Hiển thị các bài đăng có nhãn Jr. Đoàn Thanh Liêm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Jr. Đoàn Thanh Liêm. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012
Đoàn Thanh Liêm - Nguyễn Đức Quang và Tính Năng Động của Xã hội Dân sự Việt nam
Đoàn Thanh Liêm
Bài viết nhân Kỷ niệm Giỗ Đầu của Quang (3/2011 – 3/2012)
Nhân ngày Giỗ Đầu của Nguyễn Đức Quang vào cuối tháng Ba năm 2012 này, tôi muốn ghi lại một vài suy nghĩ nho nhỏ về sinh họat của Quang trong lãnh vực Xã hội Dân sự của dân tộc Việt nam chúng ta trong mấy chục năm gần đây.
Có thể nói họat động chính yếu của Quang từ thời niên thiếu cho đến cuối đời, thì hầu như hòan tòan là ở trong khu vực Xã hội Dân sự, mà điển hình là thông qua Phong trào Hướng Đạo và Phong trào Du Ca. Để bạn đọc dễ bề theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày tóm lược về các giai đọan họat động của Nguyễn Đức Quang – trước khi phân tích chi tiết về các sinh họat của anh trong hai Phong trào này.
I – Sơ lược về cuộc đời họat động của Nguyễn Đức Quang
1 – Một Ngày là Hướng Đạo – cả Đời vẫn là Hướng Đạo.
Vào năm 1954, khi đi theo gia đình từ miền Bắc di cư vào miền Nam, thì Quang mới có 10 tuổi. Nhờ thân phụ là một nhà giáo, nên Quang đã được hướng dẫn chu đáo trong việc học hành cũng như trong lề lối sinh họat ngăn nắp lương hảo. Năm 1956 lúc mới có 12 tuổi, Quang đã gia nhập làm một Hướng đạo sinh ở Đà lạt, và ở vào tuổi 15 – 16, Quang đã sáng tác được vài bài ca để cho các bạn cùng hát trong những buổi sinh họat của Đoàn. Cả đến khi ra tới hải ngọai, lúc đã ở vào tuổi 50 rồi, thì Quang cũng vẫn còn gắn bó mật thiết với các sinh họat của phong trào Hướng Đạo Việt nam ở nước ngoài.
Vào lứa tuổi 20, lúc là sinh viên của Trường Chính trị Kinh doanh Đại học Đà lạt hồi giữa thập niên 1960, Quang đã lăn xả hết mình vào công cuộc xây dựng phong trào Du Ca. Với trách nhiệm là vị Trưởng Xưởng của Phong trào, Quang vừa sáng tác vừa trình diễn, lại vừa đảm trách việc huấn luyện cho các du ca viên qua rất nhiều lớp đào tạo được tổ chức ở khắp các địa phương tại miền Nam Việt nam. Nhiều bạn vẫn còn nhớ cái Xưởng Du ca này được cho tá túc trong căn phòng nhỏ của nhà chứa xe của Dược sĩ Hòang Ngọc Tuệ trên đường Sương Nguyệt Anh Saigon - trong những năm tháng Nguyễn Đức Quang và Ngô Mạnh Thu đều miệt mài sáng tác và tập dượt cho mấy đàn em hát thử những ca khúc thật là mới mẻ thời ấy.
2 – Họat động của Nguyễn Đức Quang trong hàng ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1968 - 1975).
Quang tốt nghiệp Đại học vào năm 1968, lại cũng đúng vào thời gian lệnh Tổng động viên được ban hành trong tòan lãnh thổ miền Nam - sau cuộc Tổng tấn công hồi Tết Mậu thân khiến cho chiến cuộc càng thêm sôi động tàn khốc ở khắp nơi, nhất là tại các vùng nông thôn. Nhưng vì là một nhạc sĩ có tài năng, nên sau khi tốt nghiệp khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, Quang được bố trí làm việc cho Cục Chính Huấn trong ngành Tâm lý chiến. Trong thời gian này, thiếu úy Nguyễn Đức Quang đã cùng với nhiều đồng đội chuyên viên âm nhạc hợp nhau sáng tác những bản nhạc hùng có tác dụng động viên nâng cao tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ ngòai mặt trận. Các bản nhạc này là công trình của cả một tập thể, nên đã không hề đề tên ai là tác giả cả – nhưng đã được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, điển hình như bài : “Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu...”
Sau đó ít lâu, thì Quang được biệt phái về làm công việc chuyên môn tại cơ sở cũ là Ngân Hàng Phát triển Nông nghiệp ở Saigon. Vị thủ trưởng của Quang tại cơ sở này lại chính là ông Đỗ Khắc Siêm thân phụ của học giả Đỗ Thông Minh. Và sau năm 1975, thì Quang phải đi “ở tù cải tạo” như bao nhiêu sĩ quan khác của Quân đội miền Nam.
3 – Họat động của Nguyễn Đức Quang tại hải ngọai kể từ năm 1979.
Sau khi được trả tự do khỏi trại tù, Quang về gặp lại Dược sĩ Hòang Ngọc Tuệ và hai người lại chung nhau tổ chức làm ăn với dịch vụ chuyên chở xe đò phục vụ bà con đi lại giữa Saigon với các tỉnh Long An, Mỹ Tho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng coi bộ chuyện kinh doanh này không khá, nên Quang đã phải đưa gia đình lên ghe để vượt biên qua Mỹ vào năm 1979.
Sau khi tạm ổn định cuộc sống cho gia đình tại California, Quang đã lăn xả vào lãnh vực truyền thông báo chí, cụ thể là cộng tác với tờ nhật báo Người Việt - mà người khởi xướng là Đỗ Ngọc Yến vốn trước năm 1975 đã từng là một nhân vật nòng cốt của trong phong trào sinh họat thanh thiếu niên tại miền Nam Việt nam. Rồi qua thập niên 1990, Quang lại đứng ra thành lập cơ sở mới là tờ báo Viễn Đông - bắt đầu mỗi tuần ra 4 số báo, rồi sau tăng lên đến 6 số báo mỗi tuần. Tiếp theo vào đầu thập niên 2000, thì Quang cùng với các bạn khai sinh ra cơ sở truyền thông QMS gồm có hai tạp chí là tuần báo Chí Linh và nguyệt san Phụ Nữ Diễn Đàn, cùng với một số chương trình phát thanh và truyền hình. Có thể nói Quang đã dành ra đến trên 20 năm riêng cho công việc trong ngành truyền thông báo chí ở hải ngoại.
Một số bạn thân thiết với gia đình thì cho biết là : Ông Quang với tính nghệ sĩ, mà lại say mê với công tác xã hội, cho nên mọi chuyện về kinh tế gia đình đều do một mình bà Minh Thông là người bạn đời của chàng ra tay lo toan đảm đang trọn vẹn hết. Đúng là chàng nhạc sĩ này có cung mệnh "Thân cư Thê". Và cũng nhờ thế, mà thế hệ chúng ta mới có được những bài ca tuyệt đẹp phát xuất từ con chim đầu đàn này của Phong trào Du Ca.
II - Sự đóng góp của Nguyễn Đức Quang với Phong trào Sinh hoạt Thanh Thiếu Niên Việt nam.
1 – Trưởng thành từ lò luyện Hướng Đạo.
Như đã ghi ở trên, Nguyễn Đức Quang được đào tạo trong hàng ngũ Hướng đạo sinh từ hồi còn là một thiếu niên 12 tuổi. Và sau này vào tuổi trưởng thành, từ giữa thập niên 1960 Quang đã cùng với số đông bạn hữu khác dấn thân hết mình với sinh hoạt của giới thanh thiếu niên tại khắp miền Nam, điển hình là qua Phong trào Du Ca được phát triển mạnh mẽ tại Sài Gòn và rất nhiều địa phương.
Quang đã trưởng thành qua sự đào tạo huấn luyện trong Phong trào Hướng Đạo được khởi sự từ một tổ chức thiện nguyện tư nhân chuyên phục vụ giới thanh thiếu niên trong công cuộc mưu tìm một lối sống lành mạnh cho bản thân và cho cộng đồng xã hội nơi mình sinh sống.
Có thể nói tổ chức Hướng đạo là một trong những cơ sở nòng cốt của Xã hội Dân sự có kinh nghiệm đào tạo huấn luyện cho giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới ngay từ đầu thế kỷ XX. Tổ chức này được du nhập vào Việt Nam từ đầu thập niên 1930 và đã phát triển rộng rãi tại nhiều địa phương trong nước ta trước năm 1945. Trong thời kỳ chiến tranh 1946 – 54, sinh họat Hướng đạo bị gián đọan tại các vùng do Việt minh kiểm sóat. Nhưng từ năm 1950, tại vùng đô thị do phe quốc gia quản lý, thì các hướng đạo sinh lại có thể bắt đầu quy tụ tập hợp sinh họat với nhau được. Và chỉ sau năm 1954, khi hòa bình được vãn hồi, thì tại khắp các tỉnh ở miền Nam Việt nam, Phong trào Hướng đạo mới lại được phục hồi một cách khởi sắc mạnh mẽ.
Và một số khá đông các huynh trưởng của Phong trào sinh họat thanh thiếu niên trong các thập niên 1960 – 70, thì đều xuất thân từ hàng ngũ hướng đạo sinh như Nguyễn Đức Quang – điển hình như các chị Phạm Thị Thân, Lê Thị Dung, Hà Dương Thị Quyên, các anh Hòang Ngọc Tuệ, Trần Văn Ngô, Đỗ Quý Tòan, Trần Đại Lộc, Nguyễn Văn Thuất, Đỗ Ngọc Yến v.v…
2 – Phong trào Sinh họat Thanh thiếu niên nở rộ vào giữa thập niên 1960.
Vào giữa thập niên 1960, thì tổng số sinh viên đại học và học sinh trung học trên tòan lãnh thổ miền Nam đã lên đến con số quá nửa triệu người. Nhờ sự yểm trợ và khích lệ của các cơ quan chính quyền như Bộ Giáo Dục, Bộ Thanh Niên, Bộ Xã Hội, cũng như của các đòan thể hiệp hội tư nhân hay của các tổ chức tôn giáo - thì sinh họat của giới thanh thiếu niên học đường càng có điều kiện phát triển thật đa dạng khởi sắc. Một trong những hình thức sinh họat được giới trẻ thích thú và nhiệt thành tham gia đông đảo nhất, đó là các trại công tác xã hội nhằm phục vụ cộng đồng địa phương - cụ thể như dọn dẹp rác rưởi, khai thông nước đọng, làm vệ sinh nơi các xóm hẻm, sửa chữa lớp học tại các trường ở ngọai ô thành phố… Đồng thời các bạn trẻ cũng tổ chức những màn trình diễn văn nghệ và ca hát tập thể để vừa phục vụ bà con ở địa phương, vừa vui chơi giải trí lành mạnh với nhau. Và chính là để đáp ứng nhu cầu sinh họat tập thể như thế đó, mà kể từ năm 1966, Nguyễn Đức Quang và các bạn hữu thân thiết đã hợp với nhau phát động thành Phong trào Du Ca với hàng mấy chục cơ sở ở Saigon và các tỉnh.
Lịch sử phát triển của Phong trào Du Ca này cũng như của Phong trào Hướng Đạo sẽ cho các thế hệ sau này biết rõ ràng hơn về sự dấn thân nhập cuộc của biết bao nhiêu huynh trưởng thanh niên đã miệt mài và kiên trì trong suốt bao nhiêu năm tháng để khơi động khai mở được một nếp sống lành mạnh cao đẹp cho giới thanh thiếu niên – ngay cả trong giai đọan chiến tranh khói lửa tràn đầy những đau thương tang tóc thuở đó. Đóng góp riêng của Nguyễn Đức Quang cho Phong trào này, thì thật hết sức lớn lao quý báu – mà ta có thể nói như nhạc sĩ Hòang Ngọc Tuấn hiện ở thành phố Sydney bên Úc châu đã có lần trao đổi trực tiếp với Nguyễn Đức Quang rằng: “Những ca khúc của anh đã gắn liền với một phần lịch sử. Và anh đã làm trọn nhiệm vụ của anh đối với cái phần lịch sử ấy… Những ca khúc của anh đã bám vào trái tim con người…”
Quang không những đã sáng tác được đến hàng mấy trăm ca khúc, mà lại còn đích thân vừa gảy đàn vừa xướng hát cho cả trăm, cả ngàn các bạn trẻ cùng vỗ tay say sưa hát theo - trong không biết bao nhiêu cuộc tập họp sinh họat ở khắp các địa phương trong nước và sau này ở nhiều thành phố trên thế giới nữa. Nhân tiện, cũng cần phải ghi ra đây một số thành viên khác cũng đã có những sáng tác cho dòng Nhạc Sinh Họat này, điển hình như các nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, Trần Đình Quân, Trầm Tử Thiêng, Bùi Công Thuấn v.v…
III – Tính Năng Động của Xã Hội Dân Sự Việt Nam.
Như ta đã biết tại miền Nam Việt nam trước năm 1975, các tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi được tự do thành lập và sinh họat, điển hình như Phong trào Hướng Đạo và Phong trào Du Ca - là hai tổ chức mà Nguyễn Đức Quang đã tham gia và gắn bó mật thiết trong suốt cuộc đời của anh – thì các tổ chức này đã có sự đóng góp thật đáng kể trong công cuộc rèn luyện giới thanh thiếu niên Việt Nam thời đó và cả bây giờ ở hải ngọai nữa.
Những ca khúc Quang sáng tác và trình diễn đã thổi một ngọn lửa nồng cháy nơi tâm hồn của tập thể lớp thanh thiếu niên liên tục từ nhiều năm nay. Điển hình như nơi ca từ trong bài “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” - một bài hát được các bạn trẻ ưa thích nhất –có những câu : “Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại. Xương da thịt này cha ông miệt mài…Còn Việt Nam, triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng…”
Hay trong bài “Cho Đồng Bào Tôi”, thì Điệp khúc ghi rõ lời kêu gọi hết sức thiết tha nồng nhiệt: “Một địa cầu mới hãy mọc lên. Một thế giới mới hãy ra đời. Một nền hòa bình vĩnh viễn mau đến cùng người. Một đòan người mới hãy vùng lên, bài ca tranh đấu hãy vang rền và người vì người hãy chủ động nuôi lớn quê hương”.
Và như ta đã biết, trên thế giới ngày nay càng ngày sinh họat của khu vực Xã hội Dân sự lại càng thêm phong phú khởi sắc - vì tính chất sáng tạo năng động và dấn thân nhập cuộc của hàng hàng lớp lớp những thiện nguyện viên, đặc biệt là lớp người trẻ tuổi với bầu nhiệt huyết sôi sục. Xã hội Dân sự vừa đóng vai trò làm “đối tác với chính quyền Nhà nước” (counterpart) như trong những công việc từ thiện nhân đạo phục vụ công ích. Mà Xã hội Dân sự cũng còn đóng vai trò làm “đối trọng với Nhà nước” (counterbalance) như trong việc chống bất công, nhũng lạm, chống nạn độc tài áp bức do cán bộ Nhà nước gây nên.
Tại Việt nam lúc này hiện có vô vàn vô số những con người bất khuất như Việt Khang, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hòang Quốc Hùng, Bùi Thị Minh Hằng… Những người bạn trẻ này của thế kỷ XXI hiện đang nối tiếp cái tinh thần nhân bản nhân ái và tấm lòng yêu mến quê hương dân tộc - trong truyền thống kiên cường bất khuất do cha ông chúng ta đã truyền lại cho thế hệ của Nguyễn Đức Quang vào giữa thế kỷ XX.
Xin cảm ơn Nguyễn Đức Quang vì những đóng góp tuyệt vời của anh qua những ca khúc bất hủ và qua những buổi trình diễn say sưa linh họat của anh tại khắp nơi trên quê hương đất nước Việt nam thời trước và cả trên khắp các châu lục có đông đảo người Việt cư ngụ thời sau này nữa.
Rõ ràng là Anh đã góp phần đáng kể vào công việc làm cho cuộc sống của thế hệ trẻ có ý nghĩa cao đẹp hơn, trong sáng hơn. Anh cũng giúp trong việc mở rộng cái Không gian Xã hội (Our Social Space) của chúng ta cho tươi mát hơn, thông thóang hơn. Và Anh cũng như các bạn Đỗ Ngọc Yến, Ngô Mạnh Thu … đã làm cho cái Nguồn Vốn Xã hội (Our Social Capital) của Dân tộc chúng ta thêm phong phú hơn, sung mãn hơn mãi nữa.
San Clemente California, Tháng Ba 2012
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012
Đoàn Thanh Liêm - Quê Hương nơi Miền Đất Mới (Australia 5)
Đoàn Thanh Liêm
Đây là bài thứ năm trong loạt bài ký sự về cuộc viếng thăm bà con trong thân tộc và bằng hữu của tôi tại Úc châu vào cuối năm 2011 vừa qua. Trong suốt một tháng sinh sống tại nhà của bà con cư ngụ tại hai thành phố lớn nhất của Australia là Melbourne và Sydney, tôi đã có nhiều thời gian trao đổi chuyện trò thân mật với cả trăm người già trẻ, lớn bé thuộc cả ba thế hệ trong gia đình người Việt, mà phần đông đã định cư tại đất nước này đến 30 năm nay.
*Thế hệ thứ nhất là lớp các ông bà, thì nay đã vào lứa tuổi từ 70 trở lên và hầu hết thì đã về nghỉ hưu.
Trong số này, nhiều người thân thiết của tôi đã trút hơi thở cuối cùng và đang an giấc ngàn thu nơi các nghĩa trang tại xứ này. Cháu Tống Ngọc Lân hiện ở khu vực Footscray đã chở tôi đến thăm mộ của mẹ cháu mất năm 1994 và được an táng tại nghĩa trang gần sát với phi trường Melbourne. Mẹ của cháu Lân là cô em dâu của tôi.
*Thế hệ thứ hai là lớp các con, thì phần đông đã ở vào lứa tuổi 50, mà lúc rời Việt Nam thì đã tới 20 – 30 tuổi, nên vẫn còn nhiều kỷ niệm với quê hương đất nước. Nhưng sau khi định cư tại Úc trên vài chục năm, thì nay họ đã có được công ăn việc làm ổn định và sắm được nhà cửa tươm tất, con cái được đi học ở những trường có danh tiếng. Nhờ vậy mà cuộc sống gia đình coi như được bảo đảm vững vàng nơi xứ sở Úc Đại Lợi này.
*Thế hệ thứ ba là lớp các cháu, thì hầu hết đều sinh trưởng, học hành tại Úc và nói tiếng Anh thông thạo như người bản xứ, nên đã dễ dàng hội nhập tự nhiên êm thắm với dòng chính của xã hội địa phương. Mặt khác, vì nhờ có sự sinh họat thường xuyên và gắn bó trong đại gia đình gồm cả ba thế hệ nói trên, nên các cháu ở thế hệ thứ ba phần đông còn nói được tiếng Việt và giữ gìn được nền nếp đạo đức văn hóa trong gia tộc của ông bà cha mẹ mình.
I – Cảm nghĩ sau các chuyến về thăm quê hương Việt nam.
Với khỏang cách tương đối gần, đi máy bay chỉ mất chừng 8 giờ, nên bà con ở Úc châu đi lại Việt nam thường xuyên và thật dễ dàng. Nhất là lớp người trung niên, thì hay tìm cách dẫn con cái về thăm lại quê hương bản quán, để các cháu có dịp tìm hiểu cho rõ ràng hơn về nơi miền đất cội nguồn của cha mẹ ông bà mình.
A - Tôi chú ý đến nhận xét của các cháu thuộc thế hệ thứ ba - ở vào tuổi trên dưới 20 đang còn là sinh viên đại học - sau những chuyến theo cha mẹ về thăm Việt Nam. Vì hầu hết các cháu đều sinh trưởng tại Úc nên không hề có thành kiến hay kỷ niệm vui buồn gì liên quan đến quê hương Việt Nam của bố mẹ mình. Do vậy mà ý kiến của các cháu dễ có tính cách khách quan hơn là của thế hệ cha bác vốn đã từng là nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản ở trong nước.
Đại khái các cháu cho biết là không có mấy thiện cảm với những điều chính bản thân các cháu chứng kiến bằng tai nghe mắt thấy tại Việt Nam trong thời gian vài ba năm gần đây. Khi được hỏi liệu có cháu nào dự tính sẽ về lập nghiệp ở Việt Nam chăng ? Thì không một cháu nào tỏ ý muốn về sinh sống lâu dài ở nơi đó cả. Phần lớn các cháu chỉ về VN một vài lần vì tò mò muốn đích thân quan sát để cho biết thực tế ra làm sao vậy thôi. Và xem ra qua những gì đã chứng kiến trong chuyến về thăm đó, thì các cháu đều cho là mình không thể sống thỏai mái, hòa đồng tự nhiên trong cái môi trường xã hội hỗn độn xô bồ phức tạp, mà lại thiếu vắng sự thông cảm chân tình của những người xung quanh với mình.
B - Còn đối với thế hệ thứ hai là những người nay đã ở vào cỡ tuổi 40 - 60, thì có sự hiểu biết chi tiết hơn về tình hình sinh họat trong xã hội ở Việt Nam, họ có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt trong xã hội hiện nay so sánh với thời kỳ 25 - 30 năm trước - vào lúc họ vẫn còn sinh sống ở trong nước. Qua sự quan sát tại nhiều nơi trong nước và nhất là qua sự gặp gỡ trao đổi tâm sự chân tình với thân nhân bạn hữu, họ có nhận định rằng tuy về mức sống vật chất có sự cải thiện nào đó, nhưng về phương diện tinh thần, thì vẫn còn ngộp thở bí bức thế nào ấy, chứ không có được sự thỏai mái cởi mở hồn nhiên như trong xã hội nước Úc là nơi họ đã định cư từ 30 năm nay.
Luật sư Phước quê ở Cần Giuộc đã tốt nghiệp ở trường Luật Saigon từ trước năm 1975, thì cho biết rằng cái lề lối quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay đã bóp nghẹt mọi sáng kiến về cải tiến xã hội của những người có ưu tư đến vận mệnh của dân tộc. Vì thế mà trong lớp người tỵ nạn như chúng em đã đến lập nghiệp tại Úc châu từ 30 năm nay, thì chẳng một ai mà còn nghĩ đến chuyện đưa gia đình trở về lại Việt Nam sinh sống nữa. Cô Oanh là bà xã của Phước thì cũng nói thêm vào : Anh thử coi xem mấy đứa con của chúng em nay đã ở độ tuổi 30, và đã có công ăn việc làm ổn định nơi đây rồi, thì chẳng cháu nào mà lại có ý định về lập nghiệp ở Saigon đâu. Như vậy là cả ba thế hệ trong gia đình tụi em thì nhất quyết bám trụ lại ở xứ sở Úc châu này như là quê hương thứ hai vậy - và Việt Nam chỉ còn lại như là một kỷ niệm sâu sắc trong tâm hồn những người cỡ tuổi chúng em mà thôi. Chứ đối với các cháu sinh trưởng ở bên Úc hay rời Việt Nam lúc còn quá nhỏ, thì rõ ràng là tụi chúng không thể có được cái ký ức thân thiết như thế hệ chúng em được.
II – Chúng tôi đi mang theo Quê Hương.
Chuyện lập lại cuộc đời tại một xứ sở xa lạ như ở nước Úc, tuy vậy mà cũng không đến nỗi vất vả khó khăn chật vật lắm, bởi lẽ kể từ thập niên 1980 trở đi, thì đã có số khá đông bà con người Việt được cho nhập cư một cách dễ dàng và chính phủ Úc cũng đã phát động rộng rãi chính sách “Úc châu đa chủng tộc & đa văn hóa” (muti-ethnic & multi-cultural Australia). Hiện nay đã có đến con số 280,000 người gốc Việt sinh sống trên lãnh thổ Úc châu, mà đa số định cư tại hai tiểu bang đông dân nhất là Victoria với thành phố Melbourne và New South Wales (NSW) với thành phố Sydney.
A – Ngòai ảnh hưởng của đại gia đình ra, thì phải kể đến các tổ chức tôn giáo là những cơ sở tinh thần thiết yếu cho việc phát huy và bảo tồn văn hóa và đạo đức truyền thống Việt nam.
Với sinh họat gặp gỡ thường xuyên trong đại gia đình gồm cả ba thế hệ ông bà, cha mẹ và con cháu, thì ngay cả thế hệ thứ ba sinh ra trên đất Úc cũng vẫn còn nói được tiếng Việt và nhất là còn giữ vững được tinh thần đạo đức cốt yếu thuộc bản sắc dân tộc Việt Nam. Và tại các chùa, nhà thờ nào, thì cũng có những lớp dậy tiếng Việt cho các em nhỏ vào những ngày cuối tuần, và các cơ sở tôn giáo này cũng đều tạo dịp cho cả ba thế hệ trong gia đình cùng hợp lại quây quần sinh họat chung với nhau trong các buổi cầu kinh và cử hành nghi lễ tôn giáo bằng tiếng Việt - hoặc có kèm thêm bằng tiếng Anh để lớp trẻ dễ dàng tiếp thu hơn. Tôn giáo còn có mặt thường xuyên và gắn bó mật thiết trong các sinh họat vui buồn của mọi gia đình tín đồ - cụ thể như trong các lễ đám cưới, lễ an táng v.v…
Nhất là trong việc chăm sóc, an ủi, viếng thăm các cụ già yếu bệnh họan phải ở một mình tại các nursing home, mà con cháu vì bận rộn chuyện làm ăn, nên không thể lo lắng chu đáo mọi bề cho cha mẹ được. Thủy là bà xã của cháu Lân làm nghề y tá điều dưỡng ở Melbourne, có trao đổi với tôi về những khó khăn của các cụ già sống cô đơn lủi thủi trong nursing home, và tôi đã góp ý với Thủy là các tổ chức nhân đạo từ thiện của cộng đòan tôn giáo có thể góp phần tích cực hơn trong vấn đề chăm sóc tinh thần cho các cụ già ở đây, nhất là vận động cho giới trẻ như học sinh, sinh viên tổ chức những cuộc viếng thăm an ủi thường xuyên tại các nursing home - để hợp cùng với gia đình các vị bô lão trong việc tạo dựng được bàu không khí ấm cúng thân mật trong cuộc sống tại cơ sở y tế xã hội này.
B – Vai trò của các tổ chức văn hóa xã hội thiện nguyện khác.
Trong một xã hội dân chủ cởi mở như ở Úc châu, người dân được tòan quyền tự do đứng ra thành lập các hội đòan hiệp hội nhằm theo đuổi các mục đích văn hóa xã hội cũng như thể thao giải trí. Các đơn vị này được gọi là tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi (non-governmental/non-profit organisations). Những hiệp hội đòan thể này cũng như các tổ chức nhân đạo từ thiện do các tôn giáo điều hành, thì đó chính là thành phần cốt lõi của khu vực Xã hội Dân sự. Nhân viên trong chính quyền nhà nước Úc châu không hề tìm cách can thiệp, hạn chế hay thao túng đối với sinh họat của các tổ chức tư nhân đó – điều này khác biệt hẳn với chế độ độc tài chuyên chế như tại các nước do đảng cộng sản nắm giữ quyền bính.
Nói chung, thì khu vực Xã hội Dân sự - do tập thể bà con người gốc Việt gầy dựng và duy trì trong hơn 30 năm qua – hiện đang góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa ngôn ngữ riêng biệt Việt Nam tại miền đất mới ở phía Nam bán cầu. Điển hình là trong các Hội Chợ Tết - với hàng nhiều vạn người tham dự để vui chơi thưởng thức nhiều tiết mục đa dạng về phong cách trình diễn nghệ thuật, âm nhạc, đánh cờ, múa lân võ thuật - và nhất là các món ăn truyền thống Việt Nam – thì luôn luôn được nhiều đòan thể hiệp hội tích cực tham gia khiến phát động được bầu không khí náo nhiệt phấn khởi tương tự như trong những Lễ Hội Dân Gian (Folk Festival) tại quê hương từ thuở xa xưa. Cụ thể như trường hợp của anh Nguyễn Văn Thuất là một Trưởng Hướng Đạo Sinh kỳ cựu hiện ở Sydney. Anh Thuất luôn ưu tư về việc phải đưa sắc thái văn hóa Việt Nam vào trong các cuộc tập họp vui chơi giải trí của người Việt như trong những Hội chợ Tết (Tết Fair) hay như Lễ Hội dành riêng cho Thiếu Nhi (Children’s Festival) được tổ chức vào dịp Trung Thu, mà lại dành cho các em thuộc mọi sắc dân – chứ không chỉ dành cho giới trẻ Việt Nam của mình như thường thấy tại các nơi khác. Lễ Hội Thiếu Nhi này đã được tổ chức hàng năm vào tháng Chín từ trên 10 năm qua và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của cộng đồng các sắc dân tại nhiều thành phố xung quanh Sydney. Và các Hướng Đạo Sinh Việt nam luôn tự nguyện đóng vai trò chủ chốt trong việc tổ chức và điều hành các buổi Sinh họat có quy mô thật lớn lao này. Người viết sẽ trình bày chi tiết hơn về lọai Lễ Hội độc đáo này trong một bài khác.
C – Khu vực Thị trường Kinh doanh (The Marketplace).
Tôi chưa có dịp tìm hiểu chi tiết về quy mô lớn lao của các cơ sở kinh doanh sản xuất hay thương mại của người Việt tại Úc, nhưng qua những cuộc viếng thăm nhiều khu buôn bán làm ăn tiêu biểu xung quanh Melbourne như Footscray, Richmond, Springvale hay khu lân cận với Sydney như Cabramatta, Bankstown…, thì rõ ràng là đã có sự sầm uất phồn thịnh xuyên qua các cửa hàng đày ắp sản phẩm phù hợp với thị hiếu đặc trưng của người Việt xưa nay. Có thể nói tại hàng ngàn, hàng vạn các quán ăn cũng như tại các cửa hàng rất tấp nập trong các khu thương mại này, thì hầu như không hề thiếu một món nào so với ở quê nhà Việt nam mà bà con vẫn ưa thích.
Bà con cho biết là tại tiểu bang Queensland ở phía bắc của New South Wales, thì nhờ có khí hậu nóng và nhiều mưa, nên việc trồng rau, trái cây rất phát triển để có thể cung ứng dồi dào đến tay người tiêu thụ những sản phẩm của xứ nhiệt đới – không thua kém gì so với nông sản xuất phát từ Việt Nam. Nhờ vậy mà trong các bữa cơm gia đình, hầu như không bao giờ thiếu vắng những món ăn đặc sản phổ biến mà bà con vẫn ưa thích khi còn ở bên quê nhà.
Nói vắn tắt lại, nhờ tinh thần năng động tháo vát trong lãnh vực kinh doanh cũng như trong việc phát triển sinh họat đa dạng của Xã hội Dân sự, nên cái Không gian Xã hội của người Việt tại Úc châu đã đạt tới trình độ hết sức linh động khởi sắc – vừa giữ được tính chất truyền thống cố hữu của bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu được những cái mới lạ độc đáo tiến bộ trong nếp sống đã có sẵn tại địa phương bản xứ.
Thành ra bộ mặt Quê hương Việt Nam - mà tập thể gần 300,000 người Việt nam tỵ nạn tại Úc đã chung sức kiên trì xây dựng từ trên 30 năm qua – đã có những nét thật tươi đẹp rạng rỡ khiến cho ngay cả đến các giới chức lãnh đạo xã hội bản xứ cũng phải bày tỏ sự khâm phục mến chuộng trước những cố gắng hội nhập cũng như những đóng góp tích cực với quốc gia Úc châu của sắc dân Việt Nam.
Và quả thật, tập thể người Việt tại Úc châu đã tạo ra được một nét son độc đáo trong việc đem một phần tinh hoa của Quê hương Việt nam tháp nhập êm thắm vào với xã hội nước Úc và cũng đã đem lại niềm tự hào cho tòan thể dân tộc chúng ta nữa vậy.
California, tháng Hai năm 2012
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012
Đoàn Thanh Liêm - Phật tại tâm, Chuá ở trong lòng
Đoàn Thanh Liêm
Từ mấy năm gần đây, tôi đã viết nhiều bài liên quan đến vấn đề tôn giáo dấn thân nhập cuộc với xã hội, điển hình như các bài “Tôn giáo và lòng Nhân ái vị tha”, “Tôn giáo dậy chúng ta sự khiêm cung”, “Tôn giáo và Xã hội Dân sự” v.v...Trong các bài viết này, tôi chú trọng đến khiá cạnh tích cực trong vai trò cuả tôn giáo đối với đời sống con người trong xã hội hiện đại. Tuyệt nhiên tôi tránh lối chỉ trích mạt sát, chế diễu những sai lầm nơi bất kỳ các tổ chức tôn giáo nào khác với tôn giáo cuả mình. Như dân gian thường nói : “Tin đạo, chứ không nên rắp mắt tin người có đạo”, tôi xác tín rằng tôn giáo nào cũng chủ yếu là một con đường dẫn đưa con người tới nẻo Chân, Thiện, Mỹ mà thôi, danh từ Đạo có nghiã là con đường mà! Nhưng vì là con người vốn luôn luôn có những sai sót, bất toàn, cho nên bất kỳ mỗi tín đồ cuả một tôn giáo nào, thì đều có thể phạm những lỗi lầm vô tình hay cố ý, phát xuất từ sự yếu đuối thường tình cuả con người sống trên thế gian vốn đầy dãy những cạm bẫy cám dỗ này. Do vậy mà ta không nên “vơ đuã cả nắm” để mà xác quyết được rằng tôn giáo này, tôn giáo kia chỉ là một thứ xằng bậy, là thứ phản tiến bộ, lạc hậu, hoặc như người cộng sản quá khích cực đoan, vốn xưa nay vẫn coi “tôn giáo là thứ á phiện làm mê hoặc quần chúng”, nên họ đã thẳng tay triệt hạ các tổ chức tôn giáo - mà không hề có đôi chút xót thương luyến tiếc.
1 - Chúng ta đều biết rằng trong lịch sử cuả nhiều dân tộc trên thế giới đã xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc phát xuất vì lý do tôn giáo. Và chỉ trong vài thế kỷ gần đây, nhân loại đã rút ra được một bài học khôn ngoan là phải đề cao sự bao dung, chấp nhận sự khác biệt cuả con người trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Ngày nay con người đã hiểu biết và thông cảm với nhau nhiều hơn, nên đã thể hiện được tình trạng“Đa dạng Đa nguyên về Văn hóa, về Tôn giáo“ (cultural, religious diversity/pluralism).
Cụ thể điển hình là Liên Hiệp Quốc đã phát động cả một chương trình hành động nhằm ngăn cản và chấm dứt “sự bất bao dung, nạn kỳ thị về tôn giáo” (Religious Intolerance / Discrimination). Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ban hành năm 1948 cũng đã xác định trong điều 18 rằng : “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo...” Đó là một sự tiến bộ dứt khoát và rõ ràng cuả nhân loại từ giưã thế kỷ XX cho đến đầu thế kỷ XXI cuả chúng ta hiện nay.
2 - Là người có một niềm tin tôn giáo sâu sắc thừa hưởng được từ truyền thống gia đình ngay từ tuổi ấu thơ, rồi sau này khi trưởng thành, tôi lại có duyên được sát cánh gần gũi thân thương với nhiều vị tu sĩ và tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau, thông qua những công tác từ thiện nhân đạo, nên tôi tiếp thu được một tinh thần bao dung, thông thoáng cởi mở trong các sinh hoạt văn hoá xã hội và tâm linh cuả các cộng đồng tôn giáo ở Việt nam cũng như ở ngoại quốc. Cụ thể, vào các năm 1972-74 tôi đã được mời cộng tác với Hội đồng Tôn giáo Thế giới (WCC = World Council of Churches) có trụ sở chính tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Và nhất là trong mười năm gần đây, tôi luôn sát cánh với Viện Xây dựng Hoà bình Muà hè thuộc trường Đại học Eastern Mennonite University tại Virginia (Summer Peacebuilding Institute SPI/ EMU). Cũng như tham gia sinh hoạt thường xuyên với các nhóm tôn giáo dấn thân hoạt động cho Hoà bình tại thành phố Knoxville tiểu bang Tennessee trong khuôn khổ cuả tổ chức Viện Xây dựng Hoà bình Miền Đông Tennessee (Peacebuilding Institute of East Tennessee PIET). Có thể nói các tổ chức xây dựng Hoà bình này là kết quả cuả sự hợp tác chặt chẽ giưã giới lãnh đạo Tôn giáo và giới Đại học Hàn lâm (Cooperation between Churches and Academy) trong ý hướng góp phần vào công cuộc giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn cuả con người tại khắp nơi trong xã hội ngày nay.
3 - Nhưng cái kinh nghiệm sâu sắc và bền bỉ nhất cuả tôi sau nhiều năm tháng tiếp cận và làm việc chung với môi trường tôn giáo nhập cuộc với xã hội như đã ghi sơ lược ở trên, thì chính là chiều sâu tâm linh trong đời sống (spiritual life) cuả những vị hoạt động tích cực nhất nơi những tổ chức này. Họ đều có một lối sống thanh thoát, không chút bận tâm đến những chuyện nhỏ nhen, tầm thường cuả thế gian thường tình. Tâm hồn họ như bay bổng lâng lâng trong tình yêu thương gắn bó với mọi người trong cõi nhân sinh, và luôn sẵn sàng hy sinh để tạo dựng hạnh phúc cho đồng loại. Rõ ràng là họ đối xử với mọi người như là anh chị em ruột thịt, vì quan niệm rằng tất cả đều cùng là con cuả một người cha chung, một Thượng Đế vốn hết lòng yêu thương loài người. Họ vừa có trí tuệ sáng suốt, vừa có tâm hồn nhân hậu, sống và làm việc với lý tưởng thanh cao, nhiệt thành. Cái ngọn lửa yêu thương trong sâu thẳm tâm hồn cuả họ luôn tỏa chiếu lan rộng ra nơi môi trường xung quanh họ (transfer of the flame), và có sức chuyển giao đến tâm hồn cuả quần chúng mà có duyên tiếp cận với họ. Vì thế, tôi có thể nói được rằng những vị này rõ ràng là đã đạt tới được “Cái Tâm Bồ Tát” theo ngôn ngữ cuả Phật giáo. Mà theo ngôn ngữ cuả Thiên chuá giáo, thì họ đang ấp ủ “Chúa ở trong lòng mình”.
Đó là lý do tại sao tôi đã chọn nhan đề cho bài viết “Phật tại tâm – Chúa ở trong lòng” này được khởi thảo từ cuối năm 2009 và được bổ túc vào đầu năm 2012 hiện nay, nhằm giãi bày tâm sự cuả một người đã tham gia lâu năm với loại “Họat động xã hội dựa vào niềm tin” (faith-based social action) cùng chung với nhiều tín đồ thuộc các khuynh hướng tôn giáo khác nhau.
4 - Nói về chữ Tâm, thì dân gian ta từ xa xưa vẫn trao đổi truyền khẩu với nhau qua mấy từ ngữ đã thành ước lệ (conventional language) như : “cái tâm thiện hảo”, “cái tâm trong sáng”, “cái tâm thanh cao” v.v... Ngược lại là các chữ : “cái tâm đen tối”, “cái dã tâm”, “cái tâm điạ độc ác” v.v... Văn hào Nguyễn Du đã phát biểu trong câu thơ ở đoạn kết cuả tác phẩm bất hủ Truyện Kiều như sau :
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Đây quả là một lời khuyến thiện tuyệt diệu và có tác dụng hết sức sâu sắc, mà lâu dài đối với quảng đại quần chúng, mà ngay cả các vị tu hành lâu năm cũng không thể nào kêu gọi tín đồ hay hơn như thế được. Chính vì chú trọng đến cái phần cao quý trong nhân cách cuả mỗi người như vậy, cho nên cha ông ta mới thường hay nhắc nhủ con cháu là phải cố gắng miệt mài “Rèn Tâm Luyện Chí”, để sau này trở thành con người hưũ dụng cho xã hội, làm rạng danh cho dòng giống nhà mình (ích nhà, lợi nước) vậy.
5 - Tại miền Nam Việt nam, ngay từ thập niên 1950 các ấn phẩm trong tủ sách “Học làm người” rất được công chúng tìm đọc, và một trong những tác giả loại sách này mà được nhiều người mến chuộng, đó chính là học giả Nguyễn Hiến Lê. Cụ là người tinh thông cả cổ học lẫn tân học, nên văn phong cuả cụ rất đơn giản sáng suả, mà về nội dung thì lại rất phong phú đề cao sự rèn luyện nhân cách, khai mở trí tuệ. Cụ tham khảo chọn lọc những sách nổi danh ở Âu Mỹ và tìm cách dịch ra Việt ngữ để phổ biến sâu rộng cho số đông độc giả có trình độ học vấn phổ thông.
Sau năm 1975, tôi có duyên được gần gũi tiếp cận khá thường xuyên với cụ và được cụ tâm sự nhắn nhủ với tôi nhiều chuyện, mà tôi xin ghi lại ở đây một điều cốt yếu như sau: “Tôi đã cố gắng đóng góp hết sức mình vào việc ‘Nâng cao Dân trí’ qua những sách báo tôi viết suốt mấy chục năm nay. Nhưng cái việc ‘Chấn hưng Dân khí’ như cụ Phan Châu Trinh kêu gọi, thì còn phải trông chờ nơi nhiều người khác cùng tiếp tay vào nưã, thì mới thực hiện được. Đó là làm sao chuyền được cái ngọn lưả cho thế hệ tương lai con cháu mình, cho nên vấn đề là chính chúng ta phải có được cái ngọn lưả nồng nàn trong tâm hồn cuả mình, thì mới có thể lan truyền sức nóng ấy sang cho thế hệ sau kế tiếp được. Tuổi trẻ cuả các ông còn có nhiều cơ hội để mà làm được cái việc ‘Dĩ tâm truyền tâm’ như thế đó...”
*Bài viết đến đây kể đã dài rồi, tôi xin chỉ ghi thêm một vài dòng thật ngắn ngủi nữa, đó là thế hệ chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa đến việc phục hồi lại cái truyền thống nhân ái và nhân bản của cha ông ta ngày xưa đã xây dựng được và truyền lại cho con cháu ngày nay. Dĩ nhiên là chúng ta cũng cần phải biết tiếp thu những cái hay, cái đẹp của những nền văn hóa khác nữa – mà ngày nay nhờ sự giao lưu phổ cập dễ dàng trên thế giới chúng ta đều có thể tiếp cận được – để bồi bổ cho cái sản nghiệp tinh thần của dân tộc mình. Có như vậy, thì cuộc sống của dân tộc Việt nam chúng ta ở thế kỷ XXI này mới có cơ trở thành phong phú, thấm đượm“tinh thần dân tộc, nhân bản và khai phóng” – như các bậc thức giả từ lâu đã từng kêu gọi vậy.
California, tháng Hai năm 2012
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012
Đoàn Thanh Liêm - Chuyện xưa chuyện nay: Buổi tiếp chuyện với Linh mục Vitaly Borovoy (tại Geneva, tháng Ba năm 1972)
Đoàn Thanh Liêm
Suốt tháng Ba năm 1972, trong dịp đến làm việc với văn phòng của Hội Đồng Tôn giáo Thế giới” (The World Council of Churches = WCC) tại thành phố Geneva Thụy sĩ, tôi có cơ hội tiếp xúc với một số nhân vật trong các bộ phận chuyên môn của tổ chức quốc tế này. Trụ sở chính của WCC tọa lạc trong một khu vực khá rộng lớn phía ngọai ô của cái thành phố êm ả thanh bình có danh tiếng trong lịch sử Âu châu, trên Đại lộ Route de Ferney, là khu vực mà xưa kia vào thế kỷ XVIII văn hào nổi danh người Pháp Voltaire đã từng có thời gian dài cư ngụ tại đây. Dù đã là tiết xuân, nhưng tại vùng đồi núi ở đây, trời vẫn còn khá lạnh lẽo với nhiều ngày có tuyết đổ làm trắng xóa cả các bụi cây ven đường, nhất là mỗi khi trời nắng thì khối tuyết trên các đỉnh núi cao ngất lại phản chiếu ánh sáng mặt trời, coi thật uy nghi lộng lẫy.
![]() |
Linh mục Vitaly Borovoy - Photo: WCC |
Vào một buổi sáng, tôi đã có cuộc tiếp chuyện dài đến 2 giờ đồng hồ với vị Linh mục thuộc Nhà thờ Chính thống giáo nước Nga, tên là Vitaly Borovoy. Năm 1972 ông đã ngoài 55 tuổi, người tầm thước trong bộ áo tu sĩ dài màu đen phủ kín tòan thân, cổ đeo một thập giá mạ vàng khá lớn, và với bộ râu quai nón cũng khá rậm rạp vốn là hình ảnh đặc trưng của các Linh mục trong hàng ngũ Giáo phẩm Chính thống giáo (Orthodox Hierarchy). Linh mục đã từng làm việc trong bộ phận phụ trách về ngọai vụ của Giáo hội Chính thống giáo Nga. Ông nói tiếng Anh với giọng lắp bắp ngập ngừng, nhưng lại sử dụng từ ngữ khá chính xác.
Biết tôi từ miền Nam Việt Nam tới, ông hỏi thăm về tình hình chiến tranh mỗi ngày một leo thang ở đó ra sao. Tôi nói với ông rằng suốt đời tôi từ khi có trí khôn vào năm 1941- 42 đến nay đã 30 năm rồi, tôi chỉ biết có chiến tranh tàn sát trên quê hương tôi mà thôi. Tôi đã chứng kiến nạn đói tại làng quê tôi vào năm 1945, làm chết bao nhiêu người bà con và bạn hữu, kể cả ông chú út là em của cha tôi nữa. Tôi thật đau lòng trước bao nhiêu tang thương đau khổ liên miên ròng rã đã bao lâu nay xảy đến cho những người thân yêu của tôi như vậy. Nghe tôi trình bày rõ ràng thành thật như thế, ông tỏ vẻ thông cảm và câu chuyện giữa hai chúng tôi đã mau lẹ trở thành thân mật và cởi mở, giống như giữa hai người anh em bà con trong cùng một dòng họ vậy.
Sau câu chuyện mở đầu thân mật đó, vị Linh mục bắt đầu tâm sự với tôi bằng lời lẽ thẳng thắn, quả quyết đại khái có thể tóm lược vào mấy điểm như sau :
1 – Thứ nhất, về phương diện đối ngọai, Giáo hội Chính thống chúng tôi không thể nào có thể có được một quan điểm công khai trái ngược với lập trường của chánh phủ Liên bang Xô Viết. Cụ thể như đối với cuộc chiến tranh hiện nay ở Việt Nam, thì chúng tôi phải đứng về phe Xã hội chủ nghĩa mà bênh vực chánh phủ Hà Nội, để chống lại chánh phủ Saigon và phe Tư bản do người Mỹ lãnh đạo. Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn cố gắng để giữ được vị thế và sắc thái riêng biệt theo truyền thống lâu đời của Tôn giáo mình, chứ chúng tôi không phải là một thứ cơ quan trực thuộc chánh quyền hay là một thứ cơ sở ngọai vi của đảng cộng sản Liên Xô. Nhưng xin ông cũng thông cảm cho việc chúng tôi bị “kiểm sóat, khống chế” khá là ngặt nghèo trong cung cách giao dịch với thế giới bên ngòai, đặc biệt là trong lãnh vực chính trị và bang giao quốc tế.
2 – Thứ hai, về phương diện sinh họat nội bộ, thì từ khi chế độ cộng sản được thiết lập và củng cố vững chắc trên tòan thể nước Nga và các nước Cộng hòa khác thuộc Liên bang Xô Viết, thì Giáo hội Chính thống chúng tôi phải liên tục chịu đựng những sự hạn chế, đàn áp vô cùng là ngặt nghèo tàn bạo không làm sao mà kể cho xiết được. Trong hơn nửa thế kỷ nay, chúng tôi đã có đến hàng chục vạn thánh đường, các tu viện, cơ sở tôn giáo, các chủng viện, các cơ sở văn hóa xã hội bị triệt hạ đến mất hết cả dấu tích luôn. Và bao nhiêu đồ tượng ảnh quý báu được dát bằng quý kim vàng bạc, cẩm thạch đá quý tích lũy từ bao nhiêu thế hệ xa xưa trong các cơ sở phụng tự đó đều bị tịch thu và mang đi đâu chẳng còn ai mà biết được nữa.
Đó là về phương diện cơ sở và tài sản vật chất. Còn về tinh thần và nhất là về phương diện nhân sự tức là thành phần các tu sĩ, giáo sĩ, thì thật là thảm thương bi đát không một ai lại có thể tưởng tượng được. Đã có hàng ngàn giáo sĩ bị hành quyết (executed), hàng nhiều ngàn bị bắt, bị đầy ải ở Siberia và trong các trại tập trung và hầu hết đều đã kiệt sức vì đói, vì lạnh, vì bị làm việc nặng nhọc quá sức chịu đựng của con người. Đó là chưa kể đến con số hàng triệu tín đồ bị hành hạ, bạc đãi, bị cưỡng bức phải di chuyển đi đến những vùng khô cằn hẻo lánh. Chưa bao giờ Giáo hội chúng tôi lại bị bách hại thảm thương tàn ác đến thế!
3 – Nói chung, thì nhà nước Xô Viết vẫn triệt để tìm mọi cách để tiêu diệt tôn giáo và thay thế vào đó bằng chủ thuyết vô thần. Nếu có được một sự nới lỏng, dễ thở nào đó cho sinh họat tôn giáo, thì chỉ vì nhu cầu giai đọan cấp thời mà thôi. Cụ thể như từ lúc nước Nga bị quân Đức Quốc Xã đến xâm lăng vào năm 1941, thì ông Stalin mới ra lệnh cho thuộc cấp trả lại một số cơ sở phụng tự, trả tự do cho một số giáo sĩ, tu sĩ và cho tín đồ được hành đạo tương đối thỏai mái. Nhưng đó chỉ vì muốn lấy lòng các tầng lớp dân chúng để cho họ cùng tham gia vào công cuộc bảo vệ tổ quốc mà thôi. Sau chiến tranh rồi, thì guồng máy kềm kẹp lại tiếp tục vận hành, mà lại càng dã man cuồng nhiệt hơn nữa.
Cả ngay dưới thời của ông Krushchev, thì nạn bài trừ và đàn áp tôn giáo vẫn còn rất ngặt nghèo sắt máu, có đến hàng vạn nhà thờ bị phá hủy hay tịch thu trong các năm dưới quyền của ông lãnh tụ này. Chỉ gần đây, dưới thời của ông Brezhnev, thì mới có sự nới lỏng đôi chút mà thôi.
4 - Ngày nay, nhờ áp lực mạnh mẽ của quốc tế mà Giáo hội chúng tôi cũng mới bắt đầu phục hồi lại được phần nào. Nhưng nói chung, mọi tôn giáo ở Liên Xô, kể cả Chính thống giáo, Tin lành, Công giáo, Hồi giáo, Phật giáo…, thì vẫn còn phải chịu nhiều sự khốn khó hạn chế đủ mọi bề.
Những điều tôi nói với ông lúc này, thì các sách báo ở phương Tây đều đã viết lên đầy đủ cả rồi, dựa trên những chứng từ đáng tin cậy của bao nhiêu người đào thóat từ nước Nga, hay do các nguồn tin do chính người dân ở Liên Xô tiết lộ ra cho các bạn hữu của họ ở nước ngòai. Tôi vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân để có thể xác nhận với ông về những sự việc thực tế hết sức phũ phàng đau đớn này.
Nhưng tôi cũng xin lưu ý ông là không nên công bố danh tính của tôi khi ông viết thuật lại những điều tôi tâm sự riêng tư với ông bữa nay, vì nếu nhà nước Liên Xô mà biết được chuyện “tôi nói không tốt về họ”, thì họ sẽ trách cứ và làm phiền cho văn phòng ngọai vụ của chúng tôi.
Tại nước Thụy sĩ này, tôi được chứng kiến sự thịnh vượng sung túc và cuộc sống thanh thản an bình của người dân, mà tôi càng cảm thương cho dân tộc Nga thật là bất hạnh của tôi. Tôi cũng thương xót cho bao nhiêu đồng đạo, bao nhiêu anh em tu sĩ của tôi đã bị tàn sát do bàn tay của người cộng sản. Và tôi cũng xót thương cả đối với một ít tu sĩ đã vì hèn nhát mà cam tâm làm tay sai cho công an mật vụ, để phản bội lại chính các anh em đồng đạo của mình…
Vitaly Borovoy, vị Linh mục cao tuổi và có thâm niên nhất của Giáo hội Chính thống giáo nước Nga, - tính theo ngày được thụ phong năm 1944 – đã qua đời vào năm 2008, ở tuổi thọ 92 (1916 – 2008). Ông được đánh giá là người đã góp công rất lớn vào công cuộc giữ vững và phục hồi nếp sống tinh tuyền trong truyền thống lâu đời của Giáo hội Chính thống Nga.
Sau cùng, người viết chỉ xin ghi thêm vài dòng vắn tắt về Giáo hội Chính thống Nga đã tồn tại trên đất nước này từ trên một ngàn năm nay, đã bám rễ sâu vào nếp sống văn hóa và tình cảm tâm linh của dân tộc Slave này. Và dù chế độ cộng sản trong suốt trên 70 năm đã dùng mọi phương cách bạo hành thâm độc nhằm tiêu diệt tôn giáo này, thì rốt cuộc chính các thủ phạm tàn ác là người cộng sản lại bị người dân Nga lọai trừ chối bỏ. Và các nạn nhân khốn khổ là những tín đồ tôn giáo nay đang trên đà phục hồi lại được cái truyền thống đạo hạnh và nhân ái ngàn xưa của cha ông mình.
Và công cuộc phục hồi này, dù vẫn còn khó khăn phức tạp, thì vẫn rõ ràng đang là một quá trình không thể nào có thể đảo ngược lại được nữa vậy (an irreversible processus)
California, Tiết Trung Thu Ất Mão 2011
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012
Ðoàn Thanh Liêm - Một ít kỷ niệm với Bác sĩ Văn Văn Của
Đoàn Thanh Liêm
Đang là một Y sĩ trưởng của Sư Đoàn Dù, thì vào đầu năm 1965, bác sĩ Văn Văn Của được bổ nhiệm giữ chức vụ Đô trưởng thành phố Saigon. Hồi đó, tôi là một sĩ quan làm việc trong phòng pháp chế & tố tụng thuộc Bộ Quốc phòng, nên có điều kiện giúp các em sinh viên trong công tác từ thiện xã hội, đặc biệt là trong khuôn khổ của Chương trình Công tác Hè 1965. Do vậy, mà có vài ba lần tôi phải đến gặp vị Đô trưởng, để xin ông giúp đỡ sinh viên trong một số công tác từ thiện nhân đạo, cụ thể như khám bệnh phát thuốc cho bà con bệnh nhân tại các khóm hẻm ở vùng ngoại ô thành phố. Vì là một bác sĩ, nên ông Đô trưởng rất thông cảm và yểm trợ hết mình cho loại công tác y tế xã hội này của giới thanh thiếu niên ở Sài Gòn hồi đó. Lại có một sự trùng hợp may mắn khác nữa, đó là vị ân nhân vẫn hay cấp phát thuốc cho đoàn y tế chúng tôi chính là dược sĩ La Thành Nghệ, thì lúc đó lại được bàu làm Chủ tịch Hội Đồng Đô Thành. Cho nên, tại Tòa Đô chánh, chúng tôi được cả hai vị lãnh đạo về hành chánh và đại diện dân cử đều có thiện cảm với anh chị em chúng tôi.
Kịp đến khi Chương trình Phát triển Quận 8 được Phủ Thủ tướng chấp thuận, và trao cho Tòa Đô chánh và Bộ Thanh niên đứng ra bảo trợ, thì tôi được anh em trao phó cho nhiệm vụ đứng ra liên lạc với Tòa Đô chánh, để chuẩn bị sắp xếp cho việc khởi sự công tác tại địa phương này. Mà nhờ có sẵn sự tiếp súc quen biết trước với bác sĩ Của, nên công chuyện liên lạc này đã được tiến hành một cách êm thắm tốt đẹp. Hơn nữa, các anh em làm phụ tá chuyên môn cho bác sĩ Đô trưởng lại phần đông là chỗ quen biết của tôi, cụ thể như bác sĩ Bùi Thế Cầu, bác sĩ Nguyễn Đình Mão, giáo sư Lê Công Truyền, đốc sự Bùi Thế Cảnh…, nên bất cứ lúc nào mà tôi có việc phải tới Tòa Đô chánh, thì cũng đều được anh em đối xử thân tình, cởi mở như là với một nhân sự cơ hữu của cơ quan vậy.
Dĩ nhiên, Chương trình Quận 8 chúng tôi lúc đó là một thứ ngoại lệ, như là một “dự án thí điểm” (pilot project) của giới thanh niên tự nguyện đứng ra mà hợp tác với cơ quan chánh quyền, chứ đó không phải là một cơ sở hành chánh thuần túy, thuộc quyền điều động trực tiếp của nhà nước. Do đó mối liên hệ của Chương trình Phát triển với Bộ Thanh niên, cũng như với Tòa Đô chánh, là hai cơ quan bảo trợ, thì lúc đầu phải có tính cách mềm dẻo, tế nhị, chứ không thể cứng nhắc, cố định theo một khuôn mẫu nào đã có sẵn được.
Và chúng tôi thật có may mắn, vì được cả hai vị Bộ trưởng Thanh niên lúc đó là bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, cũng như bác sĩ Đô trưởng Văn Văn Của đều có sự thông cảm và yểm trợ tối đa cho việc làm thiện nguyện của giới trẻ trong Chương trình chúng tôi. Các vị coi chúng tôi là loại “con nhà lành” chỉ biết làm việc xã hội từ thiện, chứ không phải là thuộc nhóm “quá khích, chuyên môn xuống đường hoan hô, đả đảo thế này thế nọ” như vẫn thường thấy vào cái thời xáo trộn, bất ổn các năm 1964, 65, 66 lúc đó.
Qua nhiều năm tháng gần gũi sát cánh với bác sĩ Của ở Tòa Đô chánh, tôi nhận thấy rõ ràng ông là con người có tính tình thật là xuề xòa, đơn sơ, chân chất bình dị, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Nơi ông, tôi thấy có sự thông cảm nồng ấm và gắn bó thân tình với tất cả anh em binh sĩ, các cộng sự viên cũng như gia đình của họ. Khác với bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng và dược sĩ La Thành Nghệ là những người có dáng dấp thư sinh nho nhã, trắng trẻo, bác sĩ Của có nước da ngăm đen, luôn mặc quần áo nhà binh, nên coi vẻ lam lũ dày dạn sương nắng, và gần gũi với binh lính luôn bận rộn với các cuộc hành quân chiến đấu ngòai mặt trận nhiều hơn. Có thể nói ông có sự gắn bó sâu đậm với anh em đồng đội, vì tại binh chủng nhảy dù, ông luôn phải chứng kiến rõ ràng những sự tổn thất nặng nề về mạng sống, cũng như về thương tật của anh em binh sĩ, mà ông có trách nhiệm phải chăm sóc phần y tế cho họ. Bù lại, tôi cũng thấy các sĩ quan, binh sĩ, hạ sĩ quan thuộc quyền rất là quý mến và trung thành với ông, mà điển hình là Trung sĩ Trâm, người sau này bị sát hại vào năm 1968 tại trường Phước Đức ở Chợ lớn, trong lúc làm cận vệ cho ông. Tình cảm cao quý này vẫn được giới quân nhân đề cao là “tình huynh đệ chi binh”.
Ông làm việc miệt mài ngày đêm, thường xuyên ở văn phòng, coi như “cấm trại 100 %” vậy. Nhất là vào lúc xảy ra những cuộc xuống đường biểu tình chống chánh phủ, do nhóm “Phật giáo Miền Trung chủ xướng vào năm 1966”, thì Đô trưởng rất là vất vả, mệt nhọc đến độ thần kinh rất căng thẳng. Ít nhất là 2 lần, khi ngồi tại văn phòng Đô trưởng vào buổi chiều sau giờ làm việc, tôi đã phải đích thân chứng kiến, có lần thì ông bực bội quá sức chuyện gì đó, mà tháo cả chiếc giày đi trận “botte de saut”, đem ném thật mạnh vào cánh cửa ra vào, đến nỗi lảm bể hết cả tấm kính khiến mảnh vỡ bắn tung tóe ra hết sàn nhà. Lần khác, thì trong lúc tôi đang ngồi nói chuyện với ông, với sự có mặt của ông Tổng thư ký Đòan Văn Bích, bác sĩ lại bất mãn sao đó, mà rút khẩu súng lục ra bắn lóp bóp lên trần nhà liên hồi đến 4-5 phát, làm vỡ cả một bóng đèn néon. Cả ông Bích với tôi đều thất kinh luôn, vì sợ nhỡ bị đạn lạc mà trúng vào mình, thì thật là oan uổng. Chứng kiến mấy chuyện như vậy, và lại còn được nghe kể về chuyện ông bị rắc rối sao đó với toán Quân cảnh Mỹ vào một đêm khuya, tôi lại càng thông cảm và đâm lòng thương mến ông hơn.
Bác sĩ Nguyễn Đình Mão, Chánh sở Y tế Saigon có cho tôi biết là : “Nguy quá anh ơi, anh Của xài nhiều thuốc an thần lọai barbiturique, thì sẽ có hại lắm, vì một là nó làm giảm sút trí nhớ, hai là nếu mà xài lâu ngày sẽ thành ra nghiền, khó mà dứt bỏ đi được…”
Ông rất xông xáo, đi khắp hang cùng ngõ hẻm để thăm viếng dân chúng, nhất là các khu nhà “ổ chuột”, lầy lội chật hẹp ở miệt ngọai ô. Có lần, tôi dẫn ông đến thăm mấy khu phố bị ngập lụt ở Xóm Giá, ở Cầu Tre – Phú Lâm, thì ông xăm xăm lội ào ào vào chỗ ngập sâu đến sát đầu gối, khiến cho cả đòan tùy tùng cũng phải lội theo sau, mà tức cười là nhiều người lại mang giày dép, quần áo đi làm việc văn phòng, nên bất ngờ bị ướt như chuột lột cả lũ. Thấy việc của bọn chúng tôi ra sức phục vụ bà con nghèo túng ở địa phương như vậy, nên ông luôn tìm cách khôn khéo bênh đỡ cho chương trình phát triển, trước sự chỉ trích gắt gao, nặng nề của một số nghị viên đô thành, vốn không có sự thiện cảm nào với anh chị em chúng tôi. Nhờ có sự bênh đỡ đó, mà chúng tôi mới có thể tiếp tục theo đuổi công trình xây dựng trong cả ba quận 6, 7 và 8, cho đến khi được lệnh phải chấm dứt vào năm 1971. Mà vào lúc đó, thì bác sĩ Của đã rời khỏi chức vụ Đô trưởng từ 3 năm trước rồi.
Năm 1967, cơ quan USAID có tổ chức cho Tòa Đô chánh gửi một phái đòan trên 10 nhân viên đi Mỹ trong 3 tháng để quan sát, tìm hiểu vấn đề phát triển đô thị tại một số thành phố lớn tại đây, thì ông Đô trưởng cũng cho đến 3 người trong số anh em chúng tôi cùng đi chung với phái đòan, mặc dầu chúng tôi không phải là nhân viên cơ hữu của Tòa Đô chánh. Cũng trong năm đó, khi chánh phủ cho sát nhập mấy xã bên phía Thủ Thiêm để lập thành Quận 9 thuộc thành phố Saigon, thì bác sĩ Của bảo tôi rằng : “Tôi muốn cử anh giữ chức vụ Quận trưởng tại quận mới này, để anh lo giúp việc phát triển ở đây, như các anh đang làm ở bên quận 8. Ý kiến của anh Liêm ra sao?” Tôi một mực từ chối, viện lẽ ở Thủ Thiêm, vấn đề an ninh là quan trọng hơn, do đó thiết nghĩ nên bổ nhiệm một vị sĩ quan có kinh nghiệm nhiều về quân sự, thì thích hợp hơn. Nghe tôi nói vậy, ông gật gù tỏ vẻ đồng ý, và không hề ép buộc tôi phải đảm nhiệm công việc này.
Cũng trong năm 1967, vào lúc có cuộc vận động tranh cử vào Thượng Nghị Viện, thì có một số người rủ rê, lôi cuốn bác sĩ Của ra đứng đầu một liên danh để nạp đơn ứng cử. Vốn tính cả nể, ông đã nhận lời. Chuyện này mấy người bạn chúng tôi thấy phiêu lưu quá, nhưng chẳng một ai dám lên tiếng can ngăn với ông. Biết vậy, tôi phải tìm cách nói riêng với chị bác sĩ Hồng là bà xã của ông và cũng là người chị của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Tôi nói với chị Hồng : “Mấy anh em chúng tôi nghĩ chỉ có chị mới có đủ uy thế để can ngăn anh Của mà thôi. Vậy xin chị tìm cách thuyết phục anh ấy không nên vì tính hay vị nể, mà ngả theo sự lôi cuốn phiêu lưu chính trị như thế này…” Chị Hồng nói cũng đồng ý với tôi như vậy, cho nên rút cục là bác sĩ Của đã từ bỏ ý định ra ứng cử Thượng Nghị Viện năm 1967 đó. Và chúng tôi đã thở phào nhẹ nhõm.
Dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968, ông thật vất vả, mệt nhọc với việc phải đối phó triền miên trước các cuộc tấn công của bộ đội cộng sản, xâm nhập từ phía Long An, Rạch Kiến vào các quận 6, 7, 8 nơi chương trình chúng tôi họat động. Ông bơ phờ, hốc hác cả người, trông thật tội nghiệp. Mà rồi chính ông lại bị trọng thương trong vụ máy bay trực thăng Mỹ bắn lầm vào nơi đóng quân của Bộ Chỉ huy an ninh thành phố, làm thiệt mạng bao nhiêu sĩ quan cao cấp khác nữa, trong số này có cả Trung tá Nguyễn Bảo Thùy là em của Tướng Nguyễn Bảo Trị. Và sau thời gian chữa bệnh, ông được cho giải ngũ và được cử đi Mỹ để học chuyên về ngành Y tế công cộng (Public Health).
Năm 1974, sau khi tốt nghiệp với văn bằng Ph D, ông trở về nước. Và rồi ông được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện Y tế Công cộng có trụ sở trong Khu Lò Heo Chánh Hưng cũ, phía bên kia Cầu chữ Y thuộc quận 8. Có lần ông rủ tôi với mấy bạn trẻ sinh viên đến nhà riêng, để ăn bữa cơm với gia đình ông.
Đây là lần đầu tiên tôi được mời ăn cơm tại nhà riêng của ông bà. Chứ hồi ông còn bận rộn với công việc ở Tòa Đô chánh, thì dù là một người rất gần gũi thân quen với ông, tôi chưa hề được ông dẫn về nhà chơi bao giờ. Mà hồi đó, ông cũng chẳng dọn gia đình đến cư ngụ trong tư thất khang trang dành riêng cho chức vụ Đô trưởng. (Tôi nhớ chỉ có một lần làm đám tang cho bà cụ thân sinh, thì bác sĩ Của mới cho sử dụng ngôi nhà đó trên đường Hai Bà Trưng, để bà con, các đòan thể cơ quan và công chúng đến viếng thăm linh cữu bà cụ và bày tỏ sự phân ưu với gia đình mà thôi).
Và sau đó không lâu, cũng trong năm 1974, tôi có dịp mời ông cùng với chị Jackie Bông đi thăm lại mấy quận do chương trình phát triển chúng tôi phụ trách xây dựng và tái thiết, đặc biệt sau Tết Mậu Thân. Bác sĩ Của đã tỏ vẻ thật vui mừng, khi thấy bà con ở vùng ven đô này đã xây dựng lại được những căn nhà khang trang, tươm tất từ khu vực bị tàn phá nặng nề năm xưa, giữa thời ông còn giữ chức vụ Đô trưởng Saigon.
Sau năm 1975, gia đình ông đi thóat được, mà riêng ông bị kẹt lại ở Saigon và phải đi tù cải tạo mãi tận ngòai Bắc mất mấy năm. Khi ông được thả về, chúng tôi đã có nhiều lần gặp lại nhau tại nhà ông Văn Văn Đây là bào đệ ở Gò Vấp Gia Định. Ông phải đi làm tại bệnh viện chuyên chữa về bệnh truyền nhiễm và được mở phòng mạch châm cứu tại nhà với rất đông bệnh nhân đến xin chữa trị. Bác sĩ Của tâm sự với tôi : “Bây giờ, tôi phải dùng lối châm cứu để chữa trị cho bệnh nhân, vì hầu hết họ không có tiền để mua thuốc uống cho hết bệnh. Thành ra cái khoa châm cứu theo lối đông y lại đắc dụng hơn là khoa tây y…”
Kể từ năm 1990 lúc tôi bị công an cộng sản bắt giữ, thì tôi không còn có thể liên lạc trực tiếp với ông, cũng như với gia đình. Tôi chỉ nghe có bạn nói là : Bác sĩ Của có một người con trai học rất giỏi ở Pháp, và đã có những công trình nghiên cứu khoa học được đánh giá là xuất sắc. Điều này thật đáng mừng, vì với người cha, người mẹ tài ba như thế, thì cháu phải được truyền thừa với cái “gene” quý báu rất mực như thế chứ.
Bác sĩ Văn Văn Của chẳng phải là một vĩ nhân kiệt xuất, cũng chẳng phải là một nhân vật chính trị ngoại giao lẫy lừng gì, mà cũng không phải là một nhà hành chánh tài ba lỗi lạc nữa. “Nhân vô thập toàn”, ông cũng mắc phải những sai lầm, khuyết điểm thường tình, như bất kỳ ai trong chúng ta vậy. Nhưng mà trong mấy năm giữ chức vụ Đô trưởng Saigon, giữa thời kỳ bất ổn rối lọan, tôi thấy ông đã hết sức tận tâm với công việc phục vụ người dân thành phố, điển hình là ông đã khích lệ và hỗ trợ rất nhiều cho chương trình phát triển cộng đồng của nhóm anh chị em thanh niên tự nguyện chúng tôi tại các quận 6, 7&8 Saigon. Và riêng đối với cá nhân mình, thì tôi luôn luôn có thiện cảm và có lòng quý mến sâu xa đối với bác sĩ Của.
Kể ra, thì tôi còn rất nhiều kỷ niệm vui có, buồn có chung với vị bác sĩ đã có thời làm Đô trưởng Saigon trong mấy năm, giữa thời chiến tranh xáo trộn với khói lửa tàn phá kinh hòang. Nhưng bài viết đến đây kể ra cũng đã dài rồi, nên tôi phải tạm ngừng lại ở đây. Và xin hẹn đến dịp khác thuận tiện hơn, tôi có thể viết thêm chi tiết cho đầy đủ hơn vậy.
Bạn đọc cần biết thêm nữa, thì có thể tìm đọc trong cuốn Hồi ký của bác sĩ Văn Văn Của viết với nhan đề là “Mộng Không Thành” xuất bản vào năm 2001-2002, ít lâu trước khi ông từ giã cõi đời này ở bên nước Pháp.
California Tháng Tám 2010
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2012
Đoàn Thanh Liêm - Câu chuyện Hội nhập của Bà con tại thành phố Melbourne
Đoàn Thanh Liêm -
(Australia 3)
Đây là bài thứ ba trong lọat bài ký sự về cuộc thăm viếng Úc châu vào cuối năm 2011 của tôi. Bài đầu tiên nhan đề “Một thóang Úc châu”, và bài thứ hai nhan đề “Tấm lòng của các bạn ở Sydney”, cả hai bài đều đã được phổ biến trên nhiều báo chí gần đây rồi.
Trong suốt hai tuần ở Melbourne là thành phố lớn thứ nhì của Úc châu, tôi đã có dịp gặp gỡ và sinh họat thân tình với trên 30 gia đình là bà con trong họ nội và ngọai của tôi. Phần đông các gia đình này đã định cư tại đây từ 30 năm, nên có thể nói họ đã hội nhập bắt rễ khá thành công vào trong dòng chính của xã hội nước Úc - nhất là thế hệ trẻ sinh trưởng tại Úc hay đến đây lúc còn rất nhỏ tuổi và theo học tại các trường học bản xứ ngay từ cấp mẫu giáo sơ cấp. Mà đặc biệt tính ra có đến cả ba thế hệ trong một gia đình vẫn còn sinh họat gắn bó với nhau, không khác gì với các gia đình ở Việt Nam hiện nay. Dưới đây, tôi xin lần lượt tường thuật về quá trình hội nhập mà vẫn giữ được bản sắc riêng biệt truyền thống dân tộc như thế - xuyên qua sinh họat trong các gia đình bà con thân tộc mà tôi đã có nhiều thời gian để tìm hiểu trong chuyến vãng gia mới nhất này.
*Trường hợp của gia đình bà Hân với ba thế hệ.
Bà Nguyễn Thị Hân là người em cô cậu với mẹ tôi; bà cụ Bá Khản thân mẫu của bà là em gái út của ông ngọai tôi là cụ Chánh Cẩm. Vì thế, anh chị em tôi phải kêu bà Hân là bà Dì, dù bà chỉ lớn hơn tôi có một tuổi thôi.
1 – Thế hệ thứ nhất.
Ngòai gia đình của bà Hân, thì còn có gia đình của cậu Chúc là người anh và gia đình của chú Khảo là người em, tất cả ba gia đình anh chị em này đều sinh họat gắn bó với nhau rất chặt chẽ và tổng cộng có đến cả trăm người là con, là cháu và là chắt cùng định cư xung quanh thành phố Melbourne. Chú Hân chồng của bà đã mất 12 năm nay rồi và ngay hôm tôi đến nhà bà, thì lại đúng là ngày Lễ Giỗ tưởng nhớ đến Ông - quy tụ rất đông con cháu về tham dự thánh lễ tại nhà do linh mục Nguyễn Xuân Trường thuộc Dòng Phanxicô là người con trai thứ đứng ra cử hành.
Nhà bà Hân ở tại thị trấn Reservoir cách trung tâm Melbourne chừng 10 km về hướng bắc, mà có rất nhiều xe chuyên chở công cộng như xe bus, xe tram và xe lửa phục vụ người dân di chuyển trong vùng phụ cận thành phố. Năm 2012, bà dì của tôi đã bước vào tuổi 80, nhưng vẫn còn khỏe mạnh tinh tường, mỗi buổi sáng bà lại đi bộ đến tham dự thánh lễ tại nhà thờ công giáo ở gần nhà nữa. Bà còn làm cả một số món ăn để phụ giúp với gia đình các con vì bận rộn phải đi làm, nên không có nhiều thời giờ để nấu nướng. Nhờ được thụ hưởng chế độ an sinh khá chu đáo dành cho người cao niên tại nước Úc, nên bà có cuộc sống tương đối ổn định, thanh thản.
Từ ngày ông mất, bà ở nhà một mình trong căn nhà 3 phòng tương đối gọn gàng tươm tất, với khu vườn phía trước và sau nhà. Tất cả các con của bà là em họ của tôi (second cousin) thì mỗi ngày thay nhau đến thăm hỏi và chăm sóc cho bà, vì hầu hết đều ở quây quần gần với nhà của bà. Vào những ngày cuối tuần, thì con cháu lại quy tụ đông đủ với nhau tại nhà bà để dùng bữa cơm gia đình chung với nhau. Vì thế cảnh sinh họat của cả ba thế hệ trong đại gia đình này – như tôi được chứng kiến trong nhiều ngày cư ngụ tại nhà bà – thì rõ ràng thật là gắn bó, thân mật và ấm cúng.
Theo lời bà dặn, tôi đã đem từ California tài liệu về gia phả của họ Tống bên ngọai của bà cũng như của tôi ở làng Cát Xuyên – Xuân Trường – Nam Định. Bà dì Hân và các em con bà đã rất vui mừng và tự hào khi đọc được trong tài liệu gia phả này ghi rằng: “Ông cụ tổ 5 đời trước xuất thân từ đất Thanh Hóa và vì là một vị tướng lãnh của quân đội Tây Sơn, nên dưới triều Gia Long Nhà Nguyễn ông cụ đã phải đổi tên tuổi và đến lập nghiệp tại miền đất Cát xuyên lúc đó còn hoang vu thưa thớt dân cư. Để tránh bị dòm ngó nghi kỵ, cụ tổ này đã không để lại bất kỳ tên tuổi hay giấy tờ gì, kể cả ngôi mộ cũng chỉ gọi là Mả Tổ - chứ không hề ghi danh tánh nào của cụ.” Khám phá này lại càng làm tăng thêm sự gắn bó trong đại gia đình chúng tôi - với niềm tự hào chung về nguồn gốc tổ tiên họ ngọai của mình.
Về phần ông Chúc và ông Khảo là người anh và em của bà Hân, thì cả hai ông đều là cựu sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Và sau khi bị đi tù cải tạo mất mấy năm trở về, các ông đã vượt biên sang Úc châu rất sớm. Và kể từ ngày định cư ở Úc, thì các ông đều được hưởng quy chế đãi ngộ rất bảo đảm dành cho các cựu chiến binh đồng minh của nước Úc. Vì thế mà ông Khảo, nhờ có sức khỏe và tháo vát hơn, nên đã tích cực tham gia vào việc bảo trợ và giúp đỡ cho nhiều bà con người Việt mới đến định cư những năm sau này.
Nói chung, thì các vị trong thế hệ thứ nhất như bà Hân, ông Chúc, ông Khảo khi qua định cư ở Úc châu, thì đã ở vào cái tuổi trên 50 rồi, không còn phải bươn chải vật lộn gì lắm với chuyện cơm áo gạo tiền nữa. Nhưng các vị này lại ra sức duy trì được sự gắn bó bền vững trong mối sinh họat của tòan thể đại gia đình sinh sống trong khu vực xung quanh thành phố Melbourne là thủ phủ của tiểu bang Victoria. Nhờ đó mà các thế hệ thứ hai, thứ ba của lớp con cháu - tuy rất thành công trong sự hội nhập với dòng chính của xã hội Úc – thì vẫn còn giữ được bản sắc tốt đẹp của truyền thống đạo đức văn hóa ngàn xưa của dân tộc Việt Nam chúng ta - như sẽ được trình bày chi tiết cụ thể hơn trong các đọan tiếp theo dưới đây.
2 – Thế hệ thứ hai.
Thế hệ thứ hai về bên họ ngọai của tôi là lớp con của bà Hân, ông Chúc, ông Khảo thì tất cả có đến trên 20 người, mà nếu tính cả con dâu, con rể nữa – thì có thể lên tới trên 40 người. Về phía họ bên nội của tôi, thì cũng có đến 10 người cháu là con của chú Tống Văn Lạc em họ của tôi, nên các cháu kêu tôi là bác. Các cháu đều trưởng thành và hầu hết đều có gia đình riêng biệt. Thành ra tổng số người thuộc thế hệ thứ hai định cư tại Úc mà thuộc cả họ nội và ngọai – thì đã có đến cỡ 60 rồi. Ngọai trừ một vài con dâu, con rể là người có nguồn gốc ngọai quốc, còn đại đa số đều sinh trưởng ở Việt Nam, nhưng khi tới định cư ở Úc châu, thì phần đông mới ở vào lứa tuổi 15 – 20, nên đã có thể thích nghi khá thành công với xã hội địa phương.
Nói chung, thì các em cháu này đều có được công ăn việc làm ổn định, sắm được nhà ở riêng và lại có con thuộc thế hệ thứ ba cũng còn thành công hơn cả cha mẹ nữa. Để cho ngắn gọn, tôi chỉ xin ghi ra một số trường hợp điển hình tiêu biểu nhất cho thế hệ thứ hai này.
A / Chú Đức là con của ông Chúc, và là cháu của bà Hân. Năm nay ở vào tuổi 54 - 55, chú là một chuyên viên quản lý kỳ cựu cho hãng Toyota của Nhật và được kể là người rất thành công về mặt chuyên môn cũng như tài chánh. Căn nhà do chú tổ chức xây cất lấy coi thật bề thế, ngăn nắp và tươm tất. Nhưng bà con đều quý mến chú Đức ở cái nết hiếu thảo vì tận tình lo lắng cho người cha già yếu với chứng bệnh Parkinson đã nhiều năm nay. Chú cũng còn bận rộn chăm sóc chu đáo cả cho người con bị bệnh ngặt nghèo nữa. Trường hợp của gia đình chú Đức, thì rõ ràng là ở trong tình trạng “thuyền to sóng lớn” – tuy rất thành công về mặt công việc chuyên môn, mà lại thật vất vả chật vật với gánh nặng trong gia đình như vậy. Nhưng người anh cả trong dòng họ này vẫn bền bỉ kiên trì nêu tấm gương sáng cho các em trong đại gia đình ở thế hệ thứ hai định cư tại Melbourne cùng noi theo.
B / Gia đình của Oanh & Phước. Cô Oanh là trưởng nữ của bà Hân. Trước năm 1975, Oanh theo học tại trường Luật Saigon và sau này kết duyên với người bạn học là chú Phước quê quán tại Cần Giuộc. Khi qua định cư ở Úc, thì gia đình cô chú đã có 3 đứa con đều còn nhỏ tuổi, vì thế mà cả hai người đều phải đi làm ở Sở Bưu điện. Nhưng là người có chí tiến thủ, nên Phước nhận làm ca đêm, để có thể đi học thêm vào ban ngày. Và sau ít năm Phước đã thi đậu thành luật sư và hiện đang điều hành một văn phòng chuyên về luật pháp tại một thị trấn cũng gần nhà. Con trai là cháu Trần Minh Tùng lúc qua Úc chưa đầy hai tuổi, mà nay cũng đã là một luật sư làm việc cho một văn phòng của giới luật sư bản xứ ở trung tâm Melbourne nữa. Căn nhà của Oanh & Phước khá rộng với khu vườn phía sau lớn cỡ cả ngàn mét vuông - với cây cối xanh um và nhiều lọai bonsai với cả phong lan và đặc biệt có rất nhiều chim chóc bay đến kiếm mồi ăn và sáng sớm cất tiếng hót thật huyên náo sinh động. Hai cô chú đều tham gia đóng góp cho Giải Nhân Quyền Việt nam năm 2011, mà lại có cả một bà là thân chủ của văn phòng luật sư Phước cũng góp vào số tiền này thêm mấy chục Úc kim nữa. Phước và tôi rất tâm đắc với nhau về chuyện chính trị và pháp lý, vì giữa chúng tôi ngòai tình anh em họ hàng thân thiết lại còn là đồng nghiệp với nhau.
C / Linh mục Nguyễn Xuân Trường là con trai thứ của ông bà Hân, năm nay cỡ gần tuổi 50, thuộc dòng Phanxicô cùng với vị Giám mục Nguyễn Văn Long. Chú học mấy năm đại học ở Úc, rồi mới đi tu và đã thụ phong linh mục được trên 15 năm rồi. Cô Oanh là chị cả có thuật lại cho tôi nghe câu chuyện thật ngộ nghĩnh như sau: “Tội nghiệp cho em Trường, hồi mới làm linh mục mỗi lần về thăm nhà thì cứ bị bố em nghiêm khắc cảnh giác nhắc nhở cho là không được hách xì xằng với con chiên bổn đạo thế này, thế nọ. Vì sợ ông cụ, nên em cứ thin thít, không dám nói năng đối đáp gì với bố cả. Thấy vậy em phải tìm cách can gián ông cụ rằng : Truờng nó đâu đã làm điều gì sai trái để mà bố đe nạt em nó như thế? Ông cụ mới nói với em là : Bố phải nhắc nhở trước như vậy, vì mấy cha cố thường hay bị sa ngã vào cái bệnh kiêu ngạo lên mặt ta đây lắm…” Hiện linh mục Trường đang giữ chức Giám tỉnh của nhà dòng tại thị trấn Springvale cách xa Melbourne chừng trên 100 cây số, nên thường về thăm mẹ mỗi tuần. Chú sinh họat hồn nhiên thân thiết với anh chị em và các cháu trong gia đình và tôi đặc biệt cảm kích vì tấm lòng hiếu thảo của chú đối với bà mẹ của mình, và chú cũng không hề tỏ ra xa cách với bất kỳ một ai trong dòng họ. Chắc chắn rằng lời cảnh giác của ông bố khi cụ còn sinh tiền vẫn còn âm hưởng mạnh mẽ trong tâm khảm của vị linh mục trẻ tuổi này vậy.
D /Cô chú Khảo đều là những người nhiệt thành trong các họat động xã hội và tôn giáo, nên mấy con của cô chú cũng noi theo và tham gia tích cực trong sinh họat cộng đồng ở địa phương, thêm vào với sự thành công về nghề nghiệp chuyên môn. Điển hình như em Phượng thì rất hăng say với công tác của phong trào học hội Công giáo Cursillo tại Úc châu.Trong gia đình này, còn có em Hùng là một chuyên viên rất thành công trong ngành ngân hàng và từ mấy năm nay Hùng đã được cử về Việt Nam để điều hành một cơ sở tài chánh tại Hà Nội.
3 – Thế hệ thứ ba.
Phần đông các cháu thuộc thế hệ thứ ba thì đều sinh trưởng tại Úc, số ít thì qua đây lúc còn rất nhỏ tuổi. Do đó mà các cháu được thụ hưởng một nền giáo dục về khoa học kỹ thuật rất tiến bộ, nhờ đó mà có thể sánh vai sát cánh nhịp nhàng với các bạn người bản xứ cùng lứa tuổi và hội nhập dễ dàng êm thắm với dòng chính của xã hội Úc châu. Điển hình như cháu Vân con gái của vợ chồng Oanh & Phước, thì hiện đang điều khiển một trung tâm dậy kèm (tutoring) và luyện thi cho các học sinh cấp tiểu học và trung học ở thị trấn Saint Alban với trên 400 học sinh. Cháu Vân và chồng là Mike người Úc gốc Scotland đều có niềm say mê với nghề dậy học, nên trung tâm này rất thành công trong việc dậy bổ túc cho các học sinh yếu kém - vì thuộc các gia đình mới nhập cư mà cha mẹ không có khả năng và kinh nghiệm để hướng dẫn chu đáo về chuyện học tập của con cái. Sau nhiều năm kiên trì tận tâm với giới học sinh kém may mắn này, đến nay trung tâm dậy kèm này đã gây được uy tín và sự tin tưởng của giới phụ huynh trong vùng.
Em trai của Vân là Tùng, thì cũng là một luật sư trẻ tuổi với nhiều triển vọng tại Melbourne như đã ghi ở trên.
Còn lớp trẻ tuổi hơn, thì phần đông đều học rất giỏi, nên đã được nhận vào học tại các trường học danh tiếng ở Úc châu. Có cháu lại còn được cấp học bổng hay được cho đi học mãi bên nước Mỹ hay Âu châu, đặc biệt là bên Anh quốc nữa.
Sự thành công của thế hệ thứ ba này thiết nghĩ cũng dễ hiểu, bởi lẽ cha mẹ và cả ông bà của các cháu đã hết lòng hy sinh chăm lo thật chu đáo cho lũ con cháu có điều kiện học hành đến nơi đến chốn – như đã được ghi chi tiết ở hai mục trên đây.
Bài viết đến đây đã khá dài rồi, tôi chỉ xin tóm lược lại là : Những thành công của thế hệ thứ hai và thứ ba - như tôi được chứng kiến nơi các gia đình bà con ở Melbourne – thì đều bắt nguồn nơi tinh thần đạo hạnh kiên trì và tính nhẫn nại cần mẫn của thế hệ thứ nhất gồm những con người lương hảo với quyết tâm xây dựng tương lai cho con, cho cháu tại vùng đất mới là lục địa nước Úc - với nhiều cơ hội thuận lợi tốt đẹp được mở rộng cho tất cả những người di dân từ khắp nơi trên thế giới đến quy tụ tại nơi đây vốn được coi như là một thứ “miền đất lành chim đậu”.
California, tháng Hai năm 2012
Đoàn Thanh Liêm
Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012
Câu chuyện Vận động Thành lập Trung học Cộng đồng Quận 8 Năm 1965 - 66
Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm
![]() |
Thầy giáo và học trò tại trường trung học Cộng đồng Quận 8, sau đổi thành trung học Lương Văn Can. (Hình: manhhai) |
Vào giữa tháng 8 năm 1965, Chương trình Phát triển Quận 8 khởi sự hoạt động. Đó là một chương trình phát triển cộng đồng do một số anh chị em thanh niên chúng tôi tự nguyện đến sát cánh với bà con ở địa phương, trong ý hướng góp phần cải thiện đời sống của người dân về các mặt xã hội, y tế, giáo dục và văn hóa. Chương trình được sự chấp thuận của chánh phủ và do Bộ Thanh niên và Tòa Đô chánh Saigon bảo trợ.
Hồi đó đang có nạn thiếu cơ sở phòng ốc, nên các học sinh trường tiểu học ở Saigon nhiều nơi phải học thành 3 ca, mà ca buổi trưa từ 11.00 đến 14.00 giờ thì rất nóng bức, gây vất vả mệt nhọc cho cả thầy lẫn trò.Vì thế, công tác đầu tiên của chương trình chúng tôi là phải xây dựng ngay được một ngôi nhà 5 phòng học, giúp cho trường tiểu học Hưng Phú có thể giải tỏa các lớp học ban trưa. Việc này đã gây thêm phấn khởi hào hứng cho bà con phụ huynh học sinh, cũng như các thầy cô giáo.
Nhưng thời đó thì trong toàn quận 8 với dân số cỡ 150,000 dân, lại không có được một trường trung học công lập nào cả. Và các vị hiệu trưởng các trường tiểu học trong quận, thì đều than phiền là : Trong số học sinh ở quận 8 mà đi thi vào các lớp đệ thất ở trường Petrus Ký, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi ở bên phía Saigon-Chợ lớn, thì số được chấm đậu rất là ít. Do vậy, mà nhiều em đã phải bỏ học. Thật là điều đáng lo ngại cho các phụ huynh.
Sau nhiều lần tìm hiểu và thảo luận với các thân hào nhân sĩ, các thầy cô giáo cũng như các phụ huynh trong quận, chương trình phát triển đã thành lập được một tổ chức với danh xưng khiêm tốn là : “ Ban Vận động Thành lập Trường Trung học Quận 8”. Ban đầu, chúng tôi chưa hình dung được là đó sẽ là một trường công lập, bán công hay tư thục theo quy chế hiện hành của bộ giáo dục vào thời đó. Phải sau một thời gian tìm hiểu, nghe ngóng và cân nhắc, Ban Vận động mới đi tới được một quyết định là : “ Trường Trung học này sẽ là một trường công lập”, để cho các học sinh trong quận được “ đi học miễn phí, khỏi phải đóng tiền”. Khốn nỗi là khi tiếp xúc với các viên chức của bộ Giáo dục, thì chúng tôi được trả lời rằng : Bộ chưa có dự trù ngân sách cho việc xây cất ngôi trường nào ở trong phạm vi cả thành phố Saigon. Vả nữa, thủ tục ngân sách cũng rất phức tạp, bộ Giáo dục phải có sự thỏa hiệp của Nha Ngân sách thuộc Bộ Tài chánh để mà có được ngân khoản cần thiết, và sau đó thì mới có thể tiến hành việc xây cất trường học qua thủ tục đấu thầu như thường lệ. Đó là vấn đề khúc mắc, mà Bộ không thể tự mình vượt qua được. Bộ Giáo dục chỉ có thẩm quyền cử nhân viên giáo chức, do chính bộ quản lý để gửi họ về dậy học ở các trường mà thôi.
Tưởng cũng nên nhắc lại là hồi đó có sự phân công giữa bộ Giáo dục và địa phương các tỉnh, thành phố như sau : Các tỉnh và thành phố quản lý mọi mặt về các trường cấp tiểu học. Còn cấp trung học thì do Bộ trực tiếp quản lý cho mọi đơn vị trên toàn miền Nam. Như vậy là chúng tôi cứ phải liên hệ trực tiếp với các nha sở của bộ Giáo dục, để mà xúc tiến việc thành lập ngôi trường trung học công lập đầu tiên cho quận.
Và lần hồi ban Vận động đã đề ra được một sách lược “thỏa hiệp với bộ Giáo dục” như sau : “ Địa phương quận 8 sẽ phụ trách hoàn toàn vấn đề xây cất cơ sở trường ốc và trang bị bàn ghế dụng cụ cho các lớp học, bộ không còn phải bận tâm về chuyện cơ sở vật chất nữa. Do đó bộ Giáo dục chỉ có trách nhiệm cung ứng cho đủ số giáo chức cần thiết cho việc giảng dậy tại trường mà thôi…” Như vậy trách nhiệm của Ban Vận động rất là nặng nhọc, để lo kiếm địa điểm tọa lạc, vật liệu và kỹ thuật xây cất cho trường, cũng như là trang bị đày đủ bàn ghế cho các phòng học.
Nhờ Chương trình Phát triển Quận 8 lúc đó lại đang thực hiện nhiều dự án chỉnh trang tái thiết, nên mới có thể sắp xếp cho có được khu đất đủ rộng rãi dành cho ngôi trường. Và vật liệu xây cất cũng như kỹ thuật thì cũng do Chương trình này cung ứng tương đối đày đủ. Như vậy, ban Vận động cũng đỡ được mối lo phải đi chạy vạy xin các nhà hảo tâm giúp đỡ về mặt tài chánh, vật chất.
Học sinh không phải đóng học phí, vì đây là trường công lập. Nhưng phụ huynh phải đóng góp dưới hình thức “lệ phí”, mà mỗi tháng chỉ phải góp đồng hạng chung cho mọi lớp với số tiền rất thấp, bình quân là 100$00. (So với học phí ở các trường tư lúc đó vào năm 1966 cũng cỡ 300-800$00 mỗi tháng, tùy theo lớp). Số tiền lệ phí này do Ban Điều hành cùng với Ban Đại diện phụ huynh quản lý việc chi tiêu, chứ không phải đem nộp cho bộ Giáo dục. Như vậy nhà trường có chút ngân quỹ dành cho việc bảo trì dụng cụ, bàn ghế và chi phí linh tinh. Do vậy mà nhà trường có được sự tự trị về tài chánh, không phải lệ thuộc vào một nguồn tài trợ nào khác. Và đó là lý do để trường này có danh xưng là : “Trung học Cộng đồng Quận 8”. Đây là loại trường ” Trung học Cộng đồng” đầu tiên tại miền Nam thời đó.
* * *
Về thành phần nhân sự đã tham gia trong “chiến dịch vận động” cho việc thành hình ngôi trường trung học đầu tiên của quận 8 này, thì có rất đông đảo thân hào nhân sĩ, các giáo chức, các vị phường trưởng, khóm trưởng, các phụ huynh học sinh trong toàn quận. Mà nay sau trên 40 năm, phần lớn các nhân vật này đã lìa trần rồi. Hơn nữa, sổ sách hồ sơ liên quan đến nội vụ cũng đã bị thất lạc hết. Do vậy mà người viết không thể liệt kê đầy đủ chi tiết về danh tánh từng nhân vật trong bài viết này được. Mà chỉ có thể ghi nhận rằng : Gần như tuyệt đại đa số các phụ huynh, các thầy cô giáo, các chức sắc lãnh đạo tôn giáo, các nhân viên chánh quyền cấp địa phương đều tham gia vào việc vận động này, mỗi người đóng góp tùy theo khả năng của mình. Do tính cách “quần chúng nhân dân như vậy”, mà bộ Giáo dục mới có sự thông cảm tín nhiệm và dành mọi sự dễ dãi cho công cuộc thiết lập ngôi trường được thành công viên mãn.
Dĩ nhiên là chương trình phát triển quận 8 là đơn vị chủ chốt trong việc phát động chiến dịch vận động này. Nhưng cũng cần phải ghi nhận công lao của vị lãnh đạo Tòa Đô chánh Saigon hồi đó là Bác sĩ Văn Văn Của Đô trưởng, và của vị Bộ trưởng Bộ Thanh niên là Kỹ sư Võ Long Triều. Đó là hai vị đã nhiệt tâm kêu gọi giới lãnh đạo Bộ Giáo dục đồng ý chấp thuận cho ngôi trường được thành lập. Và nhất định là phải ghi rõ công lao của vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục là Giáo sư Nguyễn Văn Trường và của vị Đổng lý Văn phòng là Giáo sư Lý Chánh Trung. Đó là hai vị đã ra quyết định tối hậu chấp thuận cho thành lập Trung học Cộng đồng Quận 8 và cho bắt đầu khai giảng năm học đầu tiên ngay vào tháng 10 năm 1966.
Trên đây là mấy nét chính yếu, mà bản thân người viết vẫn còn nhớ được, và xin ghi lại như là một hồi tưởng cá nhân của một người đã từng có duyên tham gia trong công cuộc vận động này. Về các chi tiết khác, xin để dành cho quý vị nguyên ở trong Ban Quản lý Chương trình Phát Triển Quận 8, cũng như một số phụ huynh, giáo chức và thân hào nhân sĩ khác tại địa phương cùng nhau bổ túc thêm cho thật hoàn chỉnh. Đây quả là một kỷ niệm đẹp của cả một tập thể những người đã có chung một sự quan tâm đối với tương lai của thế hệ trẻ thân yêu tại quận 8, cách nay đã trên 40 năm rồi
California, Tháng 11 Năm 2009
Đoàn Thanh Liêm
Nguyên Phụ tá Quản lý
Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon (1965-66)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)