Hiển thị các bài đăng có nhãn Huỳnh Nhật Tấn.Thời sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Huỳnh Nhật Tấn.Thời sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012
Phạm Hồng Sơn - Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn –Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài
Phạm
Hồng Sơn thực hiện
Ông
Huỳnh Nhật Hải (phải) và ông Huỳnh Nhật Tấn (trái)
pro&contra: Hai
anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật
Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã
cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)
đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm
kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền
lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt
kiêm Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và
Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh
ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn).
Điều gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm
năng của một gia đình có truyền thống cách mạng từ
trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng
khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước”đã thành công hoàn toàn?
___________________
Phạm
Hồng Sơn: Hai
ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến
với ĐCSVN?
Huỳnh
Nhật Hải:
Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ”
từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ,
và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách
mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng
miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ
tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ
Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba tôi là hội
viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà
Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật
của Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi lúc đó của
ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra
Bắc sau năm 1954.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã
được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của
cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó
là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự
do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy
lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả
thời gian sau đó khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp
định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật
cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình
tư sản.
Phạm
Hồng Sơn: Hai
ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia
đình không?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có
tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng
gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng
rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những
cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì hai
anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm
phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy
sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là
quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho
dân tộc.
Huỳnh
Nhật Hải:
Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt
trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền
Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng
tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc.
Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm
lăng và cần phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ
tại miền Nam.
Phạm
Hồng Sơn: Thời
gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới
năm 1975 các ông làm những việc gì để ủng hộ “cách
mạng”?
Huỳnh
Nhật Hải:
Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có hai
giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy
núi”, tức là phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ
trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi” vào
đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật
Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công tác
liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh
viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức,
đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu
đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh
Nhật Hải:
Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một
nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên
học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào
những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính
quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban đêm thuộc về
lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp
nhận hay vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần
cho Mặt trận.
Phạm
Hồng Sơn: Những
công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức
khó khăn?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn khéo trong
công tác vận động và không phải lần vận động nào
cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục
kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội của
Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương
nhẹ trong một, hai lần.
Phạm
Hồng Sơn: Sau
30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch
UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?
Huỳnh
Nhật Hải:
Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác
ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính
quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm
Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi
học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm
1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà
Lạt, là Thành ủy viên.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy
núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số cán
bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn
Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm rồi trở
về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng
tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại
Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm nữa, đến năm
1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường
Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào
cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.
Phạm
Hồng Sơn: Một
cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng
thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi
có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo
đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như
Đảng thường nói.”
Huỳnh
Nhật Hải:
Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài
tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ
để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của Đảng
nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng giống như
ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm
Hồng Sơn: Quá
trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh
Nhật Hải:
Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông
qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn
trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em
chúng tôi.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là
dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên
thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm
Hồng Sơn: Những
“thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận
thức lại ĐCSVN?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều
hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân
chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội,
ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy
tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ
thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch
thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”,
thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên
pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế
thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục
và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà
Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải
sản xuất bao nhiêu mì[i] mà
không cần biết khả năng và lợi thế về thổ
nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc
giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn,
kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự
gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của
người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại
tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt
Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975,
chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền
đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người
đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác
biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng
sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi
hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan
điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo
chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn
bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng
của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn
nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc
tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng
những quyền căn bản của người dân.
Phạm
Hồng Sơn: Các
ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay
ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó
chưa?
Huỳnh
Nhật Hải:
Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh
thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi”
nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay
bàn luận gì với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi
quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta đi
làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà
nước chuyên chính độc tài như thế này.”
Phạm
Hồng Sơn: Gia
đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các
ông có phản ứng gì trước quyết định đó?
Huỳnh
Nhật Hải:
Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng tôi tin
rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã
ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ
hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm
Hồng Sơn: Thế
còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và
những đồng chí thân quen của hai ông?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không có ý kiến
gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý. Còn
những đảng viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo
lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả mọi
người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc
đó đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất
khó khăn, nhưng tôi xác định trong lòng là trước đây
khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ
nào bây giờ lại không.
Phạm
Hồng Sơn: Khi
“trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng,
hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh có vấn
vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả
ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm
Hồng Sơn: Các
ông thấy thế nào?
Huỳnh
Nhật Hải:
Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận
thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói
là cuộc sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của
giới trí thức sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn
toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền Bắc
sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà
ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền
lực.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ
Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi
ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy mục tiêu của
ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính, còn mục tiêu
độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc,
cho xã hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai
mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để
ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức
cho mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính
quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã biểu hiện đi
ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc
lập cho dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm
Hồng Sơn: Vâng,
về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ,
nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát
khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại
để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và
thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự
đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì
không thể có tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với
răng” và cũng không thể có Công
hàm 1958 của
ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói
ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi
cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối
với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm
Hồng Sơn: Liệu
có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất
chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước hiện nay
không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một
lãnh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ
chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn
bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế
tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu
hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh
là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện
“Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc
sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN cũng như
thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh
Nhật Hải:
Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất
rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy
vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải
ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học tập tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm
Hồng Sơn: Nhưng
nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh
Nhật Hải:
Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào
lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra.
Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như
thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện
nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và
thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông
Hồ Chí Minh.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người
Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra,
với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ
Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hãm hại
ân nhân của mình như vụ
xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và
nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những
vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của
ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh
không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí
Minh thực sự là người vì nước vì dân thì sau khi lên
nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm
là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự
do hơn thời thực dân Pháp chớ.
Phạm
Hồng Sơn: Nếu
được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông
có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh
Nhật Hải:
Không, không bao giờ.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ
và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể
chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo
tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề
dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được
tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc
lập bền vững.
Phạm
Hồng Sơn: Ngày
30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt
từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh
Nhật Hải:
Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975.
Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp
lại má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và
đã đưa ảnh tôi lên bàn thờ.
Phạm
Hồng Sơn: Dịp
30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của
cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những
ngày này?
Huỳnh
Nhật Hải:
Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai
miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh,
đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh
Nhật Tấn:
Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem
lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân,
đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm
Hồng Sơn: Nếu
bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu
viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người
đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều
trước tiên hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh
Nhật Tấn:
Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt
huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc
tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện
nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự
do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã
vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách
mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ
một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản
về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh
Nhật Hải:
Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước
1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó
của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc
cho dân tộc.
Phạm
Hồng Sơn: Xin
trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật
Tấn.
______________________
©
2012 pro&contra
[i] “Mì”
tức là “sắn” theo tiếng miền Bắc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)