Huỳnh Hữu Ủy
Ngày 30 tháng 6 năm 1925, cụ Phan
Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở Thượng Hải,
đưa về Hải Phòng bằng đường thủy, trên tàu Angkor
của hãng Messageries Marimes, rồi đưa ra xét xử trước
phiên tòa Đề hình công khai ngày 23-11-1925 ở Hà Nội.
Phiên tòa định y án tử hình theo các bản án tử hình
khiếm diện trước đây (1), rồi giảm xuống chung thân
khổ sai.
Vụ
Án Phan Bội Châu
Trước phiên tòa ngày 23 tháng 11
năm 1925, ông già phiến loạn Phan Bội Châu đã tuyên bố:
“Thành thực mà nói, tôi tự
nhận đã có âm mưu chống lại vua của tôi nhằm lật đổ
chế độ quân chủ, tạo nên một nước Việt Nam Cộng
hòa. Tôi cũng tự nhận đã có nhiều nỗ lực, bằng lời
nói và cây bút, để thức tỉnh đồng bào tôi một tấm
lòng yêu nước mà từ trước chưa có, đã phê phán chính
phủ bảo hộ trong bước đầu của giai đoạn lưu đày
và trách cứ họ để cho nước Nam ngập ngụa trong vòng
ngu tối; tôi cũng tự nhận quá nghiêm khắc đối với
quan trường và trách cứ họ về những sự nhũng lạm
thái quá. Nếu như các ông thấy rằng những hành động
của tôi xứng đáng phải tội chết, thì hãy lấy đầu
tôi đi, tôi sẽ sẵn lòng rơi đầu cho các ông bởi đã
từ lâu tôi đã tự hiến thân mình phục vụ cho lý tưởng
của mình. Tôi đã hăng say tranh đấu vì hạnh phúc của
tổ quốc tôi, của dân tộc tôi, song chưa hề một phút
nào đi chệch khỏi phẩm chất của tôi.” (2)
Lời phát biểu của cụ Phan cùng
với lời biện hộ hùng hồn đầy rung động của hai
luật sư Larre và Bona đã biến phiên tòa kết án cụ Phan
thành phiên tòa xét xử chế độ thực dân.
Những cuộc vận động đòi ân
xá cho cụ Phan lan rộng khắp nơi, từ trong nước ra đến
ngoài nước. Biểu tình tuần hành, trường học bãi công,
truyền đơn, điện tín đòi phóng thích cụ Phan tung ra
khắp mọi nẻo đường, đặc biệt nhất là ở Hà Nội,
Hải Phòng và Huế. Một hình ảnh rất cảm động là các
bà cao tuổi tập trung đông nghẹt nơi đoàn xe chở toàn
quyền đi qua và họ đồng loạt quì xuống xin ân xá cho
cụ Phan.
Ở nước ngoài, chúng ta có thể
nhớ lại trường hợp vận động điển hình của cụ
Nguyễn Thế Truyền, chủ bút báo Le Paria ở Paris.
Với sự hỗ trợ của Hội Liên Hiệp Thuộc Địa (Union
Intercoloniale), Nguyễn Thế Truyền đã viết một kiến
nghị phản đối việc bắt giữ cụ Phan với các lý lẽ:
Pháp bắt cụ Phan bất chấp luật lệ quốc tế, vi phạm
chủ quyền Trung Quốc vì bắt cụ Phan trong lãnh thổ
Trung Quốc, lại không xin Trung Quốc dẫn độ (Extradition)
cụ Phan. Bản kiến nghị của Nguyễn Thế Truyền viết
được in thành 4.000 bản, tung ra rộng rãi khắp nơi, đặc
biệt gửi đến Hội Quốc Liên (Sosiété des Nations), Tòa
án quốc tế La Haye, Hạ viện Pháp, Thượng viện Pháp,
Tổng Thống Pháp, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp,
Toàn quyền Đông Dương, gửi cho nhiều báo chí Pháp và
gửi về phổ biến trong nước. Khi được tin cụ Phan bị
kết án chung thân khổ sai, Nguyễn Thế Truyền kêu gọi
một cuộc hội họp rộng lớn của kiều bào Việt Nam ở
trụ sở Hội Bác Học (Salle des Sociétés Savantes) ở Paris
ngày 3-12-1925 để phản đối việc kết án, rồi sau đó
đã gửi điện văn phản đối cho toàn quyền Varenne (3).
Áp lực rộng lớn của những
cuộc vận động đòi ân xá cho cụ Phan đã đánh trúng
vào yếu huyệt của Pháp, chủ nghĩa yêu nước đã đạt
được thắng lợi lớn, Toàn quyền Alexandre Varenne phải
phóng thích cụ Phan. Varenne đề nghị cụ giữ chức
Thượng Thư Bộ Học hoặc cố vấn riêng của Toàn quyền
nhưng cụ từ chối, chỉ nhận chiếc can bằng gỗ mà sau
này cụ vẫn thường dùng. Cụ bị đưa về giam lỏng ở
Huế suốt 15 năm, cho mãi đến ngày qua đời.
Vừa về Huế, cụ đến tạm trú
nơi chái nhà của Thị Lang Bộ Binh Nguyễn Bá Trác, nguyên
cũng là đồng chí của cụ thời hoạt động cách mạng
ở bên Tàu. Rồi chỉ một thời gian ngắn, ngày 10-1-1926,
cụ dọn về căn nhà tranh trên đầu dốc Bến Ngự, cạnh
ngay chùa Từ Đàm. Căn nhà đơn sơ nhưng cũng thanh nhã,
có vườn trồng cây, có bể thả cá, có hòn non bộ (4).
Lều
Tranh Bến Ngự
Hai cụ Huỳnh Thúc Kháng và Ngạc
Am Võ Liêm Sơn đã mua khoảng vườn và dựng mái nhà
tranh này với số tiền 2.000 đồng Đông Dương do đồng
bào quyên góp khắp ba kỳ cùng với số tiền quyên góp
của kiều bào ở Pháp gửi về. Cái nhà ấy dựng theo
kiểu cụ Phan vẽ ra, gồm hai gian rộng ở hai đầu, gian
giữa hẹp hơn vừa đủ chỗ cho một cái giường, cái
bàn và cái tủ làm buồng riêng của cụ, có song mở ra
bốn phía, tỏ ý rằng chủ nhân là một người sống
quang minh chính đại, ai cũng có thể thấy từ gan ruột
bên trong, chính kiểu nhà ấy là tượng trưng của ba kỳ
Bắc-Trung-Nam. (5) Cho đến ngày cụ Phan qua đời, căn nhà
ấy vẫn không có gì thay đổi, đúng như Nguyễn Thiệu
Lâu nhớ lại: “Một cái cổng tre con, ở giữa một hàng
rào cây xanh, một cái sân đất, ở giữa có trồng mấy
cây cảnh lơ thơ, rồi đến một cái nhà tranh ba gian hai
chái.” (6)
Chính dưới mái nhà tranh ấy,
mặc dầu bị bao vây, rình rập tứ phía, Sào Nam vẫn
tiếp tục có những hoạt động đặc biệt, để giữ
ngọn lửa trong lòng mình, cũng chính là ngọn lửa hùng
khí của dân tộc.
Mái nhà tranh của “Ông Già Bến
Ngự” vẫn là nơi lui tới thường xuyên của những
người yêu nước, của đồng bào khắp nơi. Nhất là vào
những năm đầu, như Đào Duy Anh đã có dịp hồi tưởng:
“Nhà cụ tấp nập người qua lại, vì không những cụ
là tượng trưng của tinh thần ái quốc mọi người
ngưỡng mộ, mà chính cái đức độ bao dung ân cần và
lễ nhượng của cụ đối với mọi người, cùng là cái
dáng vẻ quắc thước, cái phong thái ung dung đường hoàng
của cụ có một sức hấp dẫn đặc biệt.” (7)
Chúng ta thử đọc lại bài thơ
dưới đây của Nguyễn Vỹ, cũng đủ thấy lòng ngưỡng
mộ của đồng bào, đặc biệt là của thanh niên, lúc
bấy giờ đối với cụ Phan như thế nào. Nguyễn Vỹ
được hầu chuyện với cụ Phan trên chiếc thuyền của
cụ một đêm trăng mùa hè năm 1936, được cụ Phan mời
uống rượu, rồi hứng khởi đã họa lại bài thơ ứng
khẩu của cụ ngay trên khoang thuyền lai láng ánh trăng.
Người thư ký của cụ đọc lại bài thơ, cụ lắng nghe
và rưng rưng lệ.
Hơn đọc ngàn đêm sách Thánh
Hiền,
Một đêm với Cụ, một con
thuyền.
Trời, mây, trăng, gió, Dân
đành phận,
Thành-quách, lâu-đài, Nước
tủi duyên!
Chén rượu Thừa-lương, cười
rướm lệ,
Câu thơ tâm phúc, lạ thành
quen.
Nước Non, Non Nước, tình lai
láng,
Một nét quan-hoài, chẳng dám
quên. (8)
Hay như cảm giác của Nguyễn
Thiệu Lâu, ông sử gia cuồng sĩ có tiếng bất cần đời,
lúc bấy giờ 1938-1939 đang dạy sử-địa ở trường Khải
Định đến thăm viếng cụ nhiều lần, luôn luôn bị hấp
dẫn vì một sức mạnh kỳ lạ toát ra từ cái đơn giản
và đạm bạc bên ngoài của cụ: “Qua cửa, tôi thấy
gian giữa, trên một bộ ván thấp, có trải một cái
chiếu đã cũ, ngồi tựa lưng vào bàn thờ gỗ mộc, trên
có một bộ thờ gỗ mộc, giữa chiếu đặt tích nước,
đĩa chén, ngọn đèn Hoa Kỳ và cái điếu cầy: Đó là
cụ Phan. Cụ mặc cái quần nâu đã cũ, cái áo cánh kiểu
Huế, có nút cài dưới nách. Cụ ngồi, nhưng tôi nhận
thấy Cụ, thân hình vạm vỡ, trán hói thật cao, bộ râu
dài, đôi mắt sáng quắc...” (9)
Trong những người lui tới nhà
cụ Phan, có một nhân vật đặc biệt là ông Ngô Đình
Diệm, vừa từ chức Thượng Thư Bộ Lại, một nhân vật
có tiếng thông minh và liêm khiết trong chính trường thời
bấy giờ. Chính cụ Phan Bội Châu cũng rất kính nể ông
Ngô, cảm phục khí tiết ông quan trẻ tuổi, nên có bài
thơ tặng khi vị thượng thư đầu triều này từ bỏ
quyền cao chức trọng để phản đối chính quyền Pháp
và Nam triều tay sai.
Dưới đây là bài thơ cụ Phan
Bội Châu tặng ông Ngô Đình Diệm năm 1933 (chép lại
theo bản sao lục của Vũ-Kim-Lão-Nhân, in trên nguyệt san
Việt Nam Hải Ngoại số 147, tháng 10,1983, in lại
trong Kỷ Niệm 200 Năm Cố Đô Huế (1820-2002), Dòng
Việt, California, số 12, 2002, trang 321.)
Ai biết trời Nam vẫn có
người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên
tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn
lượng,
Ngôi quý xem nhường dép nửa
đôi.
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ
chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen
thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn
roi.
Theo Vũ-Kim-Lão Nhân, bài thơ này
đã được cụ Nghè Huỳnh Thúc Kháng cho in trên báo Tiếng
Dân, số phát hành ngày 27-12-1933. Chính quyền đương
thời kiểm duyệt câu thứ 4; về sau trên tuần báo Văn
Đàn của Phạm Đình Tân ở Sài Gòn khoảng năm 1960
đã in lại đầy đủ toàn bài thơ.
Gần đây, ông Vương Đình Quang
nguyên là thư ký của cụ Phan, trong một bài viết trên
tạp chí Sông Hương khoảng năm 1988 ở Huế cũng có
nhắc lại. Vương Đình Quang lúc bấy giờ đã thưa với
cụ Phan là tại sao cụ lại hạ mình như vậy với Ngô
Đình Diệm là một người lớp sau, trong khi cụ là bậc
trên, ở hàng cha, hàng anh. Nhưng cụ Phan nói thẳng rằng,
cụ là người hoạt động cách mạng, chứ nếu cụ ở
trong giới quan trường thì cụ cũng không chắc được
như ông Diệm.
Và cũng từ bài thơ trên của
Phan Bội Châu, mà ở Huế những người đi theo ông Ngô
Đình Diệm thường nói rằng ông Ngô đã vứt chiếc ghế
thượng thư như ném bỏ một đôi dép rách. (10)
Nói
tắt lại, mái nhà tranh của “Ông già Bến Ngự” vẫn
là nơi gặp gỡ và chỗ dựa cho nhiều hoạt động yêu
nước, vẫn là kỳ vọng của đồng bào. Mọi thành phần,
lực lượng, đảng phái vẫn tìm cách liên lạc với cụ
Phan, như một nhận định trong bản báo cáo gửi Toàn
Quyền Đông Dương của Khâm Sứ Trung Kỳ ngày 13 tháng 9
năm 1929:
“Quả
thật những người tham gia đảng phái quốc gia, bài ngoại
và cả đảng Cộng Sản không bao giờ ngừng thường
xuyên liên hệ với Phan Bội Châu là người chắc chắn
được thông tin về các vận động, hoạt động, ý đồ,
phương cách của họ, nếu như không phải là cố vấn
của họ.” (11)
Trong
cảnh cá chậu chim lồng, hoạt động hữu hiệu nhất của
cụ là tiếp tục trước tác để giáo dục quốc dân,
nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của thanh niên, cùng lúc
cũng để nghiên cứu lại nền tư tưởng, cổ học, và
đạo lý cổ truyền phương đông. Có thể kể đến các
tác phẩm điển hình: Cao
Đẳng Quốc Dân,
Giác
Quần Thư, Nam Quốc Dân Tu Tri, Nữ Quốc Dân Tu Tri, Lời
Hỏi Thanh Niên, Khổng Học Đăng, Phật Học Đăng, Chu
Dịch, Nhân Sinh Triết Học, Xã Hội Chủ Nghĩa, Sào Nam
Thi Văn Tập,
hàng trăm thơ phú, văn tế, câu đối, tạp văn, đặc
biệt quan trọng là tập hồi ký Tự
Phán,
tức Phan
Bội Châu Niên
Biểu
là tập sử liệu rất quan trọng của pho sử đấu tranh
của dân tộc thời cận đại.
Trong
khu vườn bao quanh mái lều tranh của Ông già Bến Ngự,
chủ nhân có dựng nhà bia kỷ niệm bà “Ấu-Triệu Lê
Thị Đàn, là đồng chí của cụ đã tiết tháo hy sinh
trong nhà ngục để bảo vệ bí mật của tổ chức cách
mạng, gọi là Ấu
Triệu bi đình.
Trên
bia ấy, có câu:
Tâm
khả huyền ư thiên nhật nguyệt,
Thân
tằng giá dữ Việt giang san.
(Lòng
trong trắng có thể sánh ngang cùng mặt trăng mặt trời,
Tấm thân đã gả cho non sông đất Việt.) (12)
Năm
1934, cụ Phan cũng làm sẵn ngôi mộ rất đơn giản cho
mình, với tấm bia ghi rõ Phan
Bội
Châu
sinh huyệt tự minh
bằng chữ Hán, với lời dặn nghiêm khắc về cách an
táng cụ, không được quan quách, không theo lễ nghi tập
tục rườm rà ghi sẵn trên bia. Dưới đây là lời dặn
trên bia được phiên âm và dịch nghĩa.
Phiên
âm
“Phan
Bội Châu sanh huyệt tự minh.
“Dư
vạn cổ trạch dã, dư tử, tức tống táng ư thị, thả
thiết tuân như hạ sở liệt chi chúc ngữ:
“Cấm
chỉ quan quách, khâm liệm, trúc phần, thiết điện đẳng
nhất thiết tục lệ.
“Cấm
chỉ tang phục, tang nghi, khốc tụng đẳng, nhất thiết
hư văn.
“Cấm
chỉ phó tang, cáo ai đẳng, nhất thiết hư văn. Thân bằng
cố cựu, hữu nhân cố bất cập tri dư tử giả, tận
khả tâm thích. Phàm ngã hậu nhân thành ái dư giả, duy
kế chí thuật sự thượng hỹ, dư câu bất tất.
“Nam-lịch
Giáp-Tuất niên nguyệt nhật.
Tây-lịch
nhất thiên cửu bách tam thập tứ niên nguyệt nhật.”
Dịch
nghĩa
“Lời
tự minh sanh huyệt Phan Bội Châu.
Đây
là nhà ở muôn đời của ta, khi ta chết thì phải chôn
ngay tại đây và phải tuân theo lời dặn sau nầy:
“Cấm
không được khâm liệm, quan quách, đắp mộ, lập đền
thờ theo tục lệ.
“Cấm
không được để tang, cúng tế theo lối hư văn.
“Thân
bằng cố hữu vì không được biết tin ta chết, chỉ để
lòng thương nhớ thôi. Phàm kẻ sau thành tâm thương ta,
chỉ kế chí thuật sự, ngoài ra chả cần gì khác.
Nam
lịch, Năm Giáp Tuất, tháng... , ngày...
Tây
lịch năm 1934, tháng... , ngày...
Suốt
những năm tháng bị giam lỏng ở Huế, cụ Phan thường
bị đám mật thám rình rập suốt ngày. Trong khi ấy, hai
con chó Ky, chó Vá cụ nuôi trong nhà thì lại tỏ ra rất
trung thành với chủ. Khi con Ky và Vá chết, cụ chôn trong
vườn nhà, lập bia mộ kỷ niệm, và gọi chúng là loài
vật có trí, nghĩa, nhân, và dũng. Những dòng khắc trên
bia tưởng nhớ như là lời cười cợt cay đắng, nhưng
chính thực là để mắng bọn chó săn, chim mồi, cũng là
một thứ ngụ ngôn thâm thúy để lại cho đời của nhà
cách mạng lão thành. Bài minh trên bia được khắc bằng
chữ Hán và chữ quốc ngữ. Dưới đây là lời trên bia
văn ấy:
Bia
Con Ky
Người
hơi có đức nhân thường kém về phần trí. Người hơi
có đức trí thường kém về phần nhân. Vừa trí vừa
nhân thật là hiếm thấy!
Ai
ngờ con Ky nầy lại đủ hai đức đó:
Chung
nhau thờ một chủ, thời xem nhau như là anh em, chẳng bao
giờ như mèo với chó, thực là nhân đó.
Thấy
không phải chủ, thời xem bằng cừu thù, chẳng bao giờ
vì miếng ăn dẫn dụ, thiệt là trí đó.
Trí
vừa nhân, nhân vừa trí,
Trong
giống súc mà người, e đến mày mới thấy.
Mầy
sao vội chết?
Hỡi
trời! Hỡi trời!
Lòng
ta đau đớn,
Phải
tạc mấy lời.
Đau
đớn quá! đau đớn quá!
Kìa
những hạng muông người!
Bia
Con Vá
Vì
có dũng nên liều chết phấn đấu, vì có nghĩa nên trung
thành với chủ.
Nói
thì dễ, làm thiệt khó, người còn vậy, huống gì chó!
Ôi!
Con Vá mầy đủ hai đức đó, há như ai kia mặt người
lòng thú; nghĩ thế mà đau, dựng bia mộ chó!
CỤ
PHAN LÂM CHUNG
Vào
lúc cuối đời, sức đã yếu, cái chết gần kề, cụ
Phan ghi lại trên ảnh của mình mấy lời thực cảm động
mà cũng thực hào tráng: Cứu
quốc tồn chủng, hữu chí vô tài, kim cánh dữ quốc dân
trường từ, tội thậm khất thứ (Cứu
nước giữ nòi, có chí nhưng bất tài, nay vĩnh biệt quốc
dân, tội nặng xin đồng bào tha thứ.)
Mấy
lời trên ảnh ấy, cụ Phan viết dài hơn, thành lời vĩnh
quyết gởi đồng bào nhờ cụ Huỳnh Thúc Kháng in trên
báo Tiếng
Dân
ngày 31-10-1940.
Lời
Từ Biệt của cụ Phan
“Phan
Bội Châu, một tên dân Việt Nam, trước lúc gần chết
mà chưa tắt hơi, kính có mấy lời rất thành thực từ
biệt cùng anh em đồng bào. Trước kia không kể, từ năm
1906 (...kiểm duyệt bỏ) khiến cho người nước, kẻ ở
người đi, kẻ còn người mất và bị lụy rất nhiều,
toàn là tội ác về tay tôi gây nên. Mà may quá! Từ năm
1925, tôi mang cái sống thừa về nước đến giờ, anh em
đồng bào đã không ai trách tội tôi mà lại quá thương
yêu tôi, tôi thực là hổ thẹn với đồng bào ta và cảm
ơn vô cùng. Trải 15 năm nay, nằm co trong túp lều ở Bến
Ngự cùng chiếc đò trên sông Hương, đoạn đời sống
thừa của tôi, không việc gì đáng nói và đồng bào đã
thừa rõ. Bây giờ tôi đã đến lúc lâm biệt, xin có lời
từ biệt.
Bội
Châu từ trước đến nay, đối với đồng bào đã không
có chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ
tôi đã chết, thiệt là một tên dân trốn nợ và vỡ
nợ, đồng bào có thứ lượng cho tôi, thì xác tôi tuy
chết mà tinh thần tôi vẫn cám ơn đồng bào luôn luôn.
“Người
đến khi gần chết, lời nói hẳn lành.” Nay tôi đã đến
lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời
hy vọng cuối cùng với đồng bào:
Đồng
bào Việt Nam ta có trên 20 triệu, bấy nhiêu đầu óc, bấy
nhiêu tai mắt, bấy nhiêu chân tay, nếu biết thương yêu
nhau, đồng lòng hợp sức làm cái bổn phận quốc dân
đối với Tổ Quốc (...kiểm duyệt bỏ). Không thế thì
trên mặt địa cầu sau này sẽ không có hình bóng dân
tộc Việt Nam nữa, thì Bội Châu nầy dẫu có trốn nợ,
vỡ nợ cũng may mà được chết trước anh em, tôi lấy
làm một điều hạnh phúc.
Mấy
lời trên, tôi xin từ biệt và cảm ơn đồng bào.
Kính,
Phan
Bội Châu quyết biệt.”
Mấy
ngày trước khi cụ Phan qua đời, cụ Huỳnh Thúc Kháng
cùng một phái đoàn đến viếng. Cụ Huỳnh đọc bài văn
“sanh vãn” khóc cụ Phan, tức là bài văn tế sống, là
một phác họa trong mấy nét về toàn bộ cuộc đời Phan
Bội Châu, từ khí chất, tâm tình, trí tuệ, cho đến con
đường hành động, dấn thân cứu nước. Bài văn “Sanh
vãn” có mấy câu cuối: “Tiếc đấng anh hùng; xót tình
dòng họ. Uống nước nên nhớ nguồn cơn! Khắc đá hãy
ghi lời phế phủ.
Vàng
ngọc nhớ ơn chỉ bảo, rượu ba tuần dâng nén tâm
hương. Tiên trần ngã rẽ ngả tử sinh, ngâm một khúc
thay lời phỉ lộ. Nào dám bảo sinh sau hơn trước. Chỉ
cầu mong người khuất như còn, chín suối có thiêng dắt
hậu bối lên đường tiến bộ.” (Xin xem toàn bộ bài
điếu văn này ở phần phụ lục).
Nghe
xong bài văn “sanh vãn”, cụ Phan dù rất mệt nhọc cũng
gượng sức ứng khẩu mấy vần tâm sự cuối cùng, vẫn
đầy hào hứng, chứa chan nỗi lòng nhiệt huyết, vẫn
đặt hết hy vọng ở đàn hậu tử.
TỪ
GIÃ BẠN BÈ LẦN CUỐI CÙNG
Mặc
sầu tiền lộ vô tri kỷ,
Thiên
hạ thùy nhân bất thức quân? (13)
Bảy
mươi tư tuổi trót phong trần,
May
được bạn tinh thần mới hoạt hiện.
Những
ước anh em đầy bốn biển
Ai
ngờ trăng gió nhốt ba gian.
Sống
xác thừa mà chết cũng xương tàn,
Câu
tâm sự gởi chim ngàn cá biển.
Mừng
được đọc bài văn “Sinh vãn”,
Chữ
đá vàng in mấy đoạn tâm can.
Tiếc
mình nay sức mỏng trí thêm khan,
Lấy
gì đáp khúc đàn tri kỷ?
Nga
nga hồ, chí tại cao sơn,
Dương
dương hồ, chí tại lưu thủy. (14)
Đàn
Bá-Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng
nghe qua khóc trộm lại đau thầm,
Chung-Kỳ
chết, ném cầm không gảy nữa.
Nay
đang lúc tử thần chờ trước cửa,
Có
vài lời ghi nhớ về sau:
Chúc
phường hậu tử tiến mau.
ĐÁM
TANG NHÀ CHÍ SĨ
Ngày
29-10-1940, một ngày mưa sầu gió thảm của xứ Huế, cụ
Phan vĩnh biệt quốc dân. Cụ đau chỉ mấy ngày rồi qua
đời một cách thản nhiên nhẹ nhàng như người đang nằm
ngủ. Bên giường lúc cụ Phan lâm chung có hai người bạn
cùng chí hướng và đồng khoa thi Hương năm Canh Tý (1900)
là Minh-Viên Huỳnh Thúc Kháng và Trúc-Khê Võ Bá Hạp, hai
người con của cụ Phan: Phan Nghi Huynh, Phan Nghi Đệ. Nhờ
vào ký ức của cụ Tùng-Chi Võ Như Nguyện hiện đang
sống tại Pháp, là người có mặt ở lều tranh Bến Ngự
vào giờ phút đau buồn trọng đại ấy (15), chúng ta biết
thêm về sự diện diện của các cụ Trần Đình Phiên,
Trần Hoành, Trần Đình Dần, Trần Kiêm Trình, Võ Đình
Long, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, và mấy thanh niên lớp
sau: Trần Quang Huy, Võ Như Vọng, Nguyễn Tuân (tức
Anh-Minh Ngô Thành Nhân) (16). Ngày hôm sau có thêm bác sĩ
Trần Đình Nam từ Đà Nẵng ra. Bác sĩ Trần Đình Nam là
em cụ Trần Đình Phiên. Cụ Trần trước đây đã tham
gia phong trào Duy Tân ở Phan Thiết khoảng trước 1908, là
sáng lập viên của công ty Liên Thành, bấy giờ đang giúp
cụ Huỳnh Thúc Kháng lo việc quản lý nhà in và nhà báo
Tiếng
Dân.
Hai ông Võ Như Nguyện, Võ Như Vọng là con cụ Cử Võ Bá
Hạp, cháu nội cụ Võ
An-Hòa.
Gọi là cụ Võ
An-Hòa,
vì nhà ở vùng An-Hòa, cũng gọi là Võ Thợ Giày vì cụ
có mở tiệm đóng giày dừa cho các vương tôn công tử,
hoàng thân quốc thích và giới quan quyền ở trong Đại
Nội.) Cụ Phan Bội Châu vì vụ án “hoài hiệp văn tự
nhập trường” năm Đinh Dậu (1897), chạy vào Huế, có
một thời gian ngồi dạy học ở nhà cụ Võ
Thợ Giày.
Theo
tường thuật của Anh Minh, chiều ngày 31-10-1940, trời trở
rét nặng, mưa càng to gió càng lớn, nước ngập đầy
“sinh huyệt,” lễ an táng vẫn được cử hành. Mấy
người thanh niên trai tráng làm việc ở báo Tiếng Dân và
trong gia đình thay phiên nhau dùng chiếc thùng thiếc tát
cho cạn nước trong mộ huyệt để có thể đặt quan tài
xuống, nhưng mưa to gió lớn quá sức, mạch nước chảy
ra quá mạnh, nên không tài nào tát cho cạn được. Thêm
vào đó là chuyện Sở Liêm Phóng và Nha Bang Tá đặt
người theo dõi, nhòm ngó chung quanh, rình mò người đến
thăm viếng. Nên để tránh chuyện phiền hà, cụ Huỳnh
Thúc Kháng bàn với hai người con trai cụ Phan là nên an
táng ngay cho kịp trong ngày. Lúc sáu giờ chiều, quan tài
được đặt xuống mộ huyệt ngập đầy nước, bốn
người phải đứng dằn bốn góc và nắp huyệt được
đúc bằng xi-măng từ trước được đậy lại. Sở Liêm
Phóng Trung Kỳ bắt buộc tang chủ phải mua quan tài khâm
liệm cụ Phan, chứ không cho phép thực hiện theo di chúc
của cụ là cấm chỉ khâm liệm quan quách. Mưa vẫn như
trút; trời đất dường như cũng góp phần tạo nên cảnh
sắc bi tráng mà thê lương cho một cuộc đời anh hùng,
cho đến cả lúc lâm chung. (17)
Vài
tháng sau, với số tiền đồng bào phúng điếu hơn 900
đồng, cụ Huỳnh Thúc Kháng cho tiến hành xây lăng (như
vẫn thấy hiện nay) và dựng đền thờ Sào-Nam Phan Bội
Châu. Cụ Huỳnh ủy nhiệm ông Võ Như Nguyện, ủy viên
kiểm soát công ty Huỳnh Thúc Kháng lo liệu việc này.
(18)
Cụ
Phan qua đời, đất nước rúng động, quốc dân đau buồn,
có nhiều thơ văn, câu đối ai điếu, thương khóc nhà
chí sĩ, chúng tôi trích lục lại đây mấy câu đối khóc
cụ Sào-Nam của Tôn Quang Phiệt, Phan Thúc Ngô, và
Hoàng-giáp Nguyễn Đức Lý. (19)
1.
Câu
đối của Tôn Quang Phiệt
Công
chi vãng sự túc nhân văn, ức Phú-sơn vũ kiếm, Ngô-thị
xuy tiêu, thiếu tráng hà thời, hồ hải vân tiêu hồng
hộc chí.
Quốc
đáo kim nhật nhu tài thậm, ta Thiếu-mai trường từ,
Tây-hồ vĩnh quyết, anh hùng kỷ tại, quan hà phong vũ đổ
quyên thanh.
Tạm
dịch
Chuyện
Tiên-sinh lúc trước người nước đã từng nghe; nhớ
những đất Ngô (a) thổi địch, non Phú (b) mài gươm; son
trẻ tự bao giờ, bể rộng trời cao hồng vỗ cánh.
Việc
non nước bây giờ đang cần người lắm tá; thảm thiết
nhỉ Thiếu-mai chầu trời (c), Tây-hồ viếng Phật (d),
anh hùng đâu đấy tá, non sầu bể thảm quốc khan hơi.
Tôn
Quang Phiệt
Hiệu
trưởng trường Thuận Hóa (Huế)
(a)
Xin xem chú thích về tiếng sáo Ngũ-viên ở phần phụ
lục, bài điếu văn của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
(b)
tức Nhật-bản, ý nhắc lại việc cụ Phan sang Trung-hoa
và Nhật.
(c)
Tức Mai-sơn Nguyễn Thượng Hiền.
(d)
Tức Tây-hồ Phân Châu Trinh.
2.
Câu
đối của Phan Thúc Ngô
Tiên
sinh trương hà chi, sơn hồ vị tất đồi, mộc hồ vị
tất nuy, tang hải ba đào tam biến hậu;
Tiểu
tử đội đại hĩ, bệnh bất năng cập sàng, tang bất
năng cập phất, sư sinh tâm sự cửu thiên trung.
Tạm
dịch
Thầy
vội bỏ đi đâu, núi sao vội lở, cây sao vội tàn, dâu
bể đổi thay đất biết;
Trò
tôi tội lớn lắm, bệnh không tới giường, tang không
tới khóc, thầy trò tình nghĩa trời hay.
Phan
Thúc Ngô, môn sinh của cụ Phan,
người
huyện Thanh-Chương, tỉnh Nghệ-An (20)
3.
Câu
đối của Hoàng-giáp Nguyễn Đức Lý
(làm dùm cho ông Lê văn Lới, Hội đồng tỉnh hạt
Nghệ-An).
Vì
nước vì dân, lòng đến lúc già càng thấy sắt;
Toàn
danh toàn tiết, tượng sau khi chết đáng nên đồng.
TỪ
ĐƯỜNG PHAN BỘI CHÂU VÀ LIỆT SĨ CÁCH MẠNG TIỀN BỐI
Năm
1955, theo một chỉ thị bất thành văn của Thủ tướng
Ngô Đình Diệm, thủ hiến Nguyễn Đôn Duyến ký nghị
định thành lập Ủy
Ban Trùng Tu Nhà Thờ Phan Bội Châu.
Ngôi nhà thờ khang trang đồ sộ được xây dựng theo họa
đồ thiết kế của họa sĩ Tôn Thất Sa, một họa sĩ
danh tiếng đã có nhiều đóng góp với nền mỹ thuật
Huế. Nhà thầu khoán Nguyễn Văn Ấm lo việc xây dựng.
(21) Cả hai ông Tôn Thất Sa và Nguyễn Văn Ấm đều tự
nguyện hiến công sức đóng góp trong việc cất nhà thờ
cụ Phan. Ngôi nhà thờ hoàn tất, có tấm biển đề ở
mặt tiền: “Từ
Đường Các Liệt Sĩ Tiền Bối và Phan Bội Châu Tiên
Sinh.”
Nơi cổng vào là bốn trụ biển rất đồ sộ, hai trụ
giữa cao ngất trời và một bờ tường gạch bao quanh tạo
nên vẻ tôn nghiêm đặc biệt cho khu nhà thờ và vườn
mộ nhà chí sĩ. Ở bên trong nhà thờ, ngoài án thờ chính
thờ cụ Phan Bội Châu, còn có di ảnh nhiều nhà cách
mạng tiền bối như Lý Tuệ, Tiểu La Nguyễn Thành, Kỳ
Ngoại hầu Cường Để, Huỳnh Thúc Kháng, Võ Bá Hạp,
Nguyễn Thượng Hiền, Phan Chu Trinh... treo ở trên cao.
Nhà
thờ Phan Bội Châu và các liệt sĩ cách mạng tiền bối
khánh thành đúng vào dịp miền Nam Việt Nam thu hồi nền
độc lập toàn vẹn từ tay đế quốc Pháp, công bố thể
chế Cộng hòa, và bản hiếp pháp đầu tiên được ban
hành. Ủy Ban Trùng Tu Nhà Thờ cũng đã biên soạn được
một tập hồ sơ liệt sĩ cách mạng tiền bối, đặc
biệt là các liệt sĩ hy sinh trong các nhà tù của đế
quốc mà ít người biết tới, bằng cách đi tìm lại
nhân chứng và lấy lời khai của những nhân chứng ấy.
Tập hồ sơ này được đánh máy thành nhiều bản, một
bản được lưu trữ ở nhà thờ cụ Phan, một bản khác
được trình lên ông Ngô Đình Diệm và tổng thống Diệm
rất hân hoan tán thưởng.
Vài
năm sau, di hài cụ Tăng Bạt Hổ, trước đây được cụ
Cử Võ Bá Hạp an táng ở vùng Hương Trà được cải
táng về đây, để dù đã trở thành nắm xương tàn, hai
nhà cách mạng tiền bối lừng lẫy vẫn có thể an nghỉ
bên nhau đời đời.
Cụ
Tăng Bạt Hổ, tự Sư-Triều hay Nguyên-Ba, hiệu Diễm Bát
Tử, võ quan triều Thiệu Trị, cầm đầu nhóm Cần Vương
ở Bình Định, Phú Yên. Xuất dương qua Tàu, Nhật, Nga,
Xiêm La, rồi năm 1902 trở về nước, làm điểm hẹn cho
các nhóm hoạt động chống Pháp của Tôn Thất Thuyết và
Tán Thuật, lại đi vận động khắp nơi cho phong trào
Đông Du đang phát triển ở Nhật.
Thời
ở Nhật, cụ đã từng gia nhập vào lực lượng hải
quân và cũng đã từng tham chiến trong các trận thủy
chiến lớn ở Đài Liên, Lữ Thuận, được ban thưởng
huy chương quân công, đã từng được Nhật hoàng rót
rượu ban thưởng. Cụ nâng chén rượu vua ban, uống cạn,
rồi òa lên khóc. Tất cả mọi người ở chung quanh đều
tỏ vẻ ngạc nhiên thì cụ nói: “Tôi thật không phải
là người Nhật, mà là một người Việt Nam vong quốc,
được bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga một
cách vẻ vang, làm cho giống da vàng được hãnh diện lây;
tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi nên không cầm được
giọt lệ. Biết bao giờ nước tôi mới mở được một
bữa yến như vầy?” Nhật hoàng rất khen ngợi và an ủi
cụ, từ đó cụ quen biết được nhiều chính khách danh
tiếng của Nhật Bản, mà cũng từ đó, theo lời khuyên
của họ, cụ đã trở về nước góp tay với phong trào
Đông Du, tìm cách đưa thanh niên sang Nhật du học (22).
Năm
1906, cụ bị bệnh nặng phải vào tá túc ở nhà cụ Võ
Bá Hạp ở Huế, chỉ mấy tuần sau thì mất trên tay cụ
cử Võ, trên một chiếc thuyền con đậu dưới bến sông.
Trong sách “Tự Phán”, cụ Phan có viết về Tăng Bạt
Hổ: “Than ôi! Khi tôi xuất dương thật có nhờ ông, mà
tôi chưa từng một phút nào được phụng sự ông. Chí
lớn lưng chừng, tuổi trời ngắn ngủi, ông xanh kia độc
ác như thế ư?” (23). Cụ Tăng qua đời, cụ Phan viết
sách “Kỷ
Niệm Lục”
đặt truyện Tăng Bạt Hổ lên trước hết. Về sau, cụ
Phan viết sách “Việt
Nam Nghĩa Liệt Sử”
về các anh hùng, liệt sĩ, cũng vẫn đặt truyện Tăng
Bạt Hổ lên trước hết.
Năm
1987, pho tượng đúc đồng Phan Bội Châu, kiệt tác của
nhà điêu khắc Lê Thành Nhân cũng được đưa về dựng
rất trang trọng trong khu vườn này. Tượng Phan Bội Châu
của Lê Thành Nhân rất đẹp, với một thứ nghệ thuật
rất mới, mà vẫn giữ được vẻ cổ kính tự nhiên,
phô diễn được nét mặt hùng tráng của nhà ái quốc vĩ
đại, linh hồn cuộc đấu tranh của dân tộc cuối thế
kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20. Pho tượng cao hơn 2 mét; tượng
đã được hoàn tất năm 1974, nhưng nằm hoang phế mãi ở
phường Đúc Long Thọ vì biến cố 1975, nay mới được
đưa về đây, góp thêm nét đặc sắc cho vườn mộ và
từ đường Phan Bội Châu, một địa chỉ văn hóa và
lịch sử quan trọng của Huế mà cũng là của toàn đất
nước, nơi thờ phượng một đại anh hùng, nhà chí sĩ
và bậc hiền giả, là một đền đài thiêng liêng của
dân tộc Việt Nam.
Thành
phố Vườn, tháng 5, 2006
Huỳnh
Hữu Ủy
CHÚ
THÍCH
(1)
Cụ Phan đã bị tòa án Nam triều ở Hà Tĩnh ngày
27-5-1908 và ở Nghệ An ngày 7-2-1910 kêu án “tử hình
khiếm diện.” Tòa Đề hình Hà Nội cũng xử cụ “tử
hình khiếm diện” vào năm 1913 (CF. Chương Thâu, Hồ
sơ Vụ án Phan Bội Châu,
Nxb Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội 2002, trang 7).
(2)
Việt
Nam Hồn,
Paris, số 2, tháng 2-1926. In lại trong Việt
Nam 1920-1945: Cách Mạng và Phản Cách
Mạng
thời Đô hộ Thuộc địa
của Ngô Văn, Chuông Rè/L'Insomniaque, Montreuil, Pháp; bản
in ở Mỹ, California, 2000, trang 57.
(3)
Đặng
Hữu Thụ, Làng Hành Thiện và các Nhà Nho Hành Thiện
triều Nguyễn,
Paris, 1992, trang 358.
(4)
Nguyễn Khắc Ngữ viết theo quan sát của một ký giả báo
Thanh
Niên
đến thăm và phỏng vấn cụ Phan Bội Châu ngay lúc bấy
giờ. (CF. Nguyễn Khắc Ngữ, Vụ
án Phan Bội Châu và phong trào dân chúng vận động xin ân
xá cho cụ năm 1925,
Tư
Tưởng,
Viện đại học Vạn Hạnh, Sàigòn, số 8-9, tháng 11-12,
1973).
(5)
Đào Duy Anh, Nhớ
Nghĩ Chiều Hôm, Hồi Ký,
Nxb Văn Nghệ T.Ph HCM, 2003, trang 51.
(6)
Nguyễn Thiệu Lâu, Ký
ức về cụ Phan Bội Châu,
bài viết trên nhật báo Sống của Chu Tử năm 1964, in lại
trong Quốc
Sử Tạp Lục,
Khai Trí xb khoảng 1970, phổ biến lại trên Quán Gió
online
(7)
Đào Duy Anh, sđd, trang 51.
(8)
Nguyễn Vỹ, Phan
Bội Châu & Huỳnh Thúc Kháng hai nhà thơ cách mạng,
Văn-Thi-Sĩ
Tiền Chiến,
Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1970, trang 296-306.
(9)
Nguyễn Thiệu Lâu, đã dẫn ở trên.
(10)
Bản sao lục bài thơ cụ Phan tặng ông Ngô của Vũ-Kim
Lão Nhân dường như có hơi khác bản của Vương Đình
Quang (như tôi đã được đọc). Về ý tứ thì giống
nhau, về cách dùng chữ thì có khác một vài chỗ. Tôi
tiếc là hiện nay không có trong tay số báo Sông
Hương
đã đăng bài thơ này để trích dẫn thêm ở đây.
Chung
quanh bài thơ này, vào thập niên 80 của thế kỷ trước,
đã có nhiều lời ong tiếng ve, cả tranh luận lẫn bôi
bác, nhưng sự thật thì vẫn luôn luôn là sự thực.
Người làm chính trị, hoặc viết hồi ký chính trị, có
thể giải thích sự kiện lịch sử theo cách nhìn của
mình, hoặc thậm chí có thể xuyên tạc lịch sử cho phù
hợp với ý đồ của mình, nhưng người viết sử thì
không thể như thế được, mà phải giữ đức trung
chính, phải tôn trọng sự thật.
Nhắc
đến bài thơ cụ Phan Bội Châu tặng ông Ngô Đình Diệm,
tôi lại nhớ đến lời truyền tụng ở Huế về cụ Ngô
Đình Khả với lời đồng dao “Đày
vua không Khả, Đào mả không Bài.”
Sau cách mạng tháng 8, Ngô Đình Diệm bị chính quyền
Cộng sản bắt giữ và bị giam tại Bắc Bộ phủ; Hồ
Chí Minh quyết định thả ông Diệm, đã nói với Vũ Đình
Huỳnh, thư ký riêng của mình: “Các chú không ở Huế
không biết, chớ dân Huế có câu: ‘Đày vua không Khả,
Đào mả không Bài,’ là nói về cụ thân sinh ông Diệm
đấy. Vị người cha thả người con là điều nên làm
lắm chứ. Các chú không nên hẹp hòi!” (Vũ
Thư Hiên,
Đêm Giữa Ban Ngày,
Nxb
Văn Nghệ, California, 1997, trang 226-227).
Tôi
là người Huế, mới năm tuổi đã biết đến câu đồng
dao ấy rồi. Vậy mà gần đây, trong quyển sách Lịch
Sử Phật Giáo Xứ Huế
của Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, với lời đề tựa
của tiến sĩ Lê Mạnh Thát, viết rằng: “Ngô Đình Khả,
người làng Đại Phong, Quảng Bình, là người đã ký
giấy cho bọn thực dân Pháp đày vua Thành Thái sang
Réunion. Dân Huế còn truyền tụng câu: “Đày
vua, ông Khả; đào mả, ông
Bài”
tức Nguyễn Hữu Bài. Ngô Đình Khả cũng làm đến chức
Thượng thư trong triều đình Huế.”
(Thích
Hải
Ấn và Hà Xuân Liêm,
Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế, Nxb
Th.ph Hồ Chí Minh, trang
356.)
Hỡi ôi! Viết sử mà như thế thì chẳng biết họ đang
viết cái gì? Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế in rất đẹp,
dày hơn 730 trang, biên soạn có vẻ công phu với một thư
mục tham khảo rất phong phú, nhưng đáng tiếc thay, chỉ
là một nguồn tài liệu bất khả tín!
(11)
Chương Thâu, Hồ
Sơ Vụ án Phan Bội Châu,
sđd, trang 34.
(12)
Trịnh Thu Tiết, “Phan
Bội Châu, người khai sáng những tư tưởng tiến bộ về
vấn đề phụ nữ trong văn học Việt Nam”
trong
PHAN BỘI CHÂU: Về tác giả và tác phẩm,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2001, trang 210.
(13)
Mạc
sầu tiền lộ vô tri kỷ/Thiên hạ thùy nhân bất thức
quân?
= Đừng buồn vì trên đường không gặp người tri kỷ,
Trong thiên hạ ai là người không biết anh? (thơ Cao Thích,
thi sĩ đời Đường).
(14)
Nga
nga hồ, chí tại cao sơn. Dương dương hồ, chí tại lưu
thủy
= Chót vót thay! Chí mình đang ở trên ngọn núi cao. Mênh
mông thay! Chí mình đang nơi dòng nước chảy.
(15)
Tùng Chi, “Tang
lễ Nhà Cách Mạng Phan Bội Châu tại Huế”, Tiếng
Sông Hương,
Dallas, Texas, 1997, trang 185-187.
(16)
Anh Minh Ngô Thành Nhân, học trò của hai cụ Phan Bội Châu
và Huỳnh Thúc Kháng, người Quảng Nam, tính khí hiền
hòa, nho nhã, nói năng nhỏ nhẹ, chứ không “sửng cồ,
hay cãi”. Anh Minh được cụ Huỳnh ủy thác giữ gìn
nhiều di cảo quý giá của các cụ. Anh Minh đã có công
lao rất lớn bảo quản những tài liệu này trong thời kỳ
tối tăm của cuộc chiến tranh Việt-Pháp, nên sau khi hòa
bình được lập lại sau năm 1954, chúng ta đã được đọc
nhiều di cảo của cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,
Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế... do Nxb Anh Minh ấn hành ở
Huế.
Ngay
trong thời chiến tranh còn diễn ra ác liệt, Anh Minh cũng
đã dựa vào tài liệu của cụ Phan, cụ Huỳnh mà biên
soạn nhiều tác phẩm hữu ích cho việc tìm hiểu, nghiên
cứu những trang sử đấu tranh giải phóng thời cận đại
như Dật
sự cụ Phan Sào Nam
(xb 1950), Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để với Phan Bội Châu
(xb 1951), Những
chí sĩ cùng học sinh du học Nhật Bản dưới sự hướng
dẫn của cụ Sào Nam Phan Bội Châu
(xb 1952). Anh Minh gần gũi với lều tranh của “Ông già
Bến Ngự”, làm việc trong công ty Tiếng
Dân
nhưng có khuynh hướng về ông Ngô Đình Diệm, chứ không
hướng về miền Bắc như nhiều người khác. Sau 1954, Anh
Minh lại từng là quận trưởng Tiên Phước, Quảng Nam,
thời ông Diệm vừa về chấp chánh, trấn giữ một vùng
địa đầu đối với Cộng sản nên không lạ gì ông đã
bị các sử gia miền Bắc tấn công dữ dội với những
lời lẽ rất nặng nề, khiếm nhã.
Dù
gì đi nữa thì cũng cần ghi nhận rằng, nếu ở miền
Bắc, tài liệu sách vở về các hoạt động cách mạng
chống Pháp rất được lưu ý, thì ở miền Nam, tủ sách
Anh Minh là một kho tàng quý giá về cuộc đấu tranh dành
độc lập của dân tộc. Chỉ hơi tiếc là cách trình bày
tài liệu của Anh Minh thường chỉ là bằng tấm lòng, là
lòng sùng bái tôn kính đối với các anh hùng dân tộc,
các nhà cách mạng tiền bối, mà thiếu một phương pháp
khoa học cần thiết nên rất dễ bị đám tiểu tâm xuyên
tạc.
(17)
Theo tường thuật của Anh Minh, trích lại trong sách Sào
Nam Phan Bội Châu: Con người và Thi
văn
của Nguyễn Quang Tô, Tủ sách Văn học Bộ Văn hóa Giáo
dục và Thanh niên, Sài gòn, 1974, trang 144.
(18)
Cụ Tùng-Chi Võ Như Nguyện hẳn là có nhiều duyên nghiệp
với các liệt sĩ cách mạng tiền bối. Trước tiên, là
lo xây lăng cụ Phan, rồi sau này, khoảng 1956-1957 dưới
thời chính phủ Diệm, lại cùng mấy anh em cũ đi xây
lăng cụ Huỳnh Thúc Kháng trên núi Thiên Ấn ở Quảng
Ngãi. Cùng với thời đi xây lăng mộ cụ Huỳnh, cụ Võ
Như Nguyện cũng cho cải táng hài cốt hai cụ Thái Phiên
và Trần Cao Vân về ở chùa Châu Lâm. Di cốt hai cụ,
trước đây, khoảng năm 1922, được cụ bà Trương Thị
Dương, người gốc Hải Lăng, Quảng Trị, cải táng từ
An Hòa về chôn chung trong một mộ đôi ở Phong Sơn, huyện
Phong Điền.
(19)
Câu đối điếu Phan Bội Châu của Tôn Quang Phiệt, Phan
Thúc Ngô, và Hoàng-giáp Nguyễn Đức Lý được trích từ
Sào
Nam Phan Bội Châu: Con người và Thi văn
của Nguyễn Quang Tô, sđd, trang 363 và 365.
(20)
Phan Thúc Ngô hoạt động trong phong trào Cường Để, bị
Việt Minh giết năm 1946 ở Quảng Ngãi. Vậy nhưng người
con trai trưởng vẫn đi kháng chiến và ở lại miền Bắc
sau năm 1954 (như trường hợp Phạm Tuyên, con trai của cụ
Phạm Quỳnh). Người con gái và thứ nam là Phan Thúc Hùng
thì ở miền Nam, con trai út Phan Thúc Hoán du học Pháp,
tốt nghiệp y khoa rồi chết ở Pháp. Dưới thời chính
phủ Ngô Đình Diệm, di hài cụ Phan Thúc Ngô được các
đồng chí cũ và gia đình cải táng về Huế, có đưa về
bái yết ở nhà thờ cụ Phan Bội Châu.
(21)
Ông Nguyễn Văn Ấm là con rể cụ Ngô Đình Khả, thân
phụ Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
(22)
Xem Lê
Văn Đức,
Việt Nam Tự Điển,
quyển thượng, phần “Tục ngữ, Thành ngữ, Điển
tích”, nhà sách Khai Trí, Sài gòn, 1970, trang 162.
(23)
Phan Bội Châu, Tự
Phán,
bản in lại của Nhân Chủ Học Xã, California, 1987, trang
106.
PHỤ
LỤC
Bài
văn “Sanh Vãn” , tức là bài văn tế Minh Viên Huỳnh
Thúc Kháng viết và đọc cho cụ Phan Bội Châu nghe lúc
còn sống và đang nằm trên giường bệnh.
Đất
linh tú núi Hoành biển Quế, khí trăm năm un đúc sinh đấng
vĩ nhân;
Trời
cạnh tranh gió Mỹ mưa Âu, đường muôn dặm mịt mù nhớ
người hướng lộ.
Bởi
Tiên-Sinh vì nước hy sinh;
Nên
hậu bối nặng lòng khâm mộ.
Nhớ
Tiên-sinh xưa!
Sinh
đất Hồng Lam,
Học
nguồn Trâu Lỗ (1)
Khí
hào hùng đã lỗi lạc khác thường;
Tuổi
thiếu tráng mà đầu sừng sớm trổ.
Khoa
cử nợ nhà toan trả sạch, trường thi trận bút, bảng
một tên lừng lẫy tiếng làng văn; (2)
Gian
nan vận nước phải lo âu, chiếc ngựa thanh gươm, đất
bốn biển tìm tòi miền dụng võ.
Từ
đấy:
Hai
tròng mắt trắng, mang lốt nhà Nho;
Một
tấm lòng son, dâng mình nước tổ.
Trường
Quốc Giám mượn chân dị nghiệp; lần lượt vào Nam ra
Bắc, họp anh hùng gây hội phan long; (3)
Thơ
Lưu Cầu (4) khêu mối đồng tâm, lân la cuối chợ đầu
rừng, khắp Yên, Triệu kết phường đồ cẩu (5)
Nội
tình đã định sẵn phương châm;
Ngoại
thế lại rộng xem hoàn vũ.
Cuộc
thế giới gió xoay chiều cạnh thắng, mở thị trường,
tranh thuộc địa, khói năm châu mây nghìn nghịt đen;
Vùng
Phù-tang đuốc dọi tia văn minh, dẹp Trung quốc, đuổi
cường Nga, trời một góc lửa phừng phừng đỏ.
Gương
tự cường toan theo gót Tây âu;
Thuyền
mạo hiểm mới tếch dòng Đông độ.
Quả
nhiên:
Diều
lướt trên không,
Cá
lìa khỏi đó,
Bệnh
lâu năm vì nỗi nước đau;
Tiên
ba đảo cầu phương thuốc bổ. (6)
Lệ
Thân-Tư
giọt dài giọt vắn, Tần đình cảm động Khuyển-dưỡng,
Đại Ôi; (7)
Sáo
Ngũ-Viên
khúc nổi khúc chìm, Ngô thị vang lừng Hoành-tân, Thần-hộ,
(8)
Miệng
giọng quac vạch trời kêu giật một, giữa tầng không mù
cuốn mây tan;
Tay
ngòi lông vỗ án múa chầu ba, đầy mặt giấy mưa tuôn
sấm nổ.
Núi
cao reo bốn phía dội vang;
Buồng
kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ.
Chỉ
lối đem đường bài Khuyến học (9); trước sau mấy lớp
bạn thiếu niên chồng chất gót chân;
Rung
chuông gõ mõ sách Huyết thơ (10); tai mắt ba kỳ, người
hưởng ứng xôn xao tiếng mõ.
Chưng
khi ấy:
Anh
tài Âu Á hiệp mặt một nhà;
Đoàn
thể trong ngoài chia vai mấy bộ.
Kẻ
học môn này, người lo việc nọ.
Sách
Quang-phục (11) tính đà đủ chước, hai mươi năm từng
trải, kinh doanh ngón thợ tay thầy;
Hồn
nước nhà gọi đã hao hơi, ngàn muôn dặm xa xôi, mơ
tưởng rừng cây ngọn cỏ.
Hẳn
đã ngoài trời bay liệng, thảy đều trông côn hóa cánh
bằng;
Dầu
cho đường thế éo le, đâu đến nỗi trĩ vương lưới
thỏ.
Ôi
thôi!
Hùm
rủi sa cơ,
Chim
quay về tổ.
Thượng-hải
mấy tuần;
Hỏa
lò mấy độ.
Án
quốc phạm tử hình tòa đã kết, hồn còn dầu xác chết,
đầu đài toan trả nợ nước nhà xong;
Ơn
Pháp đình đặc cách điện vừa sang, tình bạn đãi người
cừu, kinh đô Huế lại đạp chân thành quách cũ.
Phải
như ai:
Mượn
chữ Tùy thời;
Quên
câu thủ tố.
Cát
lầm theo chiều gió đon đưa;
Đường
mật nếm miếng mồi cám dỗ.
Thôi
thì:
Sướng
đã đến đâu;
Muốn
gì chẳng có.
Xoay
ngọn cờ một cái, ngang dọc nhà lầu xe điện, kém gì
ai bả phú quý rêu;
Thả
quảng cáo mấy lời, huênh hoang hè hội đít-cua, cũng
thừa chán lối văn minh vỏ.
Song
le:
Lòng
giữ kiên trinh; cảnh cam cùng khổ.
Trống
kèn bốn mặt, tai chẳng thèm nghe;
Xe
ngựa đầy đường, mắt không thèm ngó.
Lò
thế lợi nung chì chảy thiếc, tuổi vàng cao mặc sức
lửa nung;
Biển
trầm mê cuốn rác trôi bèo, cột đá vững tha hồ sóng
vỗ.
Chốn
kinh thành về đã bao năm;
Lều
Bến Ngự nằm queo một xó.
Khi
ghế chiếc ba câu kệ Phật, đá cúi đầu nghe;
Lúc
thuyền trôi mấy chén rượu Tiên, núi nghiêng mình đổ.
Trò
chuyện xưa nay kiếm hiệp, ngày phăng phắc lặng, đàn
nói gươm bốn vách rì rền giông;
Bạn
bè Kinh Truyện thánh hiền, đêm dằng dặc dài, phòng đọc
sách một đèn hiu hắt gió.
Biển
Á trời Âu xa cách mấy, giấc mộng đi mây về điện,
vết
Hồng
(12) in tím lại khắp năm châu;
Sông
Hương núi Ngự quạnh hiu thay, tiếng reo trận gió hồi
mưa, cơn gà gáy dậy sôi bốn ngõ.
Nhà
ngọa du thu hẹp bức giang sơn;
Phường
hậu tấn trông vào đàn kỳ cổ.
Những
ước gan vàng mình sắt, dầu ngày mạt lộ, sống trăm
năm mà làm bạn quốc dân;
Nào
hay móc sớm sương mai, chán kiếp dư sanh, đau một bệnh
bỗng ra người thiên cổ.
Hỡi
ơi!
Trời
cướp danh nhân;
Đất
vùi ngọc thỏ.
Hào
kiệt đi đâu?
Non
sông trơ đó!
Hồn
cố quốc về chăng hay chớ, ào ào gió thổi, tứ mùa
đỉnh núi sóng thông reo;
Gương
vĩ nhân treo mãi chẳng mờ, vằng vặc nước trong, ngàn
thuở lòng sông vừng nguyệt tỏ.
Chúng
tôi:
Tiếc
đấng anh hùng;
Xét
tình dòng họ.
Uống
nước nên nhớ nguồn cơn!
Khắc
đá hãy ghi lời phế phủ.
Vàng
ngọc nhớ ơn chỉ bảo, rượu ba tuần dâng nén hương
tâm;
Tiên
trần rẽ ngã tử sinh, ngâm một khúc thay lời phỉ
lộ.
(13)
Nào
dám bảo sinh sau hơn trước, một lòng đến kính đưa
tiên sinh về cõi trường sinh;
Chỉ
cầu mong người khuất như còn, chín suối có thiêng dắt
hậu bối lên đường tiến bộ.
Hỡi
ôi! thương thay. (14)
Chú
thích:
(1)
Trâu
Lỗ:
Trâu là quê của thầy Mạnh Tử, Lỗ là quê của đức
Khổng Tử; nói rộng là nguồn gốc của Nho giáo, tức là
nói về nền Nho học.
(2)
Bảng
một tên:
Cụ Phan đỗ thủ khoa trường thi Nghệ An năm Canh Tí
(1900) với bài thi đạt kết quả tối ưu, được chủ
khảo trường thi Khiếu Năng Tĩnh cho yết tên tuổi, quê
quán vị giải nguyên trên một bảng riêng, 29 vị cử
nhân khác được yết trên một bảng khác.
(3)
Phan
Long:
Do từ câu Phan
Long Lân Phụ Phượng Dực
trong Hán thư. Ý muốn nói Phan Bội Châu mượn con đường
học Quốc Tử Giám tìm cách kết nạp đồng chí tạo nên
lực lượng, rồi lại dùng đến lá bài Cường Để
thuộc dòng đích hệ vua Gia Long, vin mình rồng, để mưu
đồ đại sự.
(4)
Lưu
Cầu:
Lưu
Cầu Huyết Lệ Tân Thư
cụ Phan viết năm 1903, tác phẩm truyền tay nhau đã gây
sôi nổi xôn xao khắp giới quan trường ở Huế.
(5)
Đồ
Cẩu:
Giết chó; thời Chiến quốc, hai nước Yên, Triệu có
nhiều nhân tài đại chí ẩn náu những nơi làm thịt
chó; tức nói đến việc Phan Bội Châu gian nan lặn lội
khắp nơi để tìm đồng chí.
(6)
Nói đến việc Phan Bội Châu đi tìm phương lược cứu
nước ở xứ Phù Tang.
(7)
Thân
Tư:
tức Thân Bao Tư, đời Đông Châu là tôi nước Sở, khi
Sở bị Ngô đánh, Thân Bao Tư cầu viện nước Tần. Tần
không chịu giúp, Bao Tư khóc lóc thảm thiết bảy ngày
đêm, không ăn uống gì cả, vua Tần cảm động mới chịu
đưa binh sang giúp Sở, đẩy lui binh Ngô. Đấy là nói đến
việc Phan Bội Châu cầu viện sự giúp đỡ của Nhật-bản,
và hai chính khách Nhật Khuyển Dưỡng Nghị và Đại Ôi
Bá tước đã giúp Phan rất nhiều trong thời kỳ cụ lưu
vong ở Nhật.
(8)
Sáo
Ngũ Viên
= tức tiếng sáo Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư người nước
Sở, văn võ toàn tài. Cha và anh Tử Tư bị Sở Bình Vương
giết chết, nên Tử Tư trốn qua Ngô tìm kế trả thù. Có
hôm, ở đất Mai Lý, Ngũ Tử Tư bỏ tóc xõa, bôi mặt
giả làm một người điên, tay cầm ống tiêu, vừa đi
vừa thổi khúc hát như vầy: “Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư!
Thù nhà nợ nước, tấm thân lưu lạc bơ vơ! Biết bao
giờ mới trả được hận thù. Ngũ Tử Tư ! Ngũ Tử Tư!
Một đêm lo nghĩ bạc đầu! Mối thù sâu! Nay chưa báo
đáp, nghĩ mãi lòng đau! Thù không báo được, dẫu sống
cũng dư.” (Đông
Châu Liệt Quốc, Quyển
hai, hồi 73, bản dịch Mộng
Bình
Sơn).
Ở đây, dùng hình ảnh Sáo Ngũ Viên để nói về bóng
dáng cụ Phan chạy vạy trên đất Nhật, khắp Hoành Tân,
Thần Hộ để tìm đường cứu quốc tồn chủng.
(9)
Khuyến
Học
= tức là Khuyến
Thanh Niên Du Học Văn,
cụ Phan viết năm 1905, Tăng Bạt Hổ mang về trong nước
để kêu gọi việc đưa thanh niên ra nước ngoài học
tập.
(10)
Huyết
Thư
= tức Hải
Ngoại Huyết Thư
cụ Phan viết năm 1906.
(11)
Quang
Phục
= tức Quang
Phục Quân Phương Lược
do Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu viết năm 1912, là
tài liệu huấn luyện nghĩa quân của Việt Nam Quang Phục
Hội.
(12)
Vết Hồng = dấu chân chim Hồng (Hồng trảo); dấu chân
của Phan Bội Châu in lại nhiều nơi trên đường bôn ba
cứu quốc.
(13)
Phỉ Lo
= tên một bài thơ trong Kinh
Thi
nói về việc tống táng.
(14)
Bài văn tế này được sao lục từ Cụ
Sào Nam 15 năm bị giam lỏng tại Huế
của Anh Minh. nxb Anh Minh, Huế, 1956; in lại trong Nguyễn
Quang Tô, Sào Nam Phan Bội Châu: Con Người và Thi Văn,
tủ sách Văn Học Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Sài
gòn, 1974, trang 351-355.