng Nói của Sinh Viên Y Khoa; Ngô Thế Vinh; Tình Thương Một Thời Nhân Bản, Tập San Y Sĩ –Hội Y Sĩ Việt Nam Canada, số 184, 01-2010.
Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012
Trương Nhân Tuấn - Biên giới Việt Trung theo các công ước về biên giới Pháp Thanh 1887 – 1895 (2)
- Những hòn đảo ở phía Ðông kinh tuyến Paris, 105° 43’ của kinh độ Ðông, có nghĩa là đường Bắc Nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ 茶古 thì thuộc về Trung Hoa ; những hòn đảo tên Cữu-Ðầu九頭 và những đảo khác ở phía Tây của đường kinh tuyến nầy thì thuộc về An Nam.
- Từ Trúc Sơn 竹山, đường biên giới theo dòng sông từ Ðông sang Tây cho tới Ðông Hưng 東興 và Mang Nhai 硭 鈣.
- Từ Ðông Hưng 東興 và Mang Nhai 硭街 cho tới Gia Long 加隆 (còn viết là嘉隆) và Bắc Thị 北市 đường biên giới khá ngoằn ngoèo và dòng sông đại để đi theo hướng Tây Bắc.
Theo các công ước đã được hai ủy ban công nhận trong phiên họp khai mạc công trình phân giới, vào ngày 1 tháng 12 năm 1889 nhằm ngày 8 tháng 10 năm Quang Tự thứ 15, người ta luôn chọn đường biên giới là đường nước tàu bè lưu thông, có nghĩa là phần sâu nhất của dòng sông, là đường giới hạn giữa hai nước.
Nếu sau nầy, vì ngập lụt hay vì cạn nước, đường tàu bè thông lưu thay chỗ, và nếu những dãi đất hay các cù lao được thành hình, đường biên giới sẽ đương nhiên dời qua đường tàu bè thông lưu mới và những dãi đất hay cù lao mới thành hình sẽ thuộc về nước mà phía bờ của nó ở đó.
Theo biên bản đã ký tại Móng Cái ngày 29 tháng 3 năm 1887 tức ngày thứ năm tháng 3 năm Quang Tự thứ 13, địa phận Thác Lãnh 托嶺 thuộc về An Nam.
Cả hai ủy ban đã không thể biết địa phận nầy ở đâu, nêu cùng quyết định sẽ không tìm kiếm thêm nữa.
- đường biên giới là nhánh sông tây bắc hay nhánh sông tây nam ? Theo biên bản phân định biên giới ngày 29-3-1887, đường biên giới được mô tả: “Từ Bắc Thị - Gia Long đường biên giới theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị 北市江, có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là 561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông,...” Nhưng trên thực tế thì có hai nhánh sông, đều ở về phía tây ngạn sông Bắc Thị, cùng có chiều dài khoảng 30 lí, nhưng một nhánh có hướng tây bắc, một nhánh có hướng tây nam. Chiếu theo bản đồ phân định, hướng đi của đường biên giới, từ hợp lưu sông Bắc Thị - Gia Long, đến điểm A, là hướng tây bắc. Như thế, hợp lý, đường biên giới phải là nhánh sông có hướng tây bắc. Nhưng phía Trung Hoa thì không đồng ý với nhận thức này. Họ quan niệm đường biên giới là nhánh tây nam. Theo họ, chiều dài con sông chỉ tính khi nó chảy trên đồng bằng. Phần chảy trong núi non thì không tính. Như thế, nhánh tây bắc không đủ chiều dài 30 lí! (Xem sơ đồ 1)
- Quan niệm về đường thẳng. Biên bản phân định ngày 29 tháng 3 năm 1887 mô tả hướng đi đường biên giới : “khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông, theo đường thẳng trực tiếp để đến điểm cách Ðộng Trung 峝中村 3 lí về hướng Bắc, tức điểm được đánh dấu A (甲) trên bản đồ số 1.” Trên bản đồ do các trác địa viên Pháp thành lập, đường thẳng nối từ điểm “đường biên giới rời sông” cho đến điểm A trên bản đồ số 1 có hướng đông nam – tây bắc. Nhưng phía người Hoa không nhìn nhận đường này là “đường thẳng” mà là “đường nghiêng”. Theo họ, đường thẳng phải là đường “ngang” và đường “dọc”. Đường biên giới theo họ phải là đường nối ngang, từ điểm “đường biên giới rời sông” cho đến phía nam chợ Động Trung. Sau đó, từ điểm này vạch một đường thẳng đến điểm A (cách chợ Động Trung 3 lí). (Nhận diện điểm A trên sơ đồ 1 – so sánh đường biên giới theo đường thẳng trên các bản đồ 1 và 2).
- Tranh chấp về vị trí núi Phân Mao. Biên bản phân định ngày 29 tháng 3 năm 1887 phân chia : “Ðường biên giới chia cho phía Trung Hoa các vùng Lãnh Hòa 嶺懷, Phi Lao 披勞, Bản Hưng 板興 v.v… và một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺, núi này ở phía Ðông Nam của Bản Hưng 板興 và dựa lên đường biên giới.” Nhưng núi này ở cách xa vùng phân định vài chục cây số. Nhưng người Hoa đã dựng lên một đền thờ Mã Viện giả ở dưới một ngọn núi kế cận Bản Hưng, gọi đó là Phân Mao Lãnh. Sau khi bị khám phá, họ bào chữa rằng đó là núi Tiểu Phân Mao.
- Toàn vùng tranh chấp được gọi là « vùng Hoàng Mô » ở khoảng giữa Bắc Cương Ải và Bắc Phong Sinh thì có nhiều núi non, ít dân cư, và vì sự nghèo nàn của nó, vùng nầy sẽ không có một tầm quan trọng lớn đối với nước Pháp.
- Nên áp dụng đúng với tinh-thần biên bản số 1 ngày 29 tháng 3 năm 1887 của Ủy Ban Phân Ðịnh Biên Giới mà các điều khoản chính đã được lập lại trong Công Ước Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887.
- Phải tìm mọi nơi có thể được để đường biên giới giữa hai nước là đường thiên nhiên, như dòng sông, đường sống núi, v.v..
Vị trí các cột mốc được ghi chú trên hai bản đồ ở phần 5.
![]() |
Cột mốc vùng Quảng Đông (phía Trung Quốc) Hình trên : kiểu mẫu cột mốc biên giới khu vực Quảng Đông, phía Trung Hoa. |
Tạm dịch biên bản 24-6-1890 :
Sau khi nghiên cứu, giữa hai cực điểm này, đồ tuyến biên giới giữa Trung Hoa và An Nam, tức là đoạn thứ hai của biên giới Quảng Ðông,
Ủy Ban Pháp chiếu đúng theo nội dung biên bản phân định biên giới ký tại Móng Cái ngày 19 tháng 3 năm 1887, nhằm ngày mồng 5 tháng 3 năm Quang Tự thứ 13, giữa Ủy Viên Hoàng Gia Tseng và Bộ Trưởng Pháp Dillon, và chiếu theo bản đồ số 1 trên tất cả các chi tiết của nó đã được công nhận là chính xác, đã vạch đồ tuyến biên giới như sau:
- Từ Bắc Thị 北市 và Gia Long 加隆, biên giới theo đường trung tuyến của sông Gia Long mà sông này là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị北市.
Các Ủy Ban Phân Ðịnh đã lấy đường biên giới là nhánh sông Tây Bắc cho đến nguồn của nó. Ủy Ban phân giới Pháp đã lấy điểm nguồn của sông này để làm điểm gốc cho một đường thẳng vạch đến điểm A, điểm này ở cách 3 lý về hướng Bắc ngôi chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中. Ðường thẳng này tạo thành đường biên giới giữa An Nam và Trung Hoa, từ điểm nguồn của sông này với điểm A (甲).
Về phần trái núi Phân Mao Lãnh 分茅嶺 thì không ở về phía Ðông Bắc của Bản Hưng 扳興, cũng không ở một địa phương nào trong vùng; các vụ tìm kiếm tỉ mỉ nhất cũng đã không tìm thấy, cái tên này hoàn toàn xa lạ trong dân chúng.
- Từ điểm A (甲)đường biên giới đi về hướng Bắc Cương Ải 北崗隘; bắt buộc bao bọc làng Trình Tường thuộc An Nam, vì vậy tạo thành một vòng cung mà phần lồi quay về hướng Ðông.
Về ngọn núi Phái Thiên Sơn 派遷山, theo dân địa phương thì nó ở cách nhiều ngày đường về hướng Tây chứ không phải ở vùng chung quanh Bắc Cương Ải 北崗隘. Nhưng vị trí của ải mang tên này cũng không được xác định một cách rõ ràng; nó ở khoảng 30 lí theo đường thẳng từ làng thuộc An Nam tên Bình Liêu苹寮.
Chiếu đúng theo biên bản phân định biên giới, các làng Na Quang 那光 và Bản Thân (Thôn) 板吞 ở bên phía biên giới (đối diện với An Nam) thì thuộc về Trung Hoa.
Việc nên ghi nhận, ngược với những chi tiết ghi trên bản đồ số 1, Bắc Cương Ải 北崗隘 theo lẽ ở về phía Tây Nam Ðộng Trung 峝中 thì ở phía Bắc của làng này, mà làng này ở về phía Nam chứ không phía Bắc của làng Trình Tường呈祥; hướng tổng quát của đường biên giới đáng lẽ là từ Ðông Bắc đến Tây Nam thì trước hết từ Tây Nam đến Ðông Bắc, sau đó từ Nam lên Bắc và cuối cùng từ Ðông Bắc đến Tây-Nam, có nghĩa là hầu như đi ngược lại hoàn toàn nội dung bản đồ số 1.
![]() |
sơ đồ đồ tuyến đường biên giới theo đề nghị của phái đoàn Pháp |
- Bắt đầu từ ngã rẽ của sông Gia Long 加隆, Ủy Ban Trung Hoa lấy đường biên giới là nhánh sông đến từ hướng Tây Nam, nhánh này không có vẽ trên bản đồ số 1, sau đó họ rời nhánh sông này trước rất xa điểm nguồn của nó, tại điểm mà thế nào đường thẳng bắt nguồn từ điểm này để đến điểm ở tại chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 có một hướng chính xác Ðông Tây.
- Theo họ, nhánh sông Gia Long 加隆 đến từ hướng Tây Nam thì quan trọng hơn nhánh đến từ hướng Tây Bắc; nhánh sau cùng chỉ là một phụ lưu.
- Nếu họ không lấy biên giới là con sông cho đến tận nguồn, vì theo họ, toàn thể chiều dài của sông chỉ có nghĩa là toàn thể chiều dài trên vùng đồng bằng; tất cả phần của dòng sông chảy trong núi thì không tính.
- Nếu họ nối đến chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 mà không nối đến điểm A (甲), là điểm mà đường biên giới rời khỏi sông Gia Long 加隆, vì dưới mắt họ, chỉ có những đường thẳng đi từ Ðông sang Tây hay ngược lại. Tất cả những đường có hướng khác là những đường nghiêng.
![]() |
sơ đồ đồ tuyến đường biên giới theo đề nghị của phái đoàn Trung Hoa |
- Nói rằng nhánh Tây Nam của sông Gia Long 加隆 thì quan trọng hơn nhánh Tây Bắc là không đúng; lưu lượng hai nhánh sông ở tại nơi hợp lưu thì gần giống như nhau; dân địa phương chỉ định một cách bất kỳ nhánh này hay nhánh kia là dòng chánh của con sông.
- Các Ủy Viên Pháp không thể chấp nhận lý thuyết mới cũng như lạ đời là con sông chỉ bắt đầu tính khi nào nó chảy ở đồng bằng.
- Các Ủy Viên Pháp cũng không thể chấp nhận lý thuyết còn lạ hơn lý thuyết trước là những đường thẳng chỉ có thể vạch từ Nam lên Bắc hay từ Ðông sang Tây, hoặc ngược lại.
- Giữa điểm A (甲) và Bắc Cương Ải 北崗隘, Ủy Ban Trung Hoa chỉ trích rằng đồ tuyến của Ủy Ban Pháp thì quá ngoằn nghoèo. Họ đòi hỏi một đồ tuyến trực tiếp giữa hai điểm trên mà không nghĩ đến việc phải tránh làng Trình Tường mà biên bản phân định biên giới đã chỉ định là của An Nam.
Ủy Ban Pháp chỉ biết ghi nhận lời tuyên bố này mặc dầu thấy rằng các Ủy Viên Trung Hoa dường như mâu thuẫn với các chi tiết địa lý được công nhận cho đến ngày hôm nay cũng như với nội dung của biên bản phân định 29 tháng 3 năm 1887.
Tóm lại, Ủy Ban Pháp giữ nguyên đồ tuyến của họ từ hợp lưu của sông Gia Long 加隆 cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘, vì cho rằng nó phù hợp hoàn toàn với biên bản cũng như những phần đã được công nhận là đúng trong bản đồ số 1 kèm theo biên bản nói trên.
Ủy Ban Pháp phản đối đồ tuyến do Ủy Ban Trung Hoa đề nghị vì nó đi ngược lại hoàn toàn với công ước.
Trong các điều kiện này, sự thỏa thuận không thể đạt được giữa hai Ủy Ban, họ cùng biểu quyết, trong một thỏa ước chung, hai bên sẽ đệ trình vấn đề lên Tổng Lý Nha Môn và Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh để giải quyết. Hai ủy ban chia tay và chờ đợi sự quyết định chung cuộc.
Dầu vậy, trước khi rời các Ủy Viên Trung Hoa, Ủy Ban Pháp làm một bản tuyên bố như sau:
Trên bản đồ số 1, do các nhà địa dư Trung Hoa vẽ mà các Ủy Viên Pháp tin tưởng và không thể kiểm chứng lại, Ðộng Trung 峝中 được đặt cách hơn 25 cây số, khoảng 45 lí, về phía Bắc của vị trí thật sự của nó.
Như thế theo bản đồ, đường biên giới theo đường thẳng bắt đầu từ nguồn Bắc của sông Gia Long đi về hướng Tây Bắc, rồi sau đó trở lại hướng Ðông Nam về Bắc Cương Ải 北崗隘, nhưng sự thực thì ngược lại.
Từ nguồn Bắc của sông Gia Long 加隆 cho đến điểm A, đường biên giới theo đường thẳng từ Ðông Bắc đến Tây Nam, sau đó lên lại về hướng Bắc để đến Bắc Cương Ải 北崗隘.
Lầm lẫn do bản đồ vẽ không đúng địa hình. Ủy Ban Phân Ðịnh Pháp tưởng rằng vùng đất đó thuộc An Nam, tạo thành một góc nhọn đâm sâu hơn 25 cây-số, khoảng 45 lí, vào Quảng Ðông, nhưng trên thực tế thì đất nầy đâm sâu vào lãnh thổ An Nam như một góc nhọn.
Mặt khác, sự nghiên cứu, trên bản đồ cũng như trên thực địa, về đường biên giới qui ước, cho thấy sai lầm ở khắp nơi và vì vậy không thể chấp nhận được.
Ðường biên giới này thực ra, trên toàn chiều dài của nó, theo một con đường băng qua các sườn núi, cắt những con sông, vượt ngang đồng bằng mà không theo cách cấu tạo hình thể của đất đai.
Vì thế, nếu được phân giới với những cẩn trọng, việc này cũng sẽ đem lại những tranh chấp liên tục và những khó khăn về mọi mặt giữa hai cường quốc láng giềng.
Vì các lý lẽ đó, Ủy Ban Phân Giới Pháp cho rằng: