Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Hưng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Hưng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Thomas Fuller - Thời buổi khó khăn, bất đồng công khai và đàn áp công khai gia tăng ở VN



Thomas Fuller (NYT)
Hoàng Hưng dịch

TPHCM, VN – Các giá sách của ông ngập những tuyển tập Marx, Engels, HCM, dấu xác nhận cho một nghề nghiệp tận trung trong ĐCS, nhưng Nguyễn Phước Tương (tức GS Tương Lai – ND) 77 tuổi, nói ông không còn tin tưởng nữa. Nguyên cố vấn cho hai đời Thủ tướng, cũng giống như nhiều người VN hôm nay, ông Tương phát biểu mạnh mẽ chống lại chính quyền.


“Hệ thống của chúng tôi bây giờ là sự cai trị toàn trị của đảng”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn tại căn hộ của mình ở ngoại thành TP HCM. “Tôi xuất thân từ trong lòng hệ thống – Tôi hiểu tất cả mọi sai lầm, mọi khiếm khuyết, tất cả sự suy đồi của nó”, ông nói. “Nếu hệ thống không được chỉnh đốn, nó sẽ tự sụp đổ”. 

Đảng đã chiến thắng các lực lượng Nam VN được Mỹ chống lưng vào năm 1975, nay đang đối mặt nỗi giận dữ gia tăng trước một nền kinh tế suy thoái và bị chia rẽ vì sự tranh chấp giữa những người bảo thủ muốn duy trì các nguyên lý xã hội chủ nghĩa dẫn dắt đất nước và sự độc quyền quyền lực với những người kêu gọi một hệ thống đa nguyên hơn và hoàn toàn đi theo chủ nghiã tư bản.

Có lẽ quan trọng nhất là đảng đang cố gắng để đối phó với một xã hội được thông tin tốt hơn và có sự phê phán nhiều hơn vì những tin tức và ý kiến được lan truyền qua Internet đang phá vỡ hệ truyền thông do nhà nước kiểm soát.

Kể từ khi thống nhất đất nước 38 năm trước, ĐCS đã bị thử thách qua những cuộc đụng độ với TQ, Cambodia, những cuộc khủng hoảng tài chính và những sự chia rẽ nội bộ. Điều khác biệt hôm nay, theo Carlyle A. Thayer, một trong những học giả ngoại quốc hàng đầu về VN, là sự phê phán các nhà lãnh đạo “đã bùng nổ khắp xã hội”. 

Trong một hoàn cảnh khác của nền độc tài, những sự chia rẽ trong đảng đã thực sự khuyến khích tự do ngôn luận vì các phe phái hăng hái bôi nhọ lẫn nhau, TS Thayer nói. 

“Có sự mâu thuẫn ở VN”, ông nói. “Bất đồng nở rộ, nhưng đồng thời đàn áp cũng thế”. 

Khi những tiếng nói bất đồng đã nhân lên gấp bội trong số 92 triệu dân, chính phủ đã tìm cách ngăn chặn. Những phiên toà xử án tù nhiều blogger, nhà báo và nhà hoạt động, tuy nhiên sự phê phán, đặc biệt trên mạng, tiếp tục có vẻ không giảm sút. Chính phủ chặn một số trang mạng, nhưng nhiều người VN sử dụng phần mềm hay website để luồn qua kiểm duyệt.

“Thêm nhiều người tìm cách tự mình lên tiếng hơn trước để phê phán chính phủ”, Trương Huy San, một nhà viết sách, nhà báo, và blogger nổi tiếng, nói. “Và những điều họ nói lên mang tính nghiêm trọng hơn nhiều”.

Ông San, đang là nghiên cứu sinh tại Harvard, là tác giả cuốn “Bên thắng cuộc”, có lẽ là cuốn sách lịch sử VN mang tính phê phán toàn diện đầu tiên kể từ năm 1975 do một người ở trong nước viết ra. Được đọc rộng rãi ở VN, tác phẩm 2 tập mang bút danh Huy Đức đã được in mà không có giấy phép của chính phủ và mô tả những hành vi như thanh trừng những đảng viên không trung thành và tịch thu tài sản của các doanh nhân VN.

Đối với những người khách tình cờ đến thăm VN, chứng cớ bề mặt của sự tiến bộ về kinh tế có thể khiến họ khó lòng hiểu được nỗi bi quan sâu sa mà nhiều người biểu tỏ. Hàng triệu người một thập niên trước chỉ có một chiếc xe đạp giờ đây phóng vi vút trên xe gắn máy qua những xí nghiệp và cao ốc văn phòng. 

Sự nở rộ về kinh tế trong những năm 1990 sau đổi mới đã sinh ra một hỗn hợp rắc rối của nền kinh tế thị trường bị ĐCS kèm cặp một cách chặt chẽ. Đến bây giờ, kinh tế VN vẫn còn được dự kiến tăng khoảng 4-5% năm nay, nhờ một phần vào xuất khẩu mạnh mẽ gạo, cà phê và những nông sản khác. 

Nhưng thị trường bất động sản bị đóng băng do vượt quá khả năng tiêu thụ, ngân hàng đeo gánh nặng nợ xấu, báo chí chạy những tin tức về thất nghiệp gia tăng, và nước này bị xếp vào số nước tham nhũng nhất thế giới bởi Minh bạch Quốc tế, một tổ chức giám sát tham nhũng toàn cầu. (xếp hạng 132 trong danh sách 176 nước, số càng nhỏ là tham nhũng càng ít). 

Giới kinh doanh VN than phiền về những luật lệ của chính quyền quan liêu được áp đặt bởi một đảng vốn tin rằng mình là tiên phong của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Và nhiều người nói rằng VN đang mất phương hướng, bất kể nó có một nền công nghiệp không thể kiềm chế và có dân chúng trẻ trung. 

“Trong suốt 21 năm sống ở đây, tôi chưa bao giờ thấy mức vỡ mộng đối với hệ thống cao như thế này trong giới trí thức và doanh nhân”, ông Peter R. Ryder, Giám đốc điều hành Indochina Capital, một công ty đầu tư ở VN, nói. “Có sự tranh cãi đầy ý nghĩa trong cộng đồng doanh nhân và trong đảng – mọi người hết sức băn khoăn về hướng đi của đất nước”.

Trong Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân, một hội nghị họp vào đầu tháng 4, tổ chức bởi Ủy ban Kinh tế Quốc hội, những người tham gia “giành nhau lên micro”, theo lời Lê Đăng Doanh, một nhà nghiên cứu kinh tế hàng đầu tham dự diễn đàn mà ông mô tả là “bão táp”.

Ông nói có sự phê phán rộng rãi rằng mặc dù nền kinh tế cần có sự tái cơ cấu sâu sa, “nhưng hầu như chẳng có gì được thực hiện”. 

“Đó là sự khủng hoảng lòng tin”, ông Doanh nói. “Năm nào cũng hứa hẹn sẽ có thời kỳ tốt đẹp hơn, nhưng nhân dân chẳng thấy gì”.

Ở trung tâm cơn bão chính trị là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đã nắm quyền từ năm 2006. Phong cách ngạo nghễ (brash style) và chương trình tham vọng về kinh tế của ông Dũng thoạt tiên khiến ông được nhiều người ủng hộ vì ông phá vỡ cái khuôn nặng nề buồn tẻ của cán bộ đảng. 

Nhưng ông đã làm cho nhiều đảng viên giận ghét vì giải tán một ban cố vấn từng là lực lượng lãnh đạo đứng sau công cuộc đổi mới (trong ban này có ông Tương, học giả Marxist và nhiều đảng viên lão thành khác).

Quan trọng hơn, chính sách nổi bật của ông Dũng, thúc ép dựng lên các công ty quốc doanh theo đường lối các cheabol Nam Hàn, đã thất bại thay vì thành công như mong đợi. 

Được điều hành bởi những giám đốc có quan hệ thân cận với các cấp ĐCS, các doanh nghiệp này bành trướng ra nhiều lĩnh vực kinh doanh mà họ không có năng lực quản lý, các kinh tế gia nói thế, và đầu cơ vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Hai trong số các doanh nghiệp nhà nước lớn nhất gần như phá sản và vẫn gần như không trả được nợ. 

Ông Tương, học giả Marxist, nói sự căng thẳng trong ĐCS đã lên cao do những bất ổn về kinh tế.

Tháng Hai, ông giúp thảo lá thư ngỏ gửi Tổng BT đảng Nguyễn Phú Trọng, hối thúc những thay đổi về Hiến pháp để “bảo đảm thực quyền thuộc về nhân dân”. Ông vẫn chưa được trả lời.

Ông Tương nói ông đã hăng hái thúc đẩy sự thay đổi kể từ khi ông là cố vấn cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người đã giúp cải tổ nền kinh tế trong những năm 1990.

Nhưng giờ đây ông cảm thấy sức ép của thời gian. Ông bị ung thư, mặc dù căn bệnh có vẻ được thuyên giảm, và ông nói căn bệnh giống như một kiểu giải phóng trí tuệ thúc ông nói lên những gì giờ đây ông thấy là sự thật. 

“Nói tóm lại, Marx là nhà tư tưởng lớn”, ông nói. “Nhưng nếu chúng ta không bao giờ có Marx thì có lẽ còn tốt hơn”. 

T.F.
Nguồn bản gốc: nytimes.com
Nguồn bản dịch: Bauxite Việt Nam


Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Hoàng Hưng - Đảng phải tự lột xác nếu không muốn bị lột xác



Hoàng Hưng

Xin nói ngay rằng, đầu đề trên tôi lấy từ một ý kiến “góp ý với Đảng” trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm, lúc làn gió “Đổi mới” đang ào ào trên khắp đất nước (chưa bị Đảng chặn lại và cố thổi ngược sau đó). Lúc ấy, nhiều đảng viên cũng như trí thức các cỡ vẫn còn tin/hy vọng Đảng “đổi mới” thực sự và toàn diện.


Nhưng sau một lúc hoang mang trước khủng hoảng chính trị của cả phe XHCN và tạm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhờ đường lối tự do hóa, lại bấu chặt được vào kẻ thù chưa xa bỗng thành ra “bạn vàng” rất gần, Đảng trấn tĩnh lại và hạ quyết tâm chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị. Cho nên câu dự đoán táo bạo trên của một đảng viên tâm huyết tạm thời chưa đúng. Sau 20 năm, Đảng vẫn chưa bị lột xác, mà còn hăm hở lột xác ngày càng nhiều người bất đồng chính kiến.

Đến hôm nay, tình hình ra sao?

Đổi mới kinh tế sau 20 năm thu được một số thành tựu, nhưng đã nhanh chóng thụt lùi và lại đang ở đêm trước của cuộc khủng hoảng mới. Nguyên nhân chủ yếu: Đổi mới nửa vời, có tự do hóa (cho tư nhân kinh doanh) nhưng vẫn kiên trì “thành phần chủ đạo” kinh tế nhà nước. Kết quả đã biết trước: quả đấm “chủ đạo” này đấm thẳng như trời giáng vào nền kinh tế quốc dân.

Giờ Đảng lại phải sửa soạn cuộc “đổi mới” lần hai. Cũng vẫn tư duy cũ: chỉ đổi mới kinh tế (tiến thêm một bước: có thể không còn khẳng định “kinh tế nhà nước” là chủ đạo), còn chính trị thì đổi mới một cách rụt rè e thẹn (nhấn mạnh “trên giấy” quyền con người kèm theo đủ thứ ràng buộc để sẵn sàng tước bỏ trên thực tế,… nhưng vẫn khăng khăng “điều 4” hiến định sự độc quyền của Đảng).

Với tư duy ấy, kết quả những năm tới của đất nước cũng có thể biết trước: Nếu kinh tế nhà nước – tức sự độc quyền kinh tế - đã đấm nát nền kinh tế quốc dân, thì tới đây, độc quyền của Đảng trên lĩnh vực chính trị chắc chắn sẽ làm tan hoang toàn bộ đời sống xã hội vốn đang lao nhanh trên con đường băng hoại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.

Nếu 20 năm trước, Đảng quyết định biến kẻ thù cũ thành “bạn vàng” để bấu vào mà tồn tại, thì tình thế hôm nay không cho phép nữa! Thực tế đã chứng tỏ chính sự bấu víu này là nguyên nhân đẩy nhanh đất nước đến nguy cơ mất mát lãnh thổ, mất quyền tự chủ và nhiều hiểm họa khôn lường khác. Lòng dân đang hết sức bức xúc! Trước nguy cơ đánh mất tính chính danh của một đảng từng tự hào có công giành độc lập dân tộc, Đảng đang rất lúng túng tìm cách thoát ra nghịch cảnh “còn Đảng mất nước, còn nước mất Đảng”.

Là một người cầm bút từng chịu sự lãnh đạo của Đảng gần hết đời (không tự nguyện nhưng biết là chưa thể khác, chỉ cố gắng giữ gìn “chút lòng trinh bạch” bằng cách không vào Đảng và không nhận bất cứ bổng lộc nào của Đảng), tôi vẫn băn khoăn “nghĩ hộ” Đảng (vô duyên?) cách thoát ra an toàn (vì nó cũng sẽ an toàn cho toàn dân tộc). Nhiều Đảng viên ưu tú đã chân thành vạch lối ra cho Đảng, nhưng Đảng chưa chịu nghe mà còn sách nhiễu họ đủ điều. Đảng còn quá tự tin vào “chính quyền trên mũi súng” của mình, còn quá khinh thường lòng dân?

Nhưng với bản Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 vừa đây, mới mấy ngày đã thu được hàng ngàn chữ ký, trong đó lần đầu tiên có các cựu quan chức cao cấp và rất nhiều Đảng viên cỡ bự tham gia bất chấp mười mấy điều cấm mà Đảng ban hành, hồi chuông cấp báo đã rung lên! Triệt để và mạnh mẽ hơn hẳn Hiến chương 77 mở đầu cao trào dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 là dấu son lịch sử của cách mạng Việt Nam. Rất có thể nó sẽ dẫn đến một cuộc thanh trừng khủng bố khốc liệt, rất có thể hàng trăm người bị bắt, bị truy bức, bị đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm” hoặc “nhà thương điên”, bị đụng xe, bị côn đồ hành hung… nhưng sẽ không gì cưỡng nổi ngọn triều dân chủ cuồn cuộn mà Kiến nghị đã phát động.

Vào lúc này, tôi bỗng nhớ đến câu góp ý với Đảng trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm. Tôi muốn lấy lại câu ấy để nói với Đảng nhân ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930 – 3/2/2013). Với tất cả sự chân thành. Vì nhớ đến những ngày tháng đẹp đẽ trong quá khứ của Đảng, với bao người con ưu tú đã hy sinh thân mình vì nền độc lập, vì nhớ đến lòng tin của bao nhiêu trí thức đã lựa chọn đi theo Hồ Chí Minh trong đó có cụ thân sinh ra tôi, vì nhớ đến những ngày tháng thanh xuân đẹp nhất của mình đã nghe lời kêu gọi của Đảng nguyện lên đường phục vụ công nông binh, vì lòng yêu mến nhiều người thầy, người anh, người bạn đã và đang là những đảng viên trung thực của Đảng. Vì tấm gương Myanmar trước mắt khi nhà độc tài và người đối lập bắt tay nhau xóa bỏ quá khứ hận thù để xây dựng một đất nước của tương lai.

ĐẢNG PHẢI TỰ LỘT XÁC NẾU KHÔNG MUỐN BỊ LỘT XÁC!

Mà trước mắt, hãy bước đi một bước nhỏ nhưng sẽ là bước nhảy vĩ đại: tự xóa bỏ “Điều 4” phi lý nực cười trong Hiến pháp. Nhân đây xin sửa câu nói thiếu thông minh của một người đồng tuế: “Bỏ điều 4 là tự sát” thành “Bỏ điều 4 là tự cứu”!

SG cuối tháng 1/2013

H. H.
Nguồn: Bauxite Việt Nam


Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Hoàng Hưng - Mỹ thuật và chính trị

Hoàng Hưng

Đây là bài cuối cùng trong cuốn sách “Viềt về Mỹ thuật” – cuốn thứ 7 trong bộ HHEBOOKS mà tác giả trân trọng tặng bạn bè gần xa nhân dịp tác giả tròn 70 “xuân”. Cuốn sách tập họp một số bài viết qua hơn 20 năm theo dõi, học hỏi, giao lưu và viết về Mỹ thuật cho báo Lao Động – tờ báo được coi là đi đầu trong việc quảng bá nền Mỹ thuật đương đại VN sau “Đổi mới”.

Nhớ hồi đầu thập kỷ 1990, lúc mỹ thuật VN chuyển mình sang thời kỳ mới, thoát khỏi cả truyền thống “thuộc địa” lẫn “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, họa sĩ kiêm nhà phê bình mỹ thuật có ảnh hưởng lớn với thế hệ mới, Nguyễn Quân, đã nhận xét: “Mỹ thuật VN không có thói quen dấn thân”. “Chim hoa cá gái” cũng là cụm từ hài hước do anh chế để nói về cảm hứng chủ đạo của mỹ thuật nước nhà. Trong lúc đó, mỹ thuật Trung Quốc đã qua một thời sôi động “những bức tranh có sẹo”, “nghệ thuật của những ngưởi bị tổn thương”, hay phong trào “Mao pop”… với ý thức phản ứng chính trị công khai của các tác giả. Cũng trong lúc ấy, văn học VN đã có một thời rộ lên những tiếng nói “đổi mới” có nội dung chính trị xã hội thật sự (rồi bị chặn lại).

Tại sao MT VN “sau đổi mới” vẫn cứ giãy nảy “Em không nói chuyện chính trị đâu nhé!”. Đã đành sự sợ hãi mà nhà cầm quyền đã gieo trồng cực kỳ hiệu quả kể từ vụ Nhân Văn-Giai Phẩm trên cả cánh đồng tinh thần của dân tộc, đối với riêng MT, còn thêm một yếu tố: Ngay từ khi ra đời, MT hiện đại VN, đứa con tinh thần của Trường Cao đẳng MT Đông Dương, đã mang đậm tính “salon”, đối tượng của nó là tầng lớp trưởng giả đô thị, cứu cánh của nó là “cái đẹp” nghệ thuật vị nghệ thuật. Sau khi thoát khỏi vòng kim cô “hiện thực xã hội chủ nghĩa” trong đó “phục vụ chình trị” (một cách thô thiển, lấy “tuyên truyền” là mục đích) là nội dung chủ đạo, MT như hả hê quay lại đúng như nó từng là trước cách mạng. Vả lại, còn có thể làm gì hơn với những bức tranh chỉ có thể sử dụng trên tường phòng khách hay phòng ngủ các nhà giàu?

Sang đầu thế kỷ mới, tình hình rõ ràng là khác, khi xu hướng mỹ thuật khái niệm, mỹ thuật ngoài giá vẽ, tiến tới mỹ thuật công cộng (public art), cụ thể qua các thể loại sắp đặt, trình diễn, video… với một thế hệ tác giả trẻ có tư duy mở rộng, tiếp nhận ngày càng sâu rộng những giá trị phổ quát Tự do, Nhân quyền, Dân chủ. Ta bắt đầu nghe được những tiếng nói chính trị xã hội cất lên trong Mỹ thuật.

Tất nhiên, với sự kiểm duyệt “toàn diện, triệt để” của “các cơ quan chức năng”, những tiếng nói này còn khá hiếm, và nhiều khi chưa kịp ra khỏi họng thì đã bị chẹn.

Phải nói tinh thần cảnh giác của các nhân viên có trách nhiệm giữ gìn an ninh văn hóa không chê vào đâu được. Thoáng thấy cái gì khác thường hay khó hiểu là họ rat ay liền. Một chuyện vui: Trong ngày duyệt tác phẩm của Festival Huế 2004, có một cô họa sĩ “trình diễn” màn “kịch câm” sau: Cô mặc áo dài, trên áo kẹp vô số cây kẹp quần áo, ngồi im như phỗng giữa một cái mùng làm bằng dây thừng nhuộm đỏ. Hội đồng duyệt do một ông Phó Thủ tướng đích thân cầm đầu, đi theo là bộ sậu ban bệ. Đến chỗ “tác phẩm” của cô, một vị trong đoàn chất vấn, giọng bực bội: “Cô muốn nói gì? Có phải muốn nói nghệ sĩ bị kìm kẹp, không có tự do?” May mà, có lẽ thấy cô có vẻ hiền lành ngây thơ, ông Phó TT gạt đi: “Thôi đừng suy diễn, làm khó cô bé”. Và ông quay sang cô, giọng thân mật: “Bác cũng có đứa cháu gái học mỹ thuật, nó cũng có nhiều ý tưởng lạ lắm!”, rồi dẫn đoàn đi sang “tác phẩm” khác. Thế là cô thoát!

Nhưng đó là một may mắn hiếm hoi. Còn phần lớn câu chuyện sẽ diễn ra như với cái “Bỉm” của họa sĩ Trương Tân trong cuộc triển lãm mang tên “Come-in”  do Viện Goethe Hà Nội và Viện Văn hoá Ðức (IFA) tổ chức tại Trường Ðại học Mỹ thuật Hà Nội tháng 1.2007.

Hãy để họa sĩ Minh Thành thuật lại:
“Còn Trương Tân thì với tài nghệ may vá, anh làm một bức điêu khắc bằng vải. Ðó là một chiếc Bỉm thay cho tã lót trước kia của các em bé nhưng được phóng với tỷ lệ 1:10 nghĩa là gấp 10 lần kích thước thật. Khi lại gần thì thấy phía trong của chiếc Bỉm được lát bằng một lớp túi áo ngực (138 cái) ngay ngắn và đều đặn. Những túi áo ngực này có kích thước và hình dáng chính xác như thật, được may bằng vải màu vàng nhạt na ná như màu đồng phục của cảnh sát giao thông Việt Nam hiện nay. Nhìn cái túi áo ngực là nhớ ngay ra hình ảnh cái áo mà người ta quen gọi ngày trước là áo đại cán. Khi tôi đến xưởng, nơi anh làm việc, anh cho tôi xem cái áo công an cũ mà anh đã mua ở đường Lê Duẩn, cạnh ga Hàng Cỏ. Những cái túi áo này chính là thủ phạm gây nên việc công an đến và không cho trưng bày, cho dù đã xin được giấy phép từ Vụ Mỹ thuật. Nghe đồn rằng, công an nói đó là hình ảnh túi áo của tấm áo mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày xưa từng mặc. Thì đây tôi cũng chỉ nói lại theo dạng tin đồn, chứ không biết có thực thế hay không và chúng ta cũng chỉ hiểu nó ở dạng tin đồn. Nhưng những túi áo ngực mà Trương Tân dùng làm lớp đệm phía trong của chiếc Bỉm phóng đại này, với riêng tôi thì đúng là giống hệt như ở cái áo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc trong nhiều bức ảnh” (Talawas.org).

clip_image001 clip_image002 
Trương Tân và “Bỉm”

Có chuyện này liên quan chắc ít người biết. Chính cái việc CA bắt gỡ bỏ cái “Bỉm” này đã khởi đầu sáng kiến viết kiến nghị, thư ngỏ online ở Việt Nam.

Sự việc trên gây ra sự phẫn nộ của một số họa sĩ và trí thức yêu nghệ thuật ở Hà Nội, trong đó có ngưởi viết bài này. Do các anh Dương Tường, Phạm Toàn khởi xướng, chúng tôi gồm khoảng mười người (số trẻ là nhiều) đã thảo ra và ký một thư ngỏ gửi các cơ quan trách nhiệm phản đối vụ việc và nhân đó đòi họ có thái độ đối xử văn minh và đúng pháp luật với các phẩm văn học nghệ thuật. Tiếc rằng bức thư đã không được gửi đi, do ông Viện trưởng Viện Goethe tha thiết xin “hạ tông” vì ngại ảnh hưởng đến công việc sau này của Viện! (Tuy nhiên, đó đã là cuộc “thử” cần thiết dẫn đến thành công ngoạn mục của Kiến nghị về việc thu hồi tập Thơ Trần Dần sau đó đúng 1 năm).

Đến Festival MT trẻ (2007) ở Hà Nội thì cuộc đương đầu họa sĩ – người kiểm duyệt thành ra công khai, gay gắt, và dẫn tới sự thỏa hiệp. Có hai tác phẩm bị Hội đồng duyệt bỏ: “Ngoài kia là ánh mặt trời” (installation của Lê Huy Cửu) dựng bốn bức tường (giả) có khoá xích (thật), bên trong là những đám người bằng đất nung nằm ngả ngốn quanh một cây đèn dầu cỡ lớn, hoặc đứng xếp hàng trước những tấm cửa khoá. “Sống chật” của Phạm Ngọc Viễn Thành là một performance trong một installation: Một buồng kính nhỏ hẹp chỉ đặt vừa cái bồn cầu, bên trên bồn cầu là chậu cây, phía trên đầu là lồng chim có con chim thật. Tác giả trình diễn trong đó: ăn bánh mì, đọc báo, vẽ… Hội đồng duyệt cho để phần installation nhưng không cho performance. Riêng tác phẩm “Cột chiến thắng” của Đinh Gia Lê thì bản chữ bên dưới: "Vô cùng thương tiếc" bị kiểm duyệt bỏ.

Cái mới trong dịp này là tiếng nói phản ứng chính thức từ những “quan chức” trong Hội nghề nghiệp, như Đào Minh Tri: "Làm sao để mỹ thuật phát triển được, nghệ sĩ thoải mái… Con đường tất yếu là phải có luật chung, thể chế hóa, để nghệ sĩ hiểu và tự chịu trách nhiệm, mới tránh được tình trạng duyệt theo cảm giác cá nhân, pa-đờ-suy (tiếng lóng: suy diễn, chụp mũ)" (Sau Festival này, Đào Minh Tri, người tổ chức chính đã bị tai biến não, di chứng cho đến bây giờ!).

clip_image003 
“Cột chiến thắng” (Đinh Gia Lê)

clip_image004 

“Ngoài kia là ánh mặt trời” (Lê Huy Cửu)

Tuy nhiên, đâu đó cũng có những tác phẩm lọt qua lưới kiểm duyệt nhờ tính biểu tượng khái quát chứ không quá cụ thể của nó, nhất là khi tác giả có bản lĩnh, biết “to mồm” cãi khi cần thiết.

Lê Quảng Hà là một họa sĩ như thế. Tác phẩm hội họa hay sắp đặt của anh bao giờ cũng mạnh mẽ, khiêu khích, kết hợp được sức ám ảnh của chủ nghĩa xuất biểu (expressionism) với cú đấm thẳng của pop art. Anh thường gặp khó là chuyện dễ hiểu, như trường hợp một triển lãm năm 2001 của anh “suýt” bị huýt còi, cuối cùng anh phải chịu bỏ một số tác phẩm mà theo lời giải thích mơ hồ mang “tính xã giao của những người làm công tác bảo vệ văn hoá rằng: "Nói thật, tôi cũng không hiểu lắm về nghệ thuật nhưng mà có vấn đề..." (LQH trả lời báo Tiền phong). Nhưng cứ như hai tác phẩm “Nhà tù” và “Người phát ngôn” dưới đây thì thông điệp chính trị không đến nỗi khó hiểu của tác giả đã đến được với công chúng:

clip_image005 
clip_image007 
clip_image008 
Trần Lương trình diễn “đánh răng” trước Thiên An Môn

Trong thế hệ trẻ hơn, cũng có những người biết tận dụng “biều tượng” để gửi gắm những thông điệp không dễ chịu chút nào. Như màn trình diễn “Những con lợn vui vẻ” của Phạm Huy Thông trong cuộc thi nghệ thuật trình diễn 2008 tại Hà Nội. Ta hãy hình dung màn diễn qua lời thuật của Như Huy:
Được khiêng bởi hai bạn diễn, Phạm Huy Thông, trong một chiếc rọ thường dùng để nhốt lợn được bọc kín mít bằng các tờ báo. Âm thanh thu từ một lò mổ được phát ra ầm ĩ, tiếng lợn kêu thét vì bị chọc tiết kéo dài suốt màn trình diễn, xen lẫn là tiếng các đồ tể trao đổi với nhau. Từ trong rọ lợn, nghệ sĩ tìm cách thoát ra, dùng đôi tay thò ra ngoài, xé báo, bẻ nan. Quá trình này diễn ra khoảng 5 phút. Ngay sau đó, hai bạn diễn, với trang phục tương tự như Huy Thông, lao tới và lật rọ xuống. Thế rồi cả hai tìm cách đạp và đánh thật mạnh vào rọ, nơi lúc này Huy Thông đã bắt đầu bò ra được một chút. Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực, nghệ sĩ cũng chui ra được khỏi rọ (lưu ý là tiến trình này diễn ra trong những tiếng kêu thét liên tục và chói tai của những con heo bị chọc tiết trong lò mổ). Ngay khi nghệ sĩ ra khỏi rọ, cả hai bạn diễn đồng thời rút còi trong miệng ra thổi thật lực. Màn trình diễn kết thúc trong một hỗn độn cực điểm của các âm thanh váng óc của tiếng heo kêu, tiếng còi rít” (talawas.org).

Một số tác giả không trực tiếp biểu lộ thái độ về các vấn đề chính trị, nhưng đặt ra những vấn đề xã hội hiện thời, thì đó cũng là thể hiện thái độ chính trị ở góc độ góc nhìn công dân.

Có khi với một thái độ phê phán, châm biếm rõ rệt, như Dự án “Trang hoàng cho cây xà cừ đường Láng” của Trần Hậu Yên Thế (2008). Đường Láng ở Hà Nội nổi tiếng với hàng cây xà cừ cổ thụ, nhưng nổi tiếng hơn nhiều do hệ thống liên hợp quán nhậu, karaoke, massage, nhà nghỉ… mà ai cũng biết bên trong ẩn chứa cái gì. Tác giả đã tổng phê, châm tình trạng xã hội này qua những ý tưởng độc đáo đa phương tiện:
“Chiến” là một phần của dự án: Nghệ sĩ trong trang phục một nam thanh niên đội mũ cối mặc áo phông đi đến tất cả các nhà nghỉ dọc hai bên bờ sông Tô Lịch, đoạn từ Ngã Tư Sở đến Cầu Giấy. Vào tới nhà nghỉ nào, người thanh niên này cũng hỏi một câu: Ở đây chiến có an toàn không? Sau khi nhận được những câu trả lời, anh ta xin nhân viên lễ tân tấm danh thiếp nhà nghỉ. Trong triển lãm sẽ trưng bày các tờ danh thiếp – mặt sau ghi những lời đáp của nhân viên lễ tân.

