Hiển thị các bài đăng có nhãn Lưu Hiểu Ba. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lưu Hiểu Ba. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

Lưu Hiểu Ba: Từ những cuốn sách cấm nhìn về bệnh nhiễm trùng huyết đối với tính cầm quyền chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc


(Trích “Cái chết chìm của siêu cường – Lời cảnh tỉnh gửi tới Trung Quốc”
– Lotus Media xuất bản, 2107)

Với một Trung Quốc hiện tại không có tự do xuất bản, tự do ngôn luận, có hẳn cơ quan chuyên môn phụ trách quản chế ngôn luận, ý thức hệ, về phía Đảng có Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, về phía chính phủ thì có Tổng cục báo chí và xuất bản, Tổng cục phát thanh, truyền hình và điện ảnh nhà nước. Những biện pháp nhằm quản lí nghành xuất bản, chính là mỗi cuối năm cũ đầu năm mới sẽ tổ chức một hội nghị nội bộ của nghành xuất bản. Bên tổ chức hội nghị là Ban tuyên truyền Trung ương và Tổng cục báo chí và buất bản, người tham gia là Ban tuyên truyền khắp các nơi trên toàn Trung Quốc, các viên chức của Tổng cục báo chí và xuất bản, người phụ trách các nhà xuất bản trên toàn quốc cũng như nhân vật hàng đầu của các báo, tạp chí. Hội nghị sẽ dựa theo “chính trị xác tín” của Đảng Cộng sản Trung Quốc để tổng kết thành tích trong 1 năm đã qua của công tác xuất bản, mà công tác tổng kết mỗi năm sẽ không thể thiếu được công việc định ra một “ danh sách sách cấm”, danh sách này sẽ do Phó giám đốc lĩnh vực xuất bản, phát hành trực thuộc Tổng cục báo chí xuất bản đưa ra. Những cuốn sách có tên trong danh sách sẽ không tiếp tục được xuất bản phát hành; Những nhà xuất bản bị điểm danh, nếu nhẹ thì sẽ bị kiểm tra và bị phạt, nếu nặng thì bị miễn chức, sau đó là đóng cửa nhà xuất bản.

The Economist, 15/7/2017/Phan Trinh dịch: Cái chết của Lưu Hiểu Ba: Thông điệp cho Trung Quốc và phương Tây


LƯU HIỂU BA, mất ngày 13/7 vừa qua, không là cái tên cửa miệng ở phương Tây. Tuy nhiên, với người Trung Quốc đang đòi dân chủ, đang chống lại dã tâm cản đường dân chủ của Đảng Cộng sản, thì cái tên Lưu Hiểu Ba lại rất nổi bật. Tiếng nói uy nghiêm, trầm tĩnh và không ngưng nghỉ kêu đòi tự do cho dân tộc Trung Quốc của Lưu Hiểu Ba đã khiến ông trở thành một trong những nhà phản kháng vì lương tâm nổi tiếng nhất thế giới, cùng hàng ngũ với Andrei Sakharov và Nelson Mandela. Ông cũng là tù nhân lương tâm đoạt giải Nobel Hoà bình như họ.

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Ngô Nhân Dụng: Tưởng niệm Lưu Hiểu Ba


Năm 1989 nhà phê bình văn học Lưu Hiểu Ba đang làm giáo sư thỉnh giảng ở Đại Học Columbia, New York, thì cuộc biểu tình của các sinh viên và công nhân tại Bắc Kinh bùng lên. Ông vội vã bay trở về Trung Quốc tham dự. Dần dần, ông được coi là một người lãnh đạo. Ngày 2 Tháng Sáu, Lưu Hiểu Ba cùng ba người bạn bắt đầu tuyệt thực đòi hỏi đảng Cộng Sản phải dân chủ hóa nước Trung Hoa.

Họ tuyên bố: Chúng tôi hô hào phát triển chế độ dân chủ ở Trung Quốc theo đường lối hòa bình. Chúng tôi chống bạo động dưới mọi hình thức. Nhưng chúng tôi cũng không sợ bạo lực.


Thứ Bảy, 15 tháng 7, 2017

Người đọc: Bùi Khiết: Đọc Tác Phẩm Trước Khi Bão Lụt Tràn Tới: Bảo Đại - Trần Trọng Kim và Đế Quốc Việt Nam (9/3/1945 - 30/8/1945) của Phạm Cao Dương

72 năm sau, sự thực lịch sử vẫn còn bị tránh né: Nhân vụ hồi ký Một Cơn Gió Bụi bị thu hồi, vụ Lưu Hiểu Ba và ngày 19 tháng 8, ngày Việt Minh cướp chính quyền 72 năm trước: 
Lời giới thiệu: Bùi Khiết là một dược sĩ, tốt nghiệp Đại Học Dược Khoa Saigon, thời đầu thập niên 1960. Sau năm 1975, ông là cộng sự viên nghiên cứu khoa học tại University of California, San Diego, California.  Bài điểm sách dưới đây cho ta thấy mặc dầu là một người học dược, một ngành thuộc khoa học thực nghiệm khác hẳn với sử  học, một khoa học nhân văn, tác giả lại tỏ ra quan tâm nhiều đến lịch sử của đất nước ông, có kiến thức rộng rãi và tinh thần phân tích sắc bén rất đáng chú ý, từ trước tới nay ít ai để ý tới. Điều người ta có thể nói lên được sau khi đọc bài ông viết là khoa học, dầu là chính xác, thực nghiệm hay nhân văn cũng đều là khoa học mà mục tiêu tối hậu luôn luôn là sự thật và là sự thật được đem lại bởi những phuơng pháp dù có đôi phần khác biệt.         
Tôi cảm thấy vô cùng hân hạnh nhận được một công trình nghiên cứu mới về sử học của tác giả Phạm Cao Dương, một nhà giáo và cũng là một nhà nghiên cứu sử học quen thuộc ở Miền Nam trước đây và hiện ở Hải Ngoại, tác phẩm: Trước Khi Bão Lụt Tràn Tới:Bảo Đại -Trần Trọng Kim và Đế Quốc Việt Nam 9/3/1945 - 30/8/1945, Amazon in ấn và phát hành  đầu  ăm 2017. Đây là một công trình soạn thảo rất công phu . Sách in đẹp rõ ràng và không có lỗi ấn loát. Tôi đọc cẩn thận và cũng nhân dịp này có một vài cảm nghĩ về tác phẩm của ông.

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

Trọng Nghĩa/RFI: Bắc Kinh sai lầm khi để Lưu Hiểu Ba chết trong lúc bị giam giữ ?

Đặt hoa và nến tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, trước trung tâm Nobel Hòa Bình 
tại Oslo, Na Uy. Ảnh ngày 13/07/2017. - Reuters

Ngay sau khi tin Giải Nobel Hòa Bình Lưu Hiểu Ba qua đời vì bệnh ung thư được loan báo ngày 13/07/2017, cả thế giới lập tức có phản ứng đối với chế độ Bắc Kinh, bị cáo buộc là đã nhẫn tâm giam giữ nhà ly khai, không cho ông ra nước ngoài chữa trị, chờ đến khi hết cách chữa rồi mới chuyển ông đến bệnh viên. Tính chất gay gắt của những lời chỉ trích gợi lên câu hỏi là phải chăng Trung Quốc đã sai lầm nghiêm trọng trong cách xử lý vụ việc này ?

Lời lên án Bắc Kinh gay gắt nhất đến từ Ủy Ban Nobel Hòa Bình, đã cho rằng Trung Quốc phải chịu « trách nhiệm nặng nề » về việc ông Lưu Hiểu Ba qua đời « sớm » khi không cho ông được chăm sóc y tế đầy đủ.

Tuấn Khanh: Cho những người không quen


Tháng 12 năm 2012, tôi nhận được một email rất lạ. Người gửi cũng từ một người không quen, ở mãi tận Nam Phi. Lá thư điện tử đó từ Tổng giám mục Desmond Tutu. Ông là nhà lãnh đạo tôn giáo lừng danh chống lại chủ nghĩa kỳ thị và đấu tranh cho giá trị con người, đã từng nhận giải Nobel Hòa Bình vào năm 1984, giải Gandhi Hòa Bình năm 2007, và nhiều giải thưởng cao quý khác.

Lá thư của ngài Desmond Tutu kể với tôi rằng, ở đâu đó tại nước Trung Quốc cộng sản, có một người bạn của ông tên là Lưu Hiểu Ba đang bị cầm tù và chịu đựng bệnh tật như một cách trả thù của chính quyền. Đơn giản chỉ vì ông Lưu lên tiếng tranh đấu cho tự do và quyền làm người. Ngài Desmond Tutu muốn tôi cùng góp một chữ ký vào thư kêu gọi Nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc hãy trả tự do cho ông Lưu Hiểu Ba, trong một chiến dịch của thế giới văn minh cùng gõ vào cánh cửa độc tài, mà đứng ở hàng đầu là hơn 130 khôi nguyên của các giải Nobel qua nhiều thời kỳ.

Lưu Hiểu Ba: “Tôi Không Có Kẻ Thù” – Tuyên Bố Cuối Cùng Của Tôi



Tháng 6 năm 1989 là bước ngoặt quan trọng của cả cuộc đời đã qua hơn 50 năm của tôi. Trước kia, tôi từng là một sinh viên trong lứa đầu tiên được tuyển sinh vào trường đại học vừa mở cửa lại sau Đại Cách Mạng Văn Hoá( khóa 77); đường học vấn của tôi diễn tiến êm ả từ cử nhân lên Thạc sĩ rồi Tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp, tôi được giữ làm giảng viên trường Đại Học Sư Phạm Bắc Kinh. Trên bục giảng, tôi là một thầy giáo được nhiều sinh viên biết đến. Đồng thời tôi cũng là một trí thức của công chúng, trong những năm 1980, tôi viết nhiều bài báo và sách có tiếng vang. Tôi thường đi lại nhiều nơi diễn thuyết, được mời đi làm học giả khách mời tại Châu Âu và Hoa Kỳ. Tôi tự đưa ra cho mình những yêu cầu: bất kể là làm người hay làm văn, đều phải sống thành thật có trách nhiệm, và lòng tự trọng tôn nghiêm. Sau đó, bởi vì tôi từ Hoa Kỳ trở về Trung Quốc tham gia phong trào sinh viên 1989, bị tống vào tù vì “ tội tuyên truyền phản cách mạng và kích động bạo loạn”, mất đi vị trítrên giảng đường mà tôi yêu thích, từ đó cũng không còn được phép công bố những bài viết và diễn thuyết tại Trung Quốc. Chỉ bởi vì một chuyện là phát biểu quan điểm khác biệt về chính trị và tham gia các phong trào dân chủ và hoà bình, mà một thầy giáo phải xa bục giảng, người cầm bút bị cấm xuất bản, và người trí thức công cộng mất cơ hội diễn thuyết công khai với công chúng. Điều này đáng buồn cho cá nhân tôi đã đành, mà còn cho cả đất nước Trung Quốc sau ba thập niên đổi mới và mở cửa.

Lưu Hiểu Ba: Ánh sáng đến từ nhân dân trong cơn địa chấn


Năm 2008 đối với Trung Quốc, được gọi là “năm Olympic”, nhưng động đất lại đột nhiên tới rồi, cho đến tận hôm nay đã có hơn 14000 sinh mệnh chết đi, trong đó có rất nhiều học sinh bị đè chết từ những đống đổ nát ở trường học. Bất luận chính quyền có nguyện ý hay không, vào lúc quốc nạn lâm đầu như thế, động đất và cứu hộ thiên tai quan trọng hơn tất cả, trên thực tế nó đã thay thế Olympic trở thành sự kiện lớn có sức ảnh hưởng nhất đối với Trung Quốc trong năm 2008. Cũng bất kể chính quyền có nguyện ý hay không, dư luận Trung Quốc đã đưa ra lựa chọn: “năm Olympic 2008” đổi thành “năm động đất Tứ Xuyên 2008”.

Lotus: Giới thiệu sơ lược về Lưu Hiểu Ba

Lưu Hiểu Ba 刘晓波

Lưu Hiểu Ba 刘晓波 sinh ngày 28 tháng 12 năm 1955, là một nhà hoạt động nhân quyền và trí thức Trung Quốc. Ông từng là Chủ tịch của Trung tâm Văn Bút Quốc tế độc lập của Trung Quốc từ năm 2003. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2008, Lưu Hiểu Ba bị câu lưu hình sự vì việc ông tham gia khởi thảo Hiến chương 08. Lưu Hiểu Ba bị buộc “Kích động bạo loạn lật đổ chính quyền” vào ngày 23 tháng 12 năm 2009, và bị kết án 11 năm tù và bị tước quyền lợi chính trị hai năm vào ngày 25 tháng 12 năm 2009.

Giải Nobel Hòa bình năm 2010 được trao cho ông bất chấp áp lực từ chính quyền Trung Hoa ngăn cản việc trao giải cho ông. Lưu được ủy ban giải Nobel hòa bình trao giải vì “cuộc đấu tranh trường kỳ bất bạo động vì quyền con người ở Trung Quốc”.Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-Moon cho rằng giải thưởng dành cho Lưu Hiểu Ba là “sự công nhận rằng thế giới ngày càng đồng thuận trong việc cải thiện quyền con người”. Phát ngôn viên của chính phủ Đức Steffen Seibert tuyên bố Trung Quốc nên thả Lưu Hiểu Ba để ông ta có thể tham gia lễ nhận giải.

Thứ Năm, 13 tháng 7, 2017

VOA: Khôi nguyên Nobel Hòa Bình Lưu Hiểu Ba qua đời

Một người biểu tình dương hình Lưu Hiểu Ba 
trước tòa đại sứ Trung Quốc tại Oslo, tháng 9, 2010.

Nhà hoạt động chính trị người Trung Quốc, nhà văn, Khôi nguyên Nobel Hòa Bình, Lưu Hiểu Ba, qua đời tại một bệnh viện thuộc thành phố Thẩm Dương, Trung Quốc, hưởng thọ 62 tuổi.
Đệ Nhất Y Viện của Đại học Y Khoa Trung Quốc cho biết ông Lưu Hiểu Ba qua đời do căn bệnh ung thư gan, vốn được phát hiện vào tháng Năm, và được công khai hồi tháng Sáu.
Được biết đến với chiến dịch trường kỳ đấu tranh cho tự do, dân chủ của Trung Quốc, nhiều người coi ông Lưu là bậc anh hùng, trong khi ông lại là cái gai trong mắt chính quyền Bắc Kinh.

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Lưu Hiểu Ba - Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (3)


Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch

Hàng chục ngàn thanh niên trong lễ kỉ niệm 90 năm ngày thành lập ĐCS Trung Quốc
tại Trùng Khánh. Ảnh: Tân Hoa xã

 Phần lớn trong số những sinh viên bơi theo thời cuộc chính là những người chủ động muốn vào Đảng. Không phải vì niềm tin lí tưởng, mà vì những mục đích cá nhân. Bởi lẽ, những người cộng sản trước sau vẫn cầm quyền ở Đại lục, vậy sau khi tốt nghiệp muốn làm gì chăng nữa, nếu muốn thật nhanh thành đạt thì vào Đảng vẫn tốt hơn. Điều tra xã hội những năm gần đây về khuynh hướng chọn nghề trong sinh viên cho thấy rõ: nguyện vọng hàng đầu của sinh viên là vào Đảng và được tuyển làm công chức trong một cơ quan nhà nước. Khi phát biểu về động cơ gia nhập Đảng, họ hoàn toàn không dùng ngôn ngữ khẩu hiệu nhàm chán mà trái lại, họ cực kì hùng biện và thực dụng.

Một sinh viên năm thứ ba mặt đỏ tía tai tranh luận với tôi, nói như sau: “Ở Trung Quốc nếu muốn đạt được điều gì thì phải vào Đảng; là công chức thì phải vào Đảng mới có cơ hội tiến thân, phải vào Đảng mới thâu tóm nhiều quyền lực, mới đạt được điều mình mong muốn. Vào Đảng thì có gì là xấu? Thành công chức và kiếm nhiều tiền thì có gì là xấu? Vừa lo được cho mình, vừa giúp gia đình có địa vị, lại cống hiến cho xã hội nhiều hơn bất kì người nào làm những nghề bình thường.”

Lối sống của giới sinh viên trẻ giống lối sống của những người cộng sản như hai giọt nước. Thoạt nhìn thì nó không liên quan gì đến những lời rao giảng cộng sản, nhưng ai biết rõ quy trình thẳng tiến tới quyền lực của những người cộng sản – tiếm quyền, nắm quyền và giữ quyền – thì nhận ra ngay sự giống nhau nói trên, giống nhau về bản chất và thường trực, trong tinh thần cơ hội, đặt lợi ích của riêng mình lên trên tất cả và không từ một phương tiện nào.

Cho nên phương châm của họ đối với thiên hạ gồm những châm ngôn đại loại: “giữ mình, chờ thời”, “ăn cơm chúa, múa tối ngày”, “muốn quỳ thì phải cong”… Những châm ngôn trơ trẽn đó, không hề xuất phát từ một khát khao siêu hình hay xác tín đạo đức căn bản nào, vậy là lại xuyên qua bao nhiêu thế kỉ trong lịch sử để lặp lại không một mảy may thay đổi. Những lí tưởng cộng sản thời Mao đã bị chôn vùi trong thời “mèo đen – mèo trắng” thực dụng của Đặng Tiểu Bình, điều đó thường được coi là một trong những khác biệt chính giữa hai giai đoạn lịch sử. Nhưng sự thực thì toàn bộ chiến lược tồn tại và nguyên tắc hành xử của Mao chỉ xoay quanh quyền lực. Lúc nào cũng giương cao ngọn cờ lí tưởng và đạo đức, nhưng khẩu hiệu giải phóng nhân loại của Mao chẳng hề khiến ông ta chùn tay hạch tội và sát nhân; thậm chí để nhuộm đỏ cả hành tinh, Mao sẵn sàng nướng một phần ba nhân loại.

Nói cách khác, bất kể là ai, sinh viên hay giới tinh hoa trí thức đang chen nhau vào Đảng để trở thành công chức trong hệ thống hay doanh nhân trong kinh tế, từ khía cạnh đạo đức thì gần như không một ai tán thành chế độ hiện tại, nhưng hành động trong thực tế của họ lại giúp củng cố chế độ này.

Hiện tượng sống ung dung và tự hài lòng trong tâm thế đạo đức bị xé rách ấy nhất quán với trạng thái phân thân về tinh thần trong toàn bộ xã hội. Tấn trò lớn diễn ra ở Đại lục sau Thiên An Môn gồm những thông tin không chính thức, những bài vè chính trị nhạo báng, những chuyện tiếu lâm tục tĩu, qua đó người ta xả bất bình, người ta chê cười chính trị, đồng thời điều hòa không khí lúc tiệc tùng và giảm bớt căng thẳng. Trung Quốc quả thật đã bước vào một “thời đại hí lộng”. Không kể các kiểu chương trình buổi tối, kênh giải trí, hài kịch và những tiết mục hề trên truyền hình, giới lãnh đạo và bộ sậu quan liêu chính là nguồn vô tận cung cấp chuyện cười và vè dân gian giễu cợt; hầu như ai trong dân chúng cũng có sẵn một chuyện tiếu lâm tục tĩu nhuốm mầu chính trị trên môi; ở địa phương nào cũng lan truyền những bài vè nhạo. Tất cả những thứ đó là ngôn ngữ chung thực sự của dân chúng Đại lục, công khai đối diện với ngôn ngữ trong vòng kiểm soát của nhà nước trên các phương tiện truyền thông công cộng ở đầu bên kia trục đường kính. Chỉ hấp thu những thông tin thường nhật trên truyền thông nhà nước, ta tưởng đang sống trong thiên đường. Chỉ hàng ngày góp nhặt thông tin từ những chuyện bàn tán vỉa hè, ta lại thấy đang ở trong địa ngục. Bên này miêu tả toàn ánh sáng, bên kia chỉ trưng ra bóng đêm tăm tối. Những thông tin trong nội bộ dân chúng không thể đem ra ánh sáng công bố và truyền bá giữa thanh thiên bạch nhật, chúng dừng lại trong phạm vi cá nhân hạn hẹp. Cấm đoán chính thức hay bán chính thức đủ mọi kiểu của chính quyền sinh ra một hệ thống ngầm, nơi giới thống trị chia nhau tài sản quốc dân và sắp đặt mưu mô chính trị sau cánh gà. Tin tức phi chính thống lan truyền trong dân chúng cũng sinh ra một hệ thống ngầm, lời đáp cho chế độ đàn áp, nơi nỗi bất bình của dân chúng tìm kênh xả sau cánh gà. Trong cấu trúc kép của hệ thống ngầm ấy, tất cả dân chúng Đại lục cùng tuân thủ những luật lệ như nhau, dù đó là những luật lệ vô hình của một hệ thống chính quy.

Sống trong sự tương phản khổng lồ này, những kẻ vô liêm sỉ không hề thấy có gì là thiếu nhất quán: chế độ cộng sản bị nguyền rủa và phỉ nhổ sau lưng vẫn đứng vững, giới quan chức cộng sản cao cấp bị toàn dân Trung Quốc chửi nát vẫn sống khỏe, bên bàn tiệc đi kèm những phi vụ làm ăn người ta vẫn thi tài tiếu lâm chính trị, kể chuyện bậy về lãnh đạo là thông lệ lúc cụng li.

Nếu uất ức, khổ đau, bất công và bức xúc ở các tầng lớp dưới trong xã hội xuất phát từ cảm xúc thực thì sự căm phẫn ở những người đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại (tức tầng lớp thống trị, mọi giới tinh hoa và cổ cồn ở thành thị) biến hóa thành một trạng thái tự sướng trong những buổi chiêu đãi tiệc tùng.

Nhưng bất bình và nhạo báng đã đánh mất độ sắc nhọn và sức mạnh đạo đức thực sự của nó từ lâu. Tiệc tan thì nó cũng tàn. Nó không có một tác động nhỏ nhất nào đến lối hành xử của người ta trước công luận. Sự tự sướng ấy trong xã hội dân sự là một thứ ma túy, công dụng là gây mê, người ta mê man trong tiếng lật bài xì phé, trong tiếng lách tách của những quân mạt chược và trong những trận cười bên bàn nhậu. Khổ đau, u tối và bất bình cũng là những món hàng tiêu thụ. Song khi những trận cười qua đi thì mọi sự vẫn nguyên như cũ: Cần nói dối thì nói dối, cần đê tiện thì đê tiện, cần thủ đoạn thì phương tiện nào cũng không từ…

Trạng thái tinh thần ở Đại lục thời hậu toàn trị vừa phân liệt, vừa thống nhất. Ứng xử trong hệ thống và ứng xử ngoài hệ thống, ngôn ngữ chính quy và ngôn ngữ của xã hội dân sự, khoảng cách giữa thái độ ngoài mặt và lời thậm thụt sau lưng, giữa hiện thực bi đát và sân khấu hí lộng, tất cả đã đạt tới một quy mô kinh hoàng. Nhưng sự phân liệt đó lại thống nhất một cách thần kì trong lối sống vô liêm sỉ, khi hiện thực đau đớn được chuyển thành trò cười của toàn dân, bất bình xã hội hóa thân thành tự mê man, nhạo báng giới thống trị thoái hóa thành tự sướng. Ngoài hưởng thụ và tiêu thụ dường như chẳng còn lại gì, trừ hình ảnh méo mó của “tư duy quản trị”: chà đạp lên tất cả để tối ưu hóa lợi nhuận cho bản thân.

Viết tại nhà, Bắc Kinh ngày 15-9-2004

Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.

Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra




Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Lưu Hiểu Ba - Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (2)


Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch

(Tiếp theo)

Về môi trường xã hội, hệ tư tưởng của những người cộng sản Trung Quốc bị cắt rời khỏi lịch sử, và kí ức của nhiều thế hệ thì hoàn toàn trống rỗng. Từ khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền, dân chúng ở Đại lục Trung Hoa đã trải qua đủ kiểu thảm họa khó lòng hình dung, nhưng thế hệ sau 1989 là thế hệ tuyệt đối không phải mang nặng một kí ức nào về một thời cơ cực, không nếm trải sự đàn áp có hệ thống và nhà nước công an trị, chỉ thỉnh thoảng có chút kinh nghiệm trực tiếp của bản thân rằng “có tiền là xong hết” và “có quyền là có tiền”; còn để có được “ảnh hưởng xã hội” thì “không từ một phương tiện nào”, trong mắt họ người thành đạt là người trở thành tỉ phú qua đêm và tung tẩy như minh tinh trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế, hiển nhiên họ không có lấy một gram kiên nhẫn khi nghe kể về những thảm họa trong lịch sử và những bóng đen trong hiện tại. Họ cho rằng cứ lải nhải mãi về những kẻ hữu khuynh, về Đại nhảy vọt, về Cách mạng Văn hóa, về Sự kiện Lục Tứ, cứ suốt ngày phê phán chính phủ và triền miên vạch trần những mặt tối của xã hội thì nào có ích gì. Chẳng phải là chính họ, với đời sống đầy đủ tiện nghi và thông tin chính thống đủ loại do nhà nước cung cấp, đang là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã tiến bộ vượt bậc đó sao.
Ngoài mặt thì anh hùng, bên trong thì thỏ đế, đạo đức và lương tri thì hoàn toàn trống vắng.

Lưu Hiểu Ba

Về môi trường gia đình, giới trẻ ngày nay phần lớn đều là con một, vì thế ở nhà họ là những ông “vua con”. Từ nhỏ đến lớn họ hưởng thụ một lối sống ích kỉ, chẳng bao giờ phải lo chuyện cơm áo. Họ không đích thân nếm trải sự cực nhọc mà thế hệ cha mẹ họ phải kinh qua để vươn lên. Họ được giáo dục thuần túy trong ý thức lấy mình làm trung tâm, tất cả đều phải chiều theo ý họ, họ thiếu hẳn cảm giác về những vấn đề của người khác. Nếu thi đỗ đại học, họ trở thành những chú chó cưng trong gia đình và những đứa trẻ được thường xuyên xoa đầu trong xã hội. Cho nên họ được gia đình nuông thành những kẻ tuyệt đối vị kỉ và được xã hội đẩy đến chỗ lấy tính toán thiệt hơn về thành công và tiêu thụ làm niềm vui sống. Cũng như vậy, bận tâm lớn nhất của đại đa số học sinh nông thôn thi đỗ vào các trường lớn không phải là làm cách nào giúp nông dân thoát nghèo và kì thị, mà là làm cách nào sau khi tốt nghiệp trở thành một siêu nhân thành thị thành đạt, để rũ bỏ hẳn kiếp lầm than của cha mẹ. Sinh viên ở những vùng nông thôn coi quan điểm đó là đương nhiên.

 Những năm gần đây, cơn cuồng loạn của chủ nghĩa dân tộc trong xã hội dân sự ở Đại lục còn vượt xa thái độ chính thức của nhà nước; giới trẻ là những người hân hoan nhất với chủ nghĩa dân tộc; đặc biệt chủ nghĩa bài Mỹ, bài Nhật và phản đối sự độc lập của Đài Loan từ lâu đã trở thành những chủ đề quan trọng để thế hệ trẻ ở Đại lục bày tỏ ý thức dấn thân cho Tổ quốc và xả hận thù quốc gia. Vụ máy bay Mỹ đụng máy bay Trung Quốc [i], vụ thác loạn tập thể của người Nhật trong một khách sạn ở Châu Hải [ii], vụ sinh viên Nhật “nhục mạ Trung Quốc” tại Đại học Tây Bắc [iii], vụ Thủ tướng Nhật Koizumi viếng thăm Đền Yasukuni, vụ một phụ nữ người Hoa, bà Zhao Yan, bị cảnh sát Mỹ hành hung [iv], trận chung kết Cúp bóng đá châu Á giữa Trung Quốc và Nhật Bản [v] – tất cả những sự kiện đó đều là dịp để các nhà yêu nước trẻ tuổi hun nóng cảm xúc và phẫn nộ tập thể, và biến một con muỗi thành một con voi. Trong cái ngôn ngữ côn đồ ngày càng dữ dằn của chủ nghĩa dân tộc trên mạng, lòng ái quốc lẫn vào những lời chửi rủa văng mạng và tiếng la hét đòi nợ máu. Nhưng cái chủ nghĩa yêu nước đang trỗi dậy này không đủ sức để ngăn cản lối sống cơ hội, chưa nói đến sự im lặng phổ biến trước bạo lực từ phía chính quyền, còn bản thân chính quyền lại làm ngơ trước bạo lực xã hội. Bào mòn năng lực cảm thông và triệt tiêu ý thức về công lí đã trở thành một thứ bệnh thời thượng của xã hội; chẳng ai buồn đoái hoài tới người già gục ngã ven đường, chẳng ai cứu cô bé nhà quê trượt chân rơi xuống nước; cướp đường xông lên tàu, hành hung và hãm hiếp phụ nữ ngay tại chỗ mà không một ai trong số trai tráng tuổi từ 20 đến 40 ngồi chật toa đứng lên chống cự; du đãng bắt cóc và kéo lê hai thiếu nữ cả trăm mét cho thiên hạ thấy mà tất cả đều trố mắt đứng nhìn, không một ai giơ tay ra giúp… Những tin tức về hiện trạng xã hội khiến ta phải rùng mình như thế không phải là hiếm trên truyền thông ở Đại lục, ngay cả trong một số chương trình trên Truyền hình Trung ương.

Chủ nghĩa dân tộc của thế hệ những người Trung Quốc trẻ tuổi là thế: bề ngoài khua võ miệng, bề trong đớn hèn. Cô sinh viên đứng dậy hỏi ông Clinton một câu không mấy thân thiện và đầy tinh thần ái quốc khi ông đến Đại học Bắc Kinh diễn thuyết nhân chuyến thăm Trung Quốc năm nào, bây giờ đã kết hôn với một người Mỹ. Những câu chuyện kịch tính như vậy tất nhiên là đề tài cho truyền thông khai thác và cũng khuấy động dư luận một thời gian. Nhưng đáng buồn hơn nhiều là đối diện cái mâu thuẫn giữa lời nói và hành động ấy, giới trẻ không hề thấy rối trí hay phải tự hoài nghi gì hết; họ chửi Mỹ cũng thản nhiên như việc họ sang Mỹ du học. Khi chửi Mỹ, họ đầy lòng phẫn nộ thành thực. Khi ngồi trên máy bay thẳng hướng Boston họ vui như Tết, và niềm vui ấy cũng lại thành thực nốt.

Cách đây vài ngày tôi đọc trên mạng một lời mời kí tên leonphoenix, mở đầu như sau: “Tôi thích sản phẩm Mỹ, tôi thích phim bom tấn của Mỹ. Tôi thích tinh thần tự do của Mỹ. Tôi ngưỡng mộ sự vĩ đại và phồn vinh của Mỹ, nhưng suốt ngày tôi cùng bạn bè hô ‘Đả đảo bọn Yankee!!!’, vì đó là phản ứng bản năng tất yếu của đám đông nhu nhược.” Đó là sự thật về cái chủ nghĩa yêu nước vô liêm sỉ mà những con người này truyền bá nặc danh trên Internet.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số giáo sư có khuynh hướng cởi mở phải than rằng: sinh viên là những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nền giáo dục theo hệ tư tưởng chính thống suốt thập niên 90.

Trong những vấn đề liên quan đến Đảng Cộng sản, thái độ của thế hệ trẻ cũng vô liêm sỉ chẳng kém. Tuy gần đây số sinh viên làm đơn xin vào Đảng tăng mạnh, nhưng số người thực sự tin ở chủ nghĩa cộng sản cũng hiếm như những người trong giới trẻ dám nói “Không” với tiến trình dã man hóa xã hội một cách hệ thống và đi liền với nó là bạo lực.

Cô sinh viên năm xưa ở Đại học Bắc Kinh, nay đã kết hôn với một người Mỹ, có từng là hay vẫn đang là đảng viên cộng sản hay không, tôi không biết. Nếu không thì thái độ của cô không hoàn toàn khớp với lối sống điển hình của giới trẻ ở Đại lục. Nếu có thì những phát ngôn của cô khi còn ở trong trường và lựa chọn sau khi tốt nghiệp là ví dụ hết sức điển hình cho giới trẻ ở Đại lục: một sự chú trọng những tính toán vật chất quá mức bình thường, một lối sống đặt tiêu điểm vào nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận cao nhất cho bản thân. Nói cho có phần nhẹ nhàng thì đó là sự bừng tỉnh của ý thức lợi nhuận ở các cá nhân, còn không thì có thể đơn giản gọi đó là bon chen cơ hội. Họ không tin ở chủ nghĩa cộng sản nhưng lại muốn vào Đảng, họ ngây ngất trong tinh thần ái quốc đả đảo Mỹ nhưng lại chạy theo mọi thứ mốt từ Mỹ tràn sang. Song điều đáng kinh ngạc nhất là: họ không hề thấy thái độ của mình có gì là mâu thuẫn và lại càng không hề thấy có gì phải băn khoăn. Trái lại, họ tự thấy mình rất ổn. Chừng nào còn kiếm chác được, họ còn thấy mình đã khôn ngoan chọn đúng đường.

(Còn tiếp)

Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
Ảnh: Biểu tình chống Nhật tại Trung Quốc 2012. Nguồn: New York Times

[i] Ngày 1-4-2001, một máy bay do thám của hải quân Mỹ đụng độ một máy bay tiêm kích Trung Quốc ở không phận gần đảo Hải Nam.
[ii] Tháng 9-2003, một công ti xây dựng Nhật Bản tổ chức 15 năm ngày thành lập trong một khách sạn 5 sao tại Châu Hải, với 400 đàn ông Nhật và 500 gái điếm Trung Quốc ba ngày liên tục, đúng dịp 72 năm ngày Nhật chiếm đóng Mãn Châu.
[iii] Tháng 10-2003, một nhóm sinh viên Nhật tại Đại học Tây Bắc đeo dương vật giả và vú giả đến một buổi khiêu vũ, rồi thóa mạ rằng đó chính là hình ảnh của người Hoa.
[iv] Tháng 7-2004, bà Zhao Yan, một doanh nhân Trung Quốc bị nghi oan là tòng phạm trong một vụ buôn lậu cần sa và bị cảnh sát Hoa Kỳ hành hung thô bạo.
[v] Năm 2004, kết quả: Nhật chiếm giải vô địch châu Á.


Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Lưu Hiểu Ba - Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (1)


Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch

Đặc điểm quan trọng nhất của thời hậu toàn trị là: một mặt, trong sự khủng hoảng tính chính danh của mình, giới thống trị tìm mọi cách bám chặt lấy nền chuyên chế, nhưng hiệu quả của sự cai trị ấy suy giảm từng ngày; mặt khác, dân chúng không còn tự đồng nhất với các hệ thống chuyên chế nữa, một xã hội dân sự bột phát lan rộng, tuy trước mắt chưa đủ sức thay đổi những guồng máy hiện tồn tại, nhưng với sự đa nguyên hóa xã hội mỗi ngày một mạnh trong kinh tế và trong các quan niệm về giá trị đang như những giọt nước không ngừng xói ruỗng sự trơ cứng vôi đá của hệ đồng phục chính trị.


Cụ thể về tinh thần, Trung Quốc hậu toàn trị đã bước vào “thời đại vô liêm sỉ”: không còn một đức tin nào nữa, lời nói một đằng hành động một ngả, trái tim và cửa miệng không cùng một ngôn ngữ. Mọi người (kể cả cán bộ cao cấp và đảng viên) không còn tin vào những văn bản quy định chính thức, người ta hết mình cho lợi nhuận thay vì cho sự trung thành và lí tưởng; nguyền rủa, phê phán và nhạo báng “Đảng vĩ đại, quang vinh và tốt đẹp“ từ lâu đã trở thành mốt trong những buổi tiệc tùng và giải trí của xã hội dân sự, để rồi trước cám dỗ và áp lực của lợi nhuận đại đa số lại đồng thanh ca ngợi theo đúng giọng Nhân dân Nhật báo khi chính thức xuất hiện trước công luận. Dường như hết lời tụng ca trước mặt và hùng hồn chửi bới sau lưng từ lâu đã biến thành một phản ứng theo tập quán của người Trung Quốc.

Giới tinh hoa trong hệ thống thì phân liệt. Họ là lớp người thế hệ trung niên, thành công trong hệ thống và bề ngoài gây ấn tượng là những kẻ hoạt động trong “hậu trường”. Trước công luận họ trả bài như vẹt, họ không bỏ qua dịp nào để tiến thân, nhưng ở chốn tiệc tùng riêng tư thì họ lại dùng một ngôn ngữ hoàn toàn khác, đại loại: “Mình trong guồng, cậu ngoài guồng, nhưng đều nghĩ như nhau cả thôi, chỉ hình thức là khác. Ở ngoài thì cậu hô hoán, còn mình thì xắn tay giải quyết việc bên trong…” Họ có thể rỉ tai ta vài ba tin tức, gọi là tin nội bộ, và phân tích tình hình chính trị cũng như các hậu quả; họ có thể miêu tả cá tính của từng vị trên thượng tầng quyền lực và tiết lộ ai là người nhiều triển vọng nhất để trở thành một Tưởng Kinh Quốc[1] ở Đại lục; đúng thế, họ thậm chí có thể giải thích về diễn biến hòa bình khiến ta phải ngỡ ngàng. Họ tin rằng động lực mạnh nhất cho thắng lợi của diễn biến hòa bình bắt nguồn từ phe cấp tiến của họ trong guồng máy, gồm những người “tuy ở trong hệ thống nhưng trái tim đặt ra ngoài”; hơn nữa càng lên cao thì mặt nạ càng tinh xảo, những động thái trong bóng tối càng gây tác dụng và tỉ suất thành công của đòn tấn công kép, từ trong ra và từ ngoài vào, càng cao. Câu mà tất cả bọn họ hay nói nhất là: Có rất nhiều người tốt trong hệ thống đang tìm cách thay đổi và đang làm những điều quan trọng cho cải cách chính trị hơn hẳn những mũi tấn công từ bên ngoài. Mỗi lần trò chuyện với họ ta đều có ấn tượng rằng người nào cũng kiên định theo đuổi những lí tưởng cao đẹp, cũng đầy khả năng kháng cự, cũng bền bỉ và cũng đủ khôn ngoan chính trị như Gorbachev. Có lẽ thuở bé tôi đã xem hơi quá nhiều phim về các lãnh tụ cách mạng, có lẽ tôi đã quá bị đầu độc để thỉnh thoảng có thể thực sự hình dung họ như những nhà hoạt động hậu trường khôn ngoan và sành sỏi đang lặn sâu vào hang ổ kẻ thù.

Không chỉ trong giới công chức nhà nước, ở mọi lĩnh vực khác: trong giới truyền thông, giáo dục, văn hóa, kinh tế… ở đâu ta cũng gặp những hiện tượng như trên. Một người quen của tôi, sau sự kiện Thiên An Môn xoay sang làm kinh tế và phất mạnh, thỉnh thoảng thể nào cũng mời bạn đến ăn uống linh đình, lần nào anh ta cũng hăng say luận tình hình thế giới và lấy cả lương tâm lẫn danh dự ra mà thề rằng mình làm kinh tế và kiếm tiền hoàn toàn không phải vì đồng tiền, mà vì những dự định lớn lao sẽ thực hiện một ngày nào đó trong tương lai.

Họ liệt kê những ý nghĩa của bước đi này: Thứ nhất, rằng việc tham dự trực tiếp vào tiến trình định hướng thị trường và tư hữu hóa sẽ cung cấp những nền tảng kinh tế quan trọng nhất cho tiến trình dân chủ hóa chính trị. Thứ hai, rằng trong tương lai, những người bạn có thể lâm nạn vì rời bỏ guồng máy để quay về với giới đối lập chính trị bên ngoài hệ thống sẽ được dựa vào nguồn kinh tế mà họ thâu tóm được. Câu mà họ ưa nói nhất là: Không có tiền thì không thể làm cách mạng, càng muốn thắng lợi nhiều trong tương lai thì hiện tại càng phải làm ra nhiều tiền để đảm bảo một nền tảng kinh tế vững chắc. Thứ ba và quan trọng hơn, họ tin rằng một cuộc cách mạng do những người có tiền thực hiện sẽ là một cuộc cách mạng ít tốn kém nhất, vì thị trường đã dạy họ rằng với một dự toán chính xác về chi phí và lợi ích thì sẽ không thể xảy ra một cuộc cách mạng giá thành quá cao mà chẳng mang lại điều gì. Nếu những người có tiền có chân trong chính phủ thì xác suất xảy ra một cuộc cách mạng bạo lực sẽ nhỏ nhất và ngược lại, cơ hội cho một cuộc cách mạng hòa bình, từng bước, sẽ rất lớn.

Vì thế họ không ủng hộ mà cũng không phê phán Học thuyết Ba Đại diện[2] và Chủ nghĩa Tam dân Mới [3]. Họ cho rằng tuy những thứ đó luôn mạnh hơn thuyết cách mạng của Mao Trạch Đông và cũng mạnh hơn thuyết bốn nguyên tắc của Đặng Tiểu Bình [4], thậm chí một số người còn tin rằng chúng là bước mở đầu, đánh dấu sự chuyển biến trong thái độ thù địch nhân tính của chính quyền cộng sản, giống như việc dùng bông xốp của văn hóa đại chúng bọc giai điệu rực lửa cách mạng, nhưng so với lưỡi dao lạnh lùng của khẩu hiệu thì như thế vẫn tốt hơn.

Điều đáng tiếc nhất trong tình trạng bỏ bễ cả một thế hệ những người trẻ tuổi là họ cũng bị sự vô liêm sỉ hóa cuộc sống này nuốt chửng.

Hậu quả của những cuộc thanh trừng sau Sự kiện Lục Tứ là hàng loạt vụ khai trừ Đảng, nhưng những người tự động ra khỏi Đảng còn nhiều hơn, và mỗi năm số lượng đảng viên mới kết nạp cứ giảm dần. Tuy nhiên, sau một thập niên theo lệnh chôn vùi kí ức cùng những cám dỗ của đặc quyền đặc lợi, ngày nay số người trẻ làm đơn xin gia nhập Đảng lại tăng dần. Những năm gần đây, để minh họa sự hấp dẫn của Đảng Cộng sản đối với giới trẻ, cứ đến dịp kỉ niệm ngày thành lập Đảng mồng 1 tháng Bảy chính quyền lại công khai nhấn mạnh số đơn xin gia nhập Đảng của giới trẻ, đặc biệt là trong giới sinh viên. Theo Truyền hình Trung ương Trung Quốc, số sinh viên xin gia nhập Đảng tăng lên đến 60 %. Thông tin này cũng khớp với một số liệu khác mà truyền thông nhà nước loan báo: 65 % giới trẻ đánh giá cao Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về động cơ xin gia nhập Đảng và thái độ ủng hộ Đảng thì những bản tin này chuyển trọng tâm từ lí tưởng sang thực dụng: Không ai nhắc đến cương lĩnh, mục tiêu của Đảng hay những lí tưởng cộng sản cao đẹp, tinh thần chiến đấu của Đảng lại càng không. Người ta tránh xa những thứ ấy và chỉ nhấn mạnh những thành tích vinh quang của những người cộng sản Trung Quốc, từ tuyên ngôn “nhân dân Trung Quốc đã vùng lên” của Mao Trạch Đông đến khẩu hiệu “nhân dân Trung Quốc đã giàu lên” dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, để rốt cuộc là áp dụng Ba Đại diện và Tam dân Mới. Phương thức tuyên truyền ấy nhằm truyền đi thông điệp: Từ khi có chính sách mở cửa và cải cách, những người cộng sản Trung Quốc đã đạt được những thành công đập ngay vào mắt: một quốc gia hùng cường với uy tín lớn mạnh và phồn vinh cho tất cả mọi người – và vì thế Đảng Cộng sản sẽ ngày càng hấp dẫn trong mắt giới trẻ.

Người đứng ngoài quan sát có thể ngờ vực những con số chính thức nêu trên, nhưng chỉ cần hiểu chút ít về giới trẻ ngày nay là có lẽ không ai còn hoài nghi nữa. Thế hệ sau 1989, bạc nhược bởi phồn vinh và thực dụng, quan tâm chủ yếu đến những điều chẳng liên quan gì đến dấn thân xã hội, nhân văn cao cả, suy tư sâu lắng, chính trị tỉnh táo và những giá trị siêu hình. Đối diện với cuộc sống, thái độ của họ là thực dụng và cơ hội; những mục tiêu quan trọng trong cuộc đời họ là một biên chế công chức, tiền bạc hay xuất ngoại; những sở thích chính của họ là thời trang, tiêu thụ, phong cách sành điệu của các ngôi sao điện ảnh, trò chơi điện tử và những cuộc tình chớp nhoáng. Bởi lẽ trước khi một thế hệ thanh niên kịp trưởng thành thì nó đã bị môi trường nhỏ là gia đình và môi trường lớn là xã hội nhấn vào cái vạc nhuộm của ranh mãnh và ý thức đặc quyền.

(Còn tiếp)

Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.

Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra

[1] Tưởng Kinh Quốc (1910-1988), con trai Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Đài Loan 1978-1988, mở đường cho tiến trình dân chủ hóa Đài Loan.
[2] Học thuyết Ba Đại diện do Giang Trạch Dân đề xướng năm 2002 (Đảng Cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc) được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc năm 2004.
[3] Chủ nghĩa Tam dân Mới do Mao Trạch Đông đề xướng năm 1940 (Dựa vào Liên Xô, dựa vào chủ nghĩa cộng sản, dựa vào nông dân) thay thế Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc, dân quyền, dân sinh).
[4] Bốn nguyên tắc do Đặng Tiểu Bình đề xướng sau Cách mạng Văn hóa: Trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, trung thành với Đảng, trung thành với lãnh đạo, trung thành với tư tưởng Mao Trạch Đông.


Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

Lưu Hiểu Ba - Chúng ta bị công lý của chính mình đè bẹp



Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch

Tiểu luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central Daily News ở Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các khuyết điểm của giới trí thức phản kháng Trung Quốc và phong trào sinh viên năm 1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng dạy của mình tại một số trường đại học Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ các sinh viên của mình trên Quảng trường. Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận với các sinh viên về phương pháp và mục đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm phán giữa sinh viên và chính quyền, và tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991. Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6.
Giới thiệu tiểu luận này trong bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham khảo bổ ích cho phong trào dân chủ Việt Nam.
Người dịch


Giới trí thức phản kháng và các lãnh tụ sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ dân chủ, đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những nội dung gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí thiên văn, giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã bỏ qua cơ hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống Bush mời gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không một lời phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà bất đồng chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất rồi lại được khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi những người thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ. Như thế, làm sao mà thành công được? Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than vãn hời hợt về hệ tư tưởng.

Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằng những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ hơn – mà không hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa. Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lí được không? Chẳng lẽ chỉ những ai sẵn sàng hi sinh tính mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách các sinh viên là chỉ đầy lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên, sau này thoát được ra nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lí trí. Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”

Từ trên bốn thập kỉ nay Trung Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi tham gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức thấy mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ, chúng ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta hi sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều bắt nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất, rằng mình sở hữu quyền lực tuyệt đối. Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công lí trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc quyền. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một phòng thí nghiệm thử chân lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về phẩm giá. Nó cũng đã biến thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa thực thi quyền lực. Không có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình, là chống lại dân chủ và chống lại công lí, là hèn nhát. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo cánh, chúng ta lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các hội công nhân và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các nhóm tranh luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và hướng đạo sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người nào.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng những bộ quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ khác, chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như: chúng tao sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ chôn sống mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ không đi cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá nhân, nhân danh công lí.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng ta phao tin vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng khăng rằng mình có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền. Chúng ta cho phép mình phao lên rằng Đặng Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã thành lập một nội các mới ở Canada. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều điều dối trá. Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng Sáu sau này thoát được ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và dùng miệng mà phun ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý phóng đại tội ác và sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị xỏ mũi.

Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm người khác được hưởng quyền ấy. Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch Đông và không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do phóng viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính quyền hết cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những người đã phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa đày trong ngục tối.

“Công lí của phong trào dân chủ” đã trở thành một hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và đành câm miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh bất khả xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai dám hé răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những người còn lại thì lặng im.

Những điều vừa trình bày có thể giải thích, vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lí tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.

Nguồn: Dịch theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der Freiheit geopfert, Riva, München 2011

Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra


Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

VOA - Các khôi nguyên giải Nobel kêu gọi trả tự do cho ông Lưu Hiểu Ba



VOA


Hình ông Lưu Hiểu Ba Trung tâm Hòa bình tại Oslo 

Hơn 100 khôi nguyên Giải Nobel trên khắp thế giới kêu gọi Chủ tịch sắp nhậm chức của Trung Quốc Tập Cận Bình hãy trả tự do cho nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba, cũng là một khôi nguyên Giải Nobel Hòa bình.

Nhóm 134 nhân vật từng đoạt Giải Nobel hôm nay đã gửi một bức thư cho ông Tập Cận Bình, yêu cầu ông hãy “trả tự do lập tức và vô điều kiện” cho ông Lưu Hiểu Ba, hiện đang thọ án tù 11 năm về âm mưu “xúi giục lật đổ chính quyền”.

Nhóm các khôi nguyên Giải Nobel cũng muốn vợ ông Lưu, bà Lưu Hà, được phóng thích khỏi tình trạng bị quản thúc tại gia, được áp dụng sau khi chồng bà được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình hồi năm 2010.

Nhóm các khôi nguyên Giải Nobel, gồm cựu Tổng Giám Mục Desmond Tutu và Đức Đạt Lai Lạt Ma, nói phóng thích vợ chồng ông Lưu là “bước thiết yếu đầu tiên” trong việc tôn trọng các quyền căn bản của các công dân Trung Quốc.

Các khôi nguyên Giải Nobel khuyến cáo rằng không một chính phủ nào có thể hạn chế tự do tư tưởng và tự do lập hội mà không gây trở ngại cho tiến trình phát triển.

Ông Dương Kiến Lợi, một cựu tù nhân chính trị đã tiếp tay tổ chức bức thư của các khôi nguyên Giải Nobel, nói với VOA rằng dự án này có ý nghĩa lớn và sẽ buộc Bắc Kinh phải chú ý.

Ông Dương nói theo chỗ ông biết thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử có nhiều khôi nguyên Giải Nobel ký vào một bức thư như vậy. Ông Dương nói ông không biết Trung Quốc sẽ phản ứng một cách đúng đắn hay không, nhưng tự nó bức thư này sẽ có tác động lớn đối với các nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, và nhân dân trong nước.

Ông Dương Kiến Lợi có tham gia phong trào biểu tình của giới sinh viên Trung Quốc tại Thiên An Môn, nói không có chứng cớ cho thấy là ông Tập Cận Bình sẽ có hành động tức thời để cải thiện tình hình của ông Lưu Hiểu Ba.

Nhà chức trách Trung Quốc đã kết án ông Lưu Hiểu Ba 11 năm tù hồi năm 2009 về tội xúi giục lật đổ chính quyền, vì ông Lưu là đồng tác giả của “Hiến Chương 08”, kêu gọi cải cách chính trị và nhiều quyền hơn tại nước cộng sản Trung Quốc.


Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2011

Giới thiệu sách: Triết lý Con Heo của Lưu Hiểu Ba

Ấn bản tiếng Pháp: La Philosophie du porc et autres essais.
Tác giả: Liu Xiaobo – Nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 2011

Đoàn Thanh Liêm

Lưu Hiểu Ba là một nhân vật rất nổi danh trên thế giới ngày nay, đặc biệt kể từ lúc ông được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2010 vừa qua. Và cũng giống như trường hợp của bà Aung San Suu Ky người Miến Điện và của nhà bác học Andrei Sakharov người Nga trước đây vì bị chính quyền nước mình ngăn cản, nên đã không thể có mặt trong buổi lễ Trao giải tại thủ đô Oslo của vương quốc Na Uy, ông Lưu Hiểu Ba vì đang bị giam giữ trong tù tại Trung quốc, nên cũng đã vắng mặt trong dịp này. Sự kiện này lại càng khiến công luận khắp thế giới chú ý, và cũng là một điều gây bất lợi cho uy tín của giới lãnh đạo chính quyền Bắc Kinh.

Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2010

Giải Nobel hòa bình đã được trao cho nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc đang chịu án tù

Andrew Jacobs và Jonathan Ansfield
The New York Times

Tin từ BẮC KINH - Hôm thứ Sáu, Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình văn học sôi nổi, nhà bình luận chính trị và người đấu tranh cho dân chủ từng liên tục bị chính quyền Trung Quốc giam cầm vì những bài viết của mình đã vừa đoạt giải Nobel Hòa bình 2010 với sự công nhận về "công cuộc đấu tranh bất bạo động của ông cho các quyền cơ bản của con người ở Trung Quốc".