Cũng có khi tác giả không tỏ rõ thái độ, mà chỉ gợi ý khơi mở những cảm nghĩ đa chiều về một vấn đề, một sự kiện. Như trong tác phẩm “Quá khứ di dời” (The Past Moved) của Bùi Công Khánh.

Cảm hứng từ cảnh lưu luyến của người dân với nơi ở cũ là một khu ổ chuột ở Quận 4 TPHCM bị giải tỏa để xây cao ốc, anh vẽ lại cảnh khu nhà rồi sắp đặt trong studio như một cái phông ở tiệm chụp hình. Anh mời những người dân từng sống ở đây đến đứng trước cái phông ấy và chụp hình họ: một bà chủ quán ăn bình dân, một anh xe ôm… Tiếp đó anh lại mời những người bạn sống ở nơi khác đến: một doanh nhân, một trí thức trẻ,… Kết quả thật thú vị: sự khác biệt rất lớn giũa hai nhóm người. Nhóm thứ nhất hoàn toàn tự nhiên, thoải mái vì cảm thấy mình “thuộc về” đúng cảnh này. Nhóm thứ hai không giấu nổi sự ngỡ ngàng, và phải cố gắng “lấy dáng” để chụp hình trước cái khung cảnh “không thuộc” về mình.

Thông điệp của Bùi Công Khánh không dễ nắm bắt, càng không dễ suy diễn. Nhưng nó gợi suy tư về những những mặt mâu thuẫn trong cuộc sống, về lịch sử một vùng đất, về sự mất mát của quá trình đô thị hóa…

Cách phát biểu về xã hội chính trị ở những tác phẩm kiểu này dường như là một lựa chọn “dấn thân vừa phải” của không ít họa sĩ VN bây giờ. Không còn né tránh, sợ sệt, tự kiểm duyệt nhiều khi vô lý, “thần hồn nát thần tính”, nhưng cũng tránh xa việc thách thức trực tiếp, gây scandal…

Với nhiều hạn chế thấy rõ, có thể ghi nhận Mỹ thuật VN đã “bước qua lời nguyền” lấy “chim hoa cá gái” làm chủ đạo để vượt lên thân phận salon, dần dần xứng đáng là nghệ thuật của con người Tự Do, có trách nhiệm với đời sống cộng đồng.

clip_image010 
Bùi Công Khánh trước phông cảnh khu ổ chuột

clip_image011 
Một tác phẩm gợi nhiều cảm nghĩ thời sự của Trần Trọng Vũ




Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Bauxite Việt Nam - Thực chất những thứ gọi là “bị can đã nhận tội và xin khoan hồng”



Bauxite Việt Nam
Vụ án nữ sinh Nguyễn Phương Uyên đang sôi động sau lá thư khẩn của nhiều trí thức, nhân sĩ và người dân các tầng lớp gửi Chủ tịch nước nêu rõ những khuất tất trong việc bắt cô và kiến nghị trả tự do cho cô vì những hành động xuất phát từ lòng yêu nước. Một số cơ quan chức năng vừa công bố quyết định khởi tố vụ án chống Nhà nước với bản nhận tội và xin khoan hồng của Nguyễn Phương Uyên, song không ít ý kiến trên mạng tỏ ra nghi ngờ việc này. Tại sao? Rất đơn giản: Đây không phải lần đầu tiên Công an VN dùng những “biện pháp nghiệp vụ” để có được những lời “nhận tội và xin khoan hồng” như thế. Trường hợp nhà thơ Hoàng Cầm trong vụ án “Về Kinh Bắc” là một điển hình – Xin hãy đọc lại bài viết của Hoàng Cầm đăng trên Talawas năm 2007.
Mọi âm mưu kích động bạo loạn, vũ lực để chống chính quyền thì ở nước nào cũng là có tội. “Tuyên truyền chống Nhà nước” mà Luật của ta định ra thì quá mơ hồ, mập mờ. Đã đến lúc phải sửa hoặc bỏ “Điều luật hai cái còng” này. Nhưng trước khi đó, tối thiểu cũng phải biết bắt, giam giữ, lấy cung, xét xử thật đúng luật, thật công khai minh bạch, đàng hoàng từ đầu đến cuối (nếu chính quyền tự tin là mình đúng). Một sự bất tín, vạn sự bất tin. Chỉ cần “hai cái bao cao su đã qua sử dụng” là đủ để bắt Cù Huy Hà Vũ, nhưng cũng đủ để những người lương thiện không tin ông có tội. Chỉ cần xử án không cho người dân tự do vào coi, không cho tranh tụng ra ngô ra khoai, không xét xử trên cơ sở tranh tụng, là đủ để kết án bất kỳ ai bất kỳ bao nhiêu năm tù, nhưng cũng đủ để cho những người lương thiện không tin vào bản án. Thật đơn giản, các “cơ quan chức năng” đều biết cả đấy, nhưng tại sao vẫn làm như họ vẫn làm?

Hoàng Hưng

Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn
(Tâm tình với bạn đọc talawas)

Hoàng Cầm

Tập thơ Về Kinh Bắc (NXB Văn học 1994) không được nêu tên trong danh mục những tác phẩm được Giải thưởng của Nhà nước Việt Nam lần thứ V, nhưng trong các tập thơ Bên kia sông Đuống (NXB Văn hoá 1993), Lá Diêu bông (NXB Hội Nhà văn 1993), 99 tình khúc (NXB Văn học 1999) được nêu trong giải thưởng, có rất nhiều bài nằm trong bản thảo Về Kinh Bắc, trong đó có đủ những bài thơ chủ yếu bị quy kết là phản động hồi những năm đầu thập kỷ 1980 (“Cây tam cúc”, “Lá Diêu bông”, “Quả vườn ổi”…). Để bạn đọc có dịp đọc toàn bộ tập thơ đã trở thành một di sản văn hoá nước nhà trong bản chính thức của nó, chúng tôi đã đề nghị chính tác giả Hoàng Cầm cung cấp tài liệu. Nhà thơ đã vui vẻ nhận lời và nhân dịp này, có đôi lời tâm sự với bạn đọc. - Talawas

Hoàng Cầm
Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự "đỡ đầu" (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.

Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat [1] ), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả…

Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò [2] bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ "Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa" là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được.

Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù. Vì vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải sống, còn tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có giá trị thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoãn, cốt để được về. Tôi vừa đọc xong, anh ta chồm dậy, bắt tay tôi rối rít và cảm ơn cảm ơn hai lần liền, sau đó cho người đi mua phở cho tôi ăn. Anh còn tuyên bố: "Chúng tôi sẽ đề nghị để Tết này anh được về". Tôi mừng quá, viết thư về cho bà Yến [4] báo tin vui. Thế là suốt những ngày gần Tết năm ấy tôi cứ khấp khởi đợi chờ. Sau này tôi biết bà Yến nhà tôi cũng trong tâm trạng ấy. Sáng 30 Tết bà bắt anh con rể mang xe đến chờ ở cổng Hoả Lò suốt từ sáng tới tối. Nhưng thực tế là tôi không được thả như lời hứa của công an mà ngay mồng 4 Tết thì bị chuyển tới "xà lim bộ" [5] và tiếp tục bị giam, tổng cộng là 18 tháng.

Vì sao lại có chuyện thay đổi như thế? Có phải anh công an tên N. đã nói lừa tôi cốt để tôi nhận tội cho được việc của anh ta? Tôi cũng không rõ sự thực thế nào, cho đến một hôm sau khi đã ra tù, tôi tình cờ gặp một anh công an thụ lý khác (xin phép không nêu tên) ở quán bia Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Trông thấy tôi anh mừng lắm, anh mời tôi vào uống bia để tâm sự. Anh nói là anh đã ra khỏi ngành, và anh kể cho tôi một chuyện khá bất ngờ. Chuyện đại ý như sau: Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ [6] gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: "Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm". Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu [7] . Ông lập tức hạ lệnh: "Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!".

Thái độ cứng rắn đến nghiệt ngã của Tố Hữu với riêng tôi cũng như với các anh em Nhân văn-Giai phẩm rất nhất quán. Ngay cả đối với những sáng tác mà anh em chúng tôi tìm lối mới vào cuối những năm 1950 nói trên, ông cũng rất ghét, mặc dù không biết ông có đọc hay không. Lại nói là sau khi bốn người chúng tôi bật ra được thứ thơ ấy, ai cũng mãn nguyện vì đã lộ rõ cốt cách từng người. Riêng tôi thì ngay từ lúc viết xong Về Kinh Bắc, tôi đã tin là nó có giá trị, có đóng góp cho văn học nước nhà. Tuy tôi không dám truyền đi rộng rãi, chỉ cho vài người bạn đọc, nhưng rồi nó được tự động lan truyền, đặc biệt có những bạn sinh viên trẻ say mê nó lạ lùng. Phải nói tình yêu đối với Về Kinh Bắc có cái gì đó rất đặc biệt. Tôi không tin là tập thơ dễ hiểu chút nào, đặc biệt là phần Nhịp một với "những đêm ngũ hành" kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Ngay nhà thơ Lữ Huy Nguyên, cố Giám đốc NXB Văn học, cũng thú thực với tôi rằng: "Em in cho anh thì cứ in chứ nói thật là em chỉ hiểu được 1/4 tập thơ". Đến anh công an thụ lý N. sau khi tôi nhận tội cũng thú nhận: "Thực tình tôi chẳng hiểu anh nói gì, bây giờ anh khai ra tôi mới biết ý đồ chống Đảng của anh, thì ra anh thâm thuý thật!".

Việc chúng tôi sáng tác những tác phẩm mới nhanh chóng được báo cáo với Tố Hữu. Một người bạn được tham dự buổi họp tuyên giáo mở rộng kể với tôi rằng trong cuộc họp Tố Hữu đã cảnh báo: "Tụi Trần Dần Hoàng Cầm… bây giờ đang thực hiện đúng khẩu hiệu phục xuống sáng tác mà Văn Cao đã khởi xướng. Phải canh chừng và dập tắt ngay".

Đây là lần đầu tiên tôi nói rõ một số chuyện liên quan đến Về Kinh Bắc, nói ra để khép lại những cái đau buồn ấu trĩ của một thời. Bây giờ, tôi xin các bạn thưởng thức nó vượt qua mọi bối cảnh chính trị xã hội, thưởng thức nó như một tác phẩm nghệ thuật mà đến hôm nay tôi vẫn thấy hài lòng.

H.C.

–––––––––––––––––
[1]Bằng tiểu học (Certificat d'études primaires) – Chú thích trong bài của talawas
[2]Trại giam của Pháp ở phố Hoả Lò, mang tên Maison Centrale, sau này là trại tạm giam của công an Hà Nội cho đến cuối thập kỷ 1990. Tác giả bị bắt vào đây ngày 20/8/1982 sau khi công an phát hiện có "âm mưu" tuồn bản thảo Về Kinh Bắc ra nước ngoài.
[3]Chính tả (các chú thích đều của talawas)
[4]Bà Lê Hoàng Yến, vợ tác giả
[5]Trung tâm thẩm vấn của Bộ Công an ở ngoại thành Hà Nội.
[6]Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lúc ấy.
[7]Lúc đó là Phó Thủ tướng thường trực, đồng thời vẫn là người lãnh đạo về văn hoá tư tưởng.
Nguồn: talawas.org


Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2012

Hoàng Hưng - Ba mươi năm "Về Kinh Bắc"


Hoàng Hưng

Ba mươi năm thoắt như giấc mộng. Kể từ buổi chiều oan nghiệt (ngày 17/8/1982) khi chiếc xe bịt bùng chở mình từ đồn Công an Hàng Bạc về thẳng Hỏa Lò, mở đầu vụ án văn tự có lẽ là kỳ quái nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Đến hôm  nay vẫn không biết nên cười nhiều hơn hay mếu nhiều hơn! (Chi tiết vụ án đã được kể trong bài “Về Kinh Bắc: một vụ án “hậu Nhân Văn” viết nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày ra tù, 2010).


Hôm nay nhắc lại chuyện cũ vì một kỳ duyên mới: Sau 30 năm, thật bất ngờ gặp lại cố tri, “tang vật” chính của vụ án: tập chép tay Về Kinh Bắc mà anh Hoàng Cầm chép tặng, với chữ ký của người can tội “lưu truyền văn hóa phẩm phản động” (tức là tôi) xác nhận trên từng trang. Trang đầu Hoàng Cầm viết bằng chữ đỏ: Chép gửi Hoàng Hưng, cho mai sau của chúng ta. Hànội tháng Tám 1982, với hình vẽ đầu một cô gái đẹp.  (Mười hai năm sau, cái “mai sau” ấy thành hiện thực, khi Về Kinh Bắc được xuất bản chính thống, anh Hoàng Cầm vẽ lại bìa tập thơ có hình cô gái y như thế để tặng tôi và một số người thân). Kèm một trang có hình vẽ màu nước ba cái lá (chắc là “lá Diêu Bông”) mà anh Văn Cao vẽ làm bìa tập thơ theo yêu cầu của tôi. Lại thêm cái bìa montage siêu thực mà ông Trần Thiếu Bảo hứng chí làm chơi. Nhưng thiếu những phụ bản mà tôi xin họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ cho, thể hiện các cô gái quan họ quen thuộc của ông. Các cô giờ lưu lạc nơi đâu?

Chẳng biết con đường lòng vòng nào đã đưa “tang vật” này đến tay nạn nhân-chủ nhân của nó sau 30 năm lưu lạc. Còn nhớ 10 năm trước, trong ngày sinh nhật thứ 80 của Hoàng Cầm tại nhà thi sĩ, thiếu tướng Phạm Chuyên, giám đốc CA Hà Nội, đã hứa trước mặt nhiều văn nghệ sĩ là sẽ tìm để trả cho tôi báu vật này. Ít lâu sau ông bắn tin là tìm không thấy. Thì ra nó đã lọt ra ngoài từ bao giờ!

Thì giờ đây cũng có thể coi là “châu về hợp phố”! Có phải Ý Trời để chính thức khép lại mọi ân oán của vụ kỳ án này?

Đối với hai nạn nhân của vụ “Về Kinh Bắc”, anh Cầm thì đã ngậm cười nơi chín suối, còn tôi cũng dần dần “ngộ” lẽ tha thứ và thương cảm của Đức Như Lai, chuyện ân oán chẳng còn bận tâm.

Nhưng chừng nào những người hữu trách vẫn không chịu thay đổi cái chính sách gọi theo từ nhà Phật là “vô minh” – vẫn tìm cách dập tắt các tác phẩm nghệ thuật, báo chí, nói rộng ra là các tư tưởng mà họ tùy tiện áp đặt tội danh “phản động”, bất chấp sự thực là những tác phẩm ấy không cần chờ quá lâu để được xã hội tôn vinh - thì ân oán còn “trùng trùng giao kết căn duyên” (Nhập Môn, thơ HH).

Tôi đã có lần nói với các sĩ quan an ninh “làm việc” với mình: “ Các anh nên nhớ rằng chính trị là chuyện nhất thời, còn văn hóa thì sống mãi.” Nay muốn nói thêm: Chính trị hóa văn hóa là tự chuốc họa cho chính mình, vì tự tạo ra kẻ thù không đáng có. Thay vì thế, xin hãy một lần thực tập “pháp môn lắng nghe”, lắng nghe những tiếng nói khác biệt, những tiếng nói phản biện, cả những tiếng nói đối lập. Đó là con đường duy nhất để đạt được sự đồng thuận của dân tộc trước hiểm họa lớn lao của đất nước.

Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm vụ “Về Kinh Bắc”, tình cờ cũng là năm sinh nhật thứ 90 của Hoàng Cầm, thứ 70 (đã là “xưa nay hiếm”) của bản thân, tôi xin trân trọng công bố toàn vẹn bản chép tay quý báu của Hoàng Cầm với tranh bìa của Văn Cao và Trần Thiếu Bảo. Đây cũng là mở đầu cho việc lần lượt công bố trên mạng mấy bản thảo của tôi đã nhiều năm nay không xin được giấy phép xuất bản. Xét thấy mình thật vô duyên, cứ cố “xin” mãi mà người ta không “cho”, mà có cho thì chắc cũng chỉ in được vài trăm cuốn không biết có ai mua trong tình hình khủng hoảng thị trường sách in hiện nay, vậy tội gì mình không EBook cho nó “phẻ”? Tôi bèn coi đây là mở đầu cho bộ sưu tập HHEBOOKS, trước hết phục vụ cho bản thân, sau đó là chia sẻ với đồng bào mạng, mong nhận được ít nhiều đồng cảm.

Tháng 8/ 2012

Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2012

Hoàng Cầm - HOÀNG CẦM Ở “XÀ LIM BỘ”


Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi lại

Nhiều năm trước khi anh Hoàng Cầm qua đời, lần nào đến chơi với anh trên cái chuồng cu nhà 43 Lý Quốc Sư tôi cũng giục anh tập trung thời gian kể lại chuyện đời mình cho bạn bè nghe, và từ đó sẽ làm thành một cuốn hổi ký. Kẻo muộn, bạn già như sợi chỉ manh! Anh lười, khất lần, nhưng tôi ép tới, nên cuối cùng anh phải nghe. (Tôi cũng thường giục anh Lê Đạt như thế, nhưng anh cứ bảo: “Chưa đến lúc, tớ còn sống lâu chán!”).Từng đoạn, từng mảnh đời Hoàng Cầm được nhớ lại, kể lại như thế… Rồi cái nào hợp tai “chính thống” thì anh viết ra, cho đăng báo, kiếm tiền đi lại với… nàng tiên. Còn những cái nghịch tai? Thì cứ để đấy, sớm muộn cũng có lúc… Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm vụ án “Về Kinh Bắc”, tôi xin kể lại một đoạn mà anh đã kể về những ngày ở “xà lim bộ”.

*

“Thế là lời mấy người CA xét hỏi của HN hứa cho mình về trước Tết (1983) thành ra xuông. Ngày 5 Tết mình được lệnh chuyển trại. Ngoài “nội vụ” (tức toàn bộ tư trang của tù nhân, chủ yếu là mấy bộ quần áo cũ - HH), còn cái túi quà Tết bị nhận muộn, trong có cái bánh chưng thiu, miếng giò mỏng cũng thiu, gói kẹo và gói muồi vừng đã chảy nước... Anh CA tên H., một con người khá là thâm, vuốt ve: “Lên trại giam của bộ mong anh thành khẩn thêm đề sớm được về với gia đình, anh nên tin ở tương lai tốt đẹp”. Anh T. trẻ tuổi, tử tế, dễ mến, thì chạy đi mua “làm quà cho bác” bốn gói thuốc lào.

Nhà thơ Hoàng Cầm
Thế là xa Hỏa Lò. Sáu tháng ở trong đó bây giờ đi thấy nhớ mới chết chứ! Nhớ những người cùng bị giam, cùng chia ngọt sẻ bùi. Nhất là cậu H.M.T con trai một ông cấp cao bị bố hạ lệnh tống giam cho bớt láo lếu, trong hơn một tháng ở chung buồng giam cậu ấy săn sóc mình rất ân cần. Chính cậu ấy cho mình biết cái tên “xà lim bộ” tức Trung tâm Thẩm vấn của Bộ Nội vụ, nơi “giam cứu” (giam giữ để nghiên cứu? – HH) các can phạm do cấp Bộ xử lý. Nghe hai chữ “xà lim” là mình ngại ngùng lắm. “Xà lim” tức là cellule, tiếng Pháp chỉ buồng biệt giam. Đang ở chỗ giam chung, giữa trung tâm HN, dù sao cũng vui! Bây giờ đến chỗ xa lạ, lại giam riêng, thì buồn chết!

Xe chạy ra ngoại thành, men sông Tô Lịch, qua làng Lủ (Kim Lũ), làng này mình đã từng sống lao động suốt hai năm. Rồi rẽ vào một nơi cảnh rất đẹp, có vẻ dinh cơ của một quan lớn ngày xưa. Qua khỏi khu nhà cổ, đến dãy “xà lim” xây sau 1954, thực ra là những dãy nhà thấp, chia thành nhiều phòng. Mỗi phòng dài rộng khoảng 3m, có cái bệ xi măng có thể ngủ được năm người, quá thoải mái so với Hỏa Lò, nhưng mình lại thấy như bị ném vào giữa sa mạc, nhất là thấy hình như chỉ có mỗi mình mình trong cả dãy xà lim! Anh tù “tự giác” (tù nhân, thường là thân thuộc của CA, được trại giam trao nhiệm vụ lo mọi sinh hoạt của các tù nhân khác - HH) đưa cho mình một cái chiếu và một cái bô, nói một câu vẻ đùa đùa: “Ôi giời! Bác già thế này còn vào xà lim làm gì chứ?”

Bữa cơm đầu tiên ở “Xà lim bộ” anh tự giác đưa vào có một bát ô tô cơm (sới ra được ba lưng bát ăn), một bát rau muống có nước vị đậm, có thể gọi là canh. Chất và lượng đều hơn hẳn Hỏa Lò (sau này đi cung, cán bộ điều tra cho biết mình được hưởng chế độ “cán bộ trung cấp”).

Ngày làm việc đầu tiên, anh CA xưng tên là C. thuộc Cục Điều tra xét hỏi. Thấy anh có vẻ vui vẻ, thoải mái, lại nhớ ra cậu T. có cho mấy gói thuốc lào, mình bèn hỏi xin tờ báo cũ. Anh hỏi: “Chắc bác mang về để quấn thuốc lào?” và cho mình tờ báo, lại cho luôn cả bao diêm. Về sau có hôm anh mang cả điếu cày cho hút. Anh C. này hòa nhã, có học, biết nói chuyện thơ, chuyện lý luận văn học, biết cả thơ Maia... Mình có cảm tình với anh này, cũng như với anh T. ở Hỏa Lò.

Công việc hàng ngày của mình là “làm việc” với anh C. Lại khai lại từ đầu mọi sự, người ta đặc biệt tìm hiểu quá trình chuyển thơ ra nước ngoài, quan hệ với cô Cần Thơ bên Pháp ra sao. Những điều này mình đã khai hết ở Hoả Lò, nay lại khai lại, chẳng có gì mới. Sau khoảng ba tháng thì coi như khai hết chuyện. Từ lúc ấy, anh C. xuống thưa dần, có khi bẵng cả tháng chẳng thấy ai hỏi đến. Mình đâm nhớ, mong được gọi ra, vì thuốc lào thì hết, mà một mình giữa cảnh vắng lặng trời ơi là cô tịch!

Nằm một mình mãi chẳng biết làm gì, mình bắt đầu quan sát kỹ lưỡng buồng giam. Đầu tiên là bốn bức tường. Chi chít chữ, viết bút chì, phấn, cả bằng mảnh ngói, mảnh gạch. Lạ một cái là có những câu như liên hệ đến mình, hình như họ gọi  mình là “đại tướng năm sao”, có câu như ca dao đại ý nói “đừng có dại dột mà khai... tù dài chung thân”, có câu “Bên kia sông?” (hay là họ nhắc đến bài “Bên kia sông Đuống”?). Lại có nguyên một bức thư tình gửi đúng tên mình mới lạ chứ: “Anh Việt ơi! Về với em!”

Những đêm sau đó, mình bắt đầu có tâm trạng hết sức lạ lùng. Đêm đêm, có những khi mất điện, anh tự giác đem lại một chiếc đèn Hoa Kỳ, bắc ghế leo lên đặt ngọn đèn vào cái khe tường buồng giam, cái khe rất cao mình không với lên được. Đang nằm thiu thiu thì chợt nghe một tiếng súng chói tai. Giật mình tỉnh dậy giữa căn phòng tối mờ mờ, chẳng biết mấy giờ đêm. Lại nghe tiếng chó sủa, một lúc thì có tiếng chạy rầm rầm ngoài hành lang, một lúc lại nghe như có hai người trò chuyện ở ngoài đường. Mình nghe rõ ràng họ nói về mình, như nói đến “xe bánh vuông”, thì đúng là câu thơ mình viết về Đặng Đình Hưng “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn…”.

Suốt mấy hôm thần kinh mệt mỏi thế nào đó, cứ thức thức ngủ ngủ. Có hôm ngủ dậy thì trời đã sáng, có hôm thì tối hù, đèn điện không có đèn dầu cũng không, mà cảnh bên ngoài cứ luôn biến động, có những tiếng nói ở đâu đấy như ám chỉ mình, cứ thế suốt ngày đêm trừ khi ngủ chợp đi. Có hôm đang ngủ lại nghe rõ ràng phòng bên cạnh náo nhiệt như chợ Hôm hay chợ Đồng Xuân, rào rào không rõ tiếng gì, bỗng có tiếng hét lên: “Ông Việt ơi! Ông Hoàng Cầm ơi! Ông định chết ở trong này hay sao?” Có khi lại gọi cả những bút danh khác của mình như Lê Kỳ Anh: “Ông Lê Kỳ Anh! Ông định chết ở trong này, không về với vợ con à?” (Lê Kỳ Anh là bút danh mình lấy khi xuất bản tập thơ dịch từ tiếng Pháp cho NXB Văn học của anh Lý Hải Châu). Lại có hôm giữa trưa mình nằm ngủ trên sàn xi măng, chợt nghe bên tai giọng nữ giống như giọng bà Yến vợ mình, giọng tâm sự như giữa hai vợ chồng đang nằm bên nhau ban đêm, thầm thì: “Anh coi còn gì thì khai hết đi, giấu giếm cái gì nữa!”.

Lòng mình rất nhộn nhạo vì những âm thanh như vậy. Còn thêm tiếng tắc kè giữa trưa, ngay ở tường bên cạnh, nó kêu liền 7, 8 tiếng “tắc kè, tắc kè” chỉ cách chừng 1m, mà mình tìm mãi chẳng thấy có con tắc kè nào; hay con thạch sùng nào cứ “zạc, zạc, zạc” ngay trên trần, mà nhìn lên nào thấy? Về sau, thậm chí những lúc ra sân tắm, mình cũng nghe thấy đủ thứ âm thanh gần bên tai như thế. Mình đâm nghi họ giấu cái máy phát âm thanh đâu đó để tác động lên tâm lý mình. Thế là mình săm soi từng cái lỗ trên tường, nơi có ổ dây điện chui vào, rồi gõ gõ mặt sàn mà mình ngờ rằng phía dưới rỗng…

Đến nỗi này thì mình muốn chết quách. Nhưng lại sợ đập đầu vào tường chưa chắc đã chết, chỉ tổ đau, lẩn thẩn tự hỏi người xưa đập thế nào mà có thể vỡ óc, chắc là phải lao hết sức mạnh? Có hôm mình nghĩ đến cái cạp quần còn dai, mới xé nó ra, chờ ngày đi tắm ra sân tự do, mình sẽ buộc chặt hai chân lại rồi tự dìm đầu vào bể nước cho chết ngạt! Mình làm thật. Nhưng đến lúc uống vài ngụm nước, sắp ngạt thở thì bản năng sinh tồn lại khiến mình vội nhấc đầu ra, kết quả là rét run, vội chạy vào đắp hết áo sống lên người, run cầm cập! Hay là viết thư về nhà xin thứ thuốc gì đó mà uống vào sinh ra phù thận, phù mà không chịu đi chữa mặc cho nó chết. Nhưng cán bộ trại kiểm tra đồ nhà gửi vào kỹ lưỡng lắm, nếu thấy số lượng thuốc nhiều họ sinh nghi thế nào cũng đưa bác sĩ đến xét nghiệm. V.v… Một thời gian dài cứ nghĩ vơ vẩn thế.

Chết không xong, thì kiếm cách gì cho qua ngày đoạn tháng? Mình nhìn ra cửa, để ý thấy có cái khe hở. Khom mình cúi nhìn qua khe, thấy hành lang dãy xà lim, thế là cứ lom khom suốt mà nhìn. Hành lang thường có người qua lại, khi thì anh quản giáo, lúc thì con chó, mà chó berger hẳn hoi. Có hôm thấy một ông già râu dài, hom hem, khoảng 70, mà lại có đứa bé gái 13-14 tuổi ăn mặc kiểu nhà quê đi theo. Ông bảo nó: “Mày đứng đây chờ người ta đem cơm đến thì đưa vào cho tao nhá!”, nói rồi đi vào trong xà lim. Có hôm giữa trưa, ngay phòng bên tay phải có tiếng phụ nữ hát bài ru con Nam Bộ quen thuộc thường phát trên đài, giọng rất trẻ, chỉ trên 20, nghe rất buồn. Thế là mình lấy một mảnh ngói gõ vào tường ba tiếng “cạch, cạch, cạch”. Bên kia đáp lại ngay ba tiếng. Mình gõ tiếp năm tiếng, thì cũng đáp đúng năm tiếng. À, thế là bên kia có phụ nữ. Nghĩ đến phụ nữ là mình phấn chấn lên một chút. Xong tiếp ngay đấy lại có một giọng đàn ông, mà cũng từ phòng đấy mới lạ. Người này ngâm một bài thơ Đường, mình nghe rõ câu “thương nữ bất tri vong quốc hận, cách giang… xướng Hậu đình hoa”. Dăm hôm sau, nhìn qua khe thấy hai cô độ ngoài 20, cũng nửa quê nửa tỉnh, cô thì quần đen áo phin, cô thì cái áo len xanh cộc tay. Hai cô lấy cơm rồi mang vào phòng cười khúc khích. Đến chiều thì không thấy nữa. Rồi cũng hết cả tiếng hát ru, hết cả cảnh hai ông cháu. Mình tiếc ngẩn tiếc ngơ, thèm được thấy, thèm được nghe những cái nó đưa mình về gần với cuộc sống như thế. Thèm lắm, trời ơi!

Mình sợ cái im lặng ở đây quá. Rõ ràng mình đang là người bị chôn sống. Mình thèm được đi hỏi cung, thèm được ai đó nói với mình một tiếng, dù là anh CA nào đó gọi mình xách mé bằng tên tục, bằng thằng cũng được!

Vào khoảng ngày Phật Đản tháng tư âm lịch, ngay buổi sáng dậy đã nhớ con gái quá. Theo mình tính nhẩm thì hôm nay chắc là ngày giỗ đầu của nó. Đang nhớ như thế thì thấy có một con bướm trắng nhỏ bò trong góc buồng. Nó không bay, chỉ hơi đập cánh và bò, thỉnh thoảng lại xòe cánh ra vỗ nhè nhẹ và bò về phía mình. Mình vốn hay tin nhũng chuyện thần bí. Như lúc ở nhà, khi con gái chết được 35 ngày, thì nó hiện về trong một con bướm màu hoàng yến bay vào giường ngủ của mình. Mình liền ra thắp hương, rồi nó bay không biết bao nhiêu vòng. Bây giờ nó lại vào đây thăm mình trong tù. Trời ơi! Mình xúc động quá! Nó bò lên tay mình nằm ở lòng bàn tay, thế là mình nâng niu. Mình đặt bàn tay xuống bệ xi măng thì nó chạy ra nhưng cứ quanh quẩn trên mặt bàn không đi đâu hết. Cả ngày mình làm bạn với con bướm, nhớ con gái quá, mình khóc và buồn bã lắm. Đến đêm con bướm vẫn ở đó, rổi mình ngủ thiếp đi lúc nào không biết…



Chú thích:
  Các sĩ quan xét hỏi của CAHN ở Hỏa Lò thường dỗ dành HC “thành khẩn khai báo” để được về sớm. Thi sĩ yếu đuối và cả tin đã nhanh chóng nhận tuốt tội nói xấu chế độ trong tập “Về KB”, và họ hứa sẽ đề xuất thả ông về trước Tết.

2 Gần đây, bạn Bùi Xuân Bách ở Mỹ cho tôi biết đó dường như là dinh cơ của họ Bùi, có thời từng là nơi tụ họp văn nhân Hà Thành làm báo...

3Những năm trước đó, có một cô xưng là bác sĩ bên Pháp nhờ người quen ở VN gửi quà cho HC (thường là thuốc tây để bán lấy tiền) và xin thơ của ông. Những bài ông cho, trong đó đặc biệt chùm Cây (tam cúc), Lá (diêu bông), Quả (vườn ổi) bị CA coi là “phản động”, nói xấu chế độ.

4 Tên khai sinh của HC là Bùi Tằng Việt

5 Con gái là Hoàng Yến diễn viên kịch chết năm 1982.

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Hoàng Hưng - Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật

Hoàng Hưng
 
(Kỉ niệm 15 năm ngày mất của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí 20.6.1993 - 20.6.2008)

 

Tôi làm sơn mài từ khi nó mới có, nên tuổi của tôi cùng tuổi với sơn mài. Tôi sống với nó như cá sống với nước nên không biết mình sống nữa”. Đó là lời họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói với họa sĩ trẻ Nguyễn Xuân Việt, người mà ông nhận làm đệ tử vào những năm cuối đời. [1]

Đã 90 năm từ ngày cậu Trí ra đời trong một làng quê vùng đá ong Bắc Bộ (làng An Tràng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông). Giấy CMND của ông sau này ghi ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, nhưng ông Trí cùng mọi người thân đều khẳng định ông sinh năm 1908 (Kỷ Dậu). Không có tài liệu nói rõ về gia thế ông. Sinh thời ông Trí chỉ kể sơ với vợ con: cụ tổ Nguyễn Gia Phúc là người chuyên thêu y phục triều đình, đến đời ông thân sinh là Nguyễn Gia Cư còn làm công việc ấy. Chỉ riêng một việc: ba anh em ruột Nguyễn Gia Tường là giáo sư nổi tiếng của Collège Bưởi, Nguyễn Gia Trí học Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ngành hội hoạ (theo hoạ sĩ Hoàng Tích Chù [2]
thì ông Trí học Collège Bưởi rồi thi ngay vào CĐMT, bà Trí lại cho biết chồng mình có kể rằng ông đã theo học trường Y một thời gian rồi mới bỏ đi học vẽ), Nguyễn Gia Đức học CĐMT ngành Kiến trúc (và sau này trở thành một kiến trúc sư hàng đầu), cũng khiến ta hình dung được môi trường văn hoá gia đình rất thuận lợi cho một người đi vào con đường nghệ thuật.

Tài năng của Trí nhanh chóng nổi bật trong trường cùng với tính khí có phần ương bướng của ông. Vào trường năm 1928 nhưng ông bỏ học ở năm thứ hai. Theo HS Hoàng Tích Chù thì hiệu trưởng Victor Tardieu [3]
phục tài người sinh viên này nhưng không ưa anh, những lần có khách vào thăm trường, ông ta thường cố ý đứng che tranh của anh. Vậy mà mấy năm sau, chính ông lại là người chủ động gọi anh về học lại. Ông Trí kể: “Học đến năm thứ hai tôi không chịu được nhà trường nên bỏ. Sau vì có khoa sơn mài nên học lại. Giờ académique (vẽ hàn lâm) buổi sáng là một cực hình. Chỉ mong đến chiều để làm sơn mài.” Vậy là Nguyễn Gia Trí lại trở thành sinh viên khoá 7 Trường CĐMT Đông Dương (1931 - 1938). Và chính trong thời gian này, cùng với một số bạn đồng học, ông đã mở ra con đường đưa “sơn ta” của mỹ nghệ truyền thống trở thành “sơn mài” - chất liệu hội hoạ đặc sắc của Việt Nam.

Có nhiều giai thoại về tài năng của Nguyễn Gia Trí nắm bắt rất nhanh thực tại và thể hiện cái thần của nó trong vài nét bút. HS Hoàng Tích Chù hay kể về chuyến đi ký họa Chợ Bờ. Cả lớp đi từ sáng sớm, riêng Trí thì quá trưa mới tới, ngồi sau xe đạp một người bạn. Anh đảo một vòng rồi đi về. Ông thầy Inguimberty [4]
- người rất yêu quí Trí và Trí thường gọi là "Cụ I" - hỏi bài vẽ đâu, Trí rút trong túi áo ra một mảnh giấy: chỉ vài nét, cảnh Chợ Bờ hiện lên sinh động hơn tất cả các bức vẽ tỉ mỉ của những người khác. Sau này, người ta đón đợi hàng ngày những minh hoạ, hí họa kỳ tài của Nguyễn Gia Trí trên các báo Ngày Nay, Phong Hoá như "Ai mua rươi ra mua", hay chân dung Thống sứ Châtel... Những phác hoạ lá sen tàn sống động đến từng gân lá gãy, những dáng thiếu nữ "tân thời" uyển chuyển đầy gợi cảm... Tất cả đều ở trình độ bậc thầy về tả thực. Điều quí nhất là những hình họa tuyệt vời của Nguyễn Gia Trí sẽ trở thành "than cho Trí dùng quanh năm" như Inguimberty nói đùa [5] , tức là những tài liệu để ông bố cục các tác phẩm sơn mài. Trong những tác phẩm này, mặc dù được thể hiện cách điệu, những lá tre, cành tùng, bông sen, đôi bướm vờn, những dáng người đi, đứng, nằm... không những rất thực mà còn rất sống động trong vẻ tự nhiên tươi mưởi của những ký hoạ trực tiếp. Chính đó là yếu tố đầu tiên khiến cho sơn mài Nguyễn Gia Trí có tư cách hội hoạ nghệ thuật, thoát khỏi thân phận trang trí với các hình hoạ nhạt nhẽo vô hồn.

Song những sáng tạo của ông về chất liệu mới thực sự làm nên cuộc cách mạng sơn mài.

“Tranh không có đề tài. Đề tài chính là chất liệu sơn mài." Câu ấy ông Trí nói sau nửa thế kỷ sống với sơn mài. “Cái lý riêng" của sơn mài ông đã “ngộ" ngay từ buổi sơ duyên. Ông kể: “Khi đi học tôi làm phác thảo sơn mài một tuần không được. Ông thầy hỏi: Cảnh Hòn Gai đấy hả? Vì thấy trời đen đất đen. Lúc ấy tôi cũng tự hỏi: Sao ngói đỏ tường trắng mà trời đen đất đen? Và tôi chợt hiểu ra: Sơn mài có cái lý riêng của nó. Sơn mài khác hẳn sơn dầu.".

Thực tình, ông Trí còn phải trải qua những chiêm nghiệm trong lao động nghệ thuật mới thấm thía đến máu thịt cái chân lý ấy. Nên biết rằng tuy ông không vẽ nhiều sơn dầu, nhưng những tác phẩm chất liệu ấy của ông được đồng nghiệp đánh giá rất cao, và những kỹ năng sớm đạt tới đỉnh về bố cục, tạo không gian ba chiều... trong khi nghiên cứu sơn dầu đã đóng góp không nhỏ vào thành công của ông ở sơn mài.

Một tác giả người Pháp chuyên viết về mỹ thuật Việt Nam đương thời đã nhận xét: Nguyễn Gia Trí có một giai đoạn ngắn dường như cố gắng làm cho sắc độ của con người, cây cối, thú vật, quần áo trong tranh ông đạt được sự chân thực hoàn hảo. Nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ nỗ lực ấy để chỉ chú tâm vào các phương tiện của sơn mài. Và tác giả khẳng định, ý tưởng chủ chốt của Nguyễn Gia Trí: nâng sơn mài lên trình độ của sơn dầu không có nghĩa là vẽ tranh sơn dầu bằng chất liệu sơn mài. [6]


Sơn mài khác hẳn sơn dầu ở chỗ mặt tranh phẳng gần như tuyệt đối. “Con ruồi đậu trên vóc cũng làm vóc lún xuống" (Nguyễn Gia Trí). Không gian của nó lặn vào bên trong rất sâu, đó là “tính âm" của nó, cũng như các màu cơ bản vàng - son - đen (then) theo ông Trí là các màu “ngả về âm” - màu của không gian đình chùa cung điện xưa, và nhịp của nó là nhịp chậm - sơn mài hình thành từ từ qua từng công đọan vẽ, sơn, ủ, mài... Và chính những đặc điểm ấy tạo ra thách đố rất gay gắt đối với những ai đã học kỹ thuật sơn dầu, là thứ chất liệu đòi hỏi sự truyền cảm trực tiếp, bộc phát vào những “touche, tache” (nét, mảng) gồ ghề đầy “tính dương”.

Không riêng một mình Nguyễn Gia Trí đã phát triển bảng màu của sơn mài để nó đủ sức diễn tả thực tại phong phú trước mắt người hoạ sĩ, ông cũng không phải người duy nhất có ý thức dùng sắc độ để tạo nông sâu trên mặt phẳng sơn mài, nhưng ông là người đã đẩy những tìm tòi ấy đến mức tuyệt kỹ để trực truyền mọi cảm xúc, rung động mãnh liệt hay tinh tế đến mức “người với tranh là một không còn phân biệt" và mở ra thế giới rộng lớn qua “cánh cửa rất hẹp”, hẹp đến khe khắt của sơn mài.

Những lời bình luận sau đây của HS Tô Ngọc Vân giúp ta hình dung sức truyền cảm ma quái của “sơn ta” dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí: “Trên những màu hồng nhợt biến hoá, những sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành quí vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn như ta có thể yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét quệt mạnh đập tung, cào cấu"... “Trong những hình sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo, đắm say, nồng nàn còn run rẩy trong bóng tối hoà với máu, một sức sống còn bế tắc, một linh hồn kiên quyết, đam mê, đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ngoài ánh sáng." [7]


Trong các tuyệt kỹ của Nguyễn Gia Trí, nhiều hoạ sĩ sơn mài bái phục tài “luyện vỏ trứng”. Dưới tay ông, vỏ trứng từ một vật cứng trở thành mềm mại và tạo ra đủ sắc thái của màu và ánh sáng trắng. Lúc như một thứ men rạn cổ kính, lúc loé lên trên nền đen như được soi bằng những ánh đuốc đêm hoa đăng, lúc đông đặc như cẩm thạch, lúc kết tinh như kim cương, lúc mỏng mờ như trận mưa các giọt sữa, lúc rờn rợn bóng tối hư ảo trên tường rêu đêm Bồ Tùng Linh... Cho đến nay chưa ai học được bí quyết “mài bạt" vỏ trứng của ông. Đó cũng là một lý do người ta khẳng định không ai có thể làm giả một tác phẩm sơn mài Nguyễn Gia Trí.

Về cuối đời, ông có đôi lần bộc lộ với người đệ tử gần như duy nhất của mình phương châm xử lý vỏ trứng: “Mài đứt, phá hết các tướng cũ của vỏ trứng rồi nối lại. Luôn luôn phá hết các tướng hiện ra, phá tướng, không phải thêm tướng. Bớt nữa, bớt mãi, đứt nữa, đứt mãi để cho vỏ trứng có triển vọng đẹp còn lại."

Phương châm là thế, nhưng thực hiện thế nào đó là điều không thể dạy. Mài đến đâu thì ngừng, đến đâu thì đạt hiệu quả tối ưu, tất cả phụ thuộc cảm nhận tức thời của họa sĩ. Năng lực cảm nhận ấy là quyết định, vì Nguyễn Gia Trí tin rằng “chất liệu sơn mài có nhiều ngẫu nhiên", nó “hiện lên như thiên thành".

Niềm tin nói trên có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm tâm linh của ông về sáng tạo nghệ thuật: “Tìm tòi và sáng tạo với tất cả linh tính. Không phải sáng tạo bằng mắt, bằng tay, mà gần như người mù sờ soạng, mò mẫm trong đêm tối để tìm cái đẹp. Như người mẹ mang thai không thể bắt con mình là gái hay trai, đẹp hay xấu, mà cầu mong ở con người mình, ở chính phúc đức và chính thể chất của mình sẽ sinh ra đứa con lành lặn đẹp đẽ.”

Vì nguyên lý ấy, trong qui trình thực hiện một tấm sơn mài, ông Trí chỉ dùng thợ để lên kín các hình phác thảo của mình và mài phẳng, qua ba đợt, để rồi chính tay ông mài phá, xoá và sửa cả ba lần rồi mới làm lại lần cuối. Bà Trí [8]
kể: Có lần đêm rất khuya thấy ông ngồi trong bóng tối mài tranh, bà hỏi thấy gì mà mài, ông trả lời: “Tôi đâu có vẽ bằng mắt."

Hầu như không bao giờ Nguyễn Gia Trí thoả mãn với bức tranh. Tác phẩm nào ông cũng coi như một thử nghiệm, một "bài tập" để khám phá sơn mài. Đổ bao nhiêu vàng bạc vào tranh, ông không đắn đo, nhưng ông cũng không do dự phá bỏ hết để làm lại. Không chỉ một lần bà Trí phải đem giấu tranh đi để giao cho khách, nếu không ông vẫn đòi sửa tiếp. Có khi tranh bà đã giao đi một tuần rồi ông còn hỏi tranh đâu? Ông Trí nói: “Phải đi qua cái hỏng thì mới đến cái được. Ở chỗ mấp mé." Chỗ mấp mé là chỗ của nghệ thuật, giữa vụng và khéo, giữa đủ và thiếu, giữa xong và chưa xong. Đó cũng là chỗ của người thấm nhuần đạo âm dương, lẽ biến dịch của phương Đông.

Cái mốc đầu tiên đánh dấu việc sơn mài Việt Nam chính thức gia nhập nền hội hoạ là cuộc triển lãm năm 1938 do Trường CĐMT Đông Dương tổ chức. Đứng trước các tác phẩm của Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân đã tự hào khẳng định: Lối sơn ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Ở đó, ở tâm hồn người ấy ra, nó đã được nâng lên mỹ thuật thượng đẳng." [9]


Những năm sau đó là thời kỳ tìm tòi sáng tạo đầy sung mãn của Nguyễn Gia Trí để hoàn thiện kỹ thuật và phong cách riêng của mình. Ông lập xưởng vẽ riêng ở làng Thịnh Hào, Ngã Tư Sở (Một điều thú vị là những thợ mài của Nguyễn Gia Trí lúc ấy sau này đều nổi tiếng trong các ngành nghệ thuật: Kim Lân nhà văn, Nguyễn Trọng Hợp họa sĩ, Nguyễn Đăng Bảy nhà quay phim). 
Tranh Nguyễn Gia Trí (1940)
Tranh Nguyễn Gia Trí (1941)
Những năm 1940 Nguyễn Gia Trí là hoạ sĩ thành công nhất ở Việt Nam. Tác phẩm của ông được tính giá theo tấc và hầu như chỉ dân Tây thượng lưu có khả năng mua. Họ đặt tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo. Hai vợ chồng Công sứ Cresson xắn quần nhấc váy lội nước vào làng Thịnh Hào để lấy tranh. Họ gọi ông là “Génie Asiatique” (Thiên tài châu Á). Họ bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù khi ông bị bắt vì hoạt động chống Tây (Theo HS Hoàng Tích Chù thì ông Trí bị bắt quả tang chứa vũ khí trong xưởng vẽ, những vũ khí chính ông mua bằng tiền bán tranh cho Tây. Theo nhà báo Trần Phong Giao thì ông bị Tây bắt tới ba lần, lần cuối bị đưa vào Nam an trí ở Thủ Dầu Một. Song lúc này ta hãy tạm chưa nói đến Nguyễn Gia Trí nhà chính trị để tập trung nói về Nguyễn Gia Trí con người yêu nước trong nghệ thuật). [10]

Những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Gia Trí từ 1938 đến trước 1945 thường được nhắc đến là: "Chợ Bờ", "Bên Hồ Gươm", "Chùa Thầy", "Đèn Trung thu", "Đêm Bồ Tùng Linh"," Khoả thân", "Cảnh Thiên Thai" (đây là tấm tranh khổ lớn được Toàn quyền Đông Dương Decoux đặt làm sau khi ông Trí ra khỏi trại giam Vụ Bản năm 1943, một số tài liệu nói là hiện vẫn còn trong Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, song nhiều người theo dõi sát về mỹ thuật cho biết là sau 1954, khi ta tiếp quản thủ đô tranh ấy đã biến mất rồi), "Thiếu nữ bên hoa phù dung" (Sau 1954 tranh này thuộc tài sản của nhà sưu tập Đức Minh, một thời gian dài được Phủ Chủ tịch mượn để treo trong phòng khách của Hồ Chủ tịch, hiện nằm trong sưu tập của ông Bùi Quốc Chí, con trai ông Đức Minh đã quá cố, ở TPHCM), "Thiếu nữ trong vườn (tác phẩm cỡ lớn nhất trong cả đời sáng tác của Nguyễn Gia Trí, gồm 6 tấm, tổng cộng 12 m2, bán cho ông bà Drouin, Giám đốc Sở Điện Nước miền Bắc Đông Dương), "Thiếu nữ bên hồ sen", "Giáng sinh"...

Đề tài và tinh thần chủ đạo của các tác phẩm Nguyễn Gia Trí trong giai đoạn này, theo nhận xét của tạp chí
Indochine: [11] “Chúng dìu ta trên cánh mộng qua những truyền thuyết Việt Nam hay vào một không gian đẫm nhục cảm... Hoa, thiếu nữ và thơ, nhạc, ẩn chứa trong một chất liệu lơi lỏng một cách cố ý". Tác giả người Pháp còn cho rằng “những người đàn bà này (nhân vật của Nguyễn Gia Trí) gợi lên vẻ thanh lịch của một Watteau hoạ sĩ Pháp 1684 - 1721), sự nhẹ nhõm của một bức phác hoạ thế kỷ 18 của Pháp, những sức xuân thần kỳ của một Botticelli (hoạ sĩ Ý 1445 - 1510)".

"Thiếu nữ bên hồ sen" là tác phẩm khổ 1,2 m x 2,4 m, được làm vào khoảng năm 1940. Lúc ấy Nhật mới vào Việt Nam, một thời gian khó khăn về nguyên liệu, không có gỗ mít để làm vóc nên tấm tranh này chóng bị nứt. Nó đã vào Sài Gòn từ trước 1945, thuộc tài sản của ông Vũ Văn Hải (sau trở thành Đổng lý Văn phòng của ông Ngô Đình Diệm), và được đích thân HS Nguyễn Gia Trí sữa chữa vào năm 1963 (ông có ký tên xác nhận việc ấy ngay trên tranh). Sau 1975, vợ chồng hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc
vét hết tiền mặt và bán chiếc xe Honda PC, tài sản duy nhất có giá trị trong nhà, để mua lại bức tranh này (tức là tổng cộng khoảng vài chỉ vàng). Tiếc rằng mấy chỗ nứt không khắc phục được, song mặt tranh vẫn giữ được màu sắc và nguyên vẹn các hoạ hình thể hiện tài năng đang hồi sung sức của Nguyễn Gia Trí.

Tác phẩm là minh chứng rõ rệt tinh thần cân bằng, hài hoà mà ông Trí vẫn chủ trương: “Nghệ thuật là sự thăng bằng. Tình cảm thăng bằng, bố cục thăng bằng.”

Trên cái nền sương khói tạo bởi “teng” bạc (bạc oxy hoá qua thời gian, một thứ “thiên thành” như đồ cổ lên nước) hiện lên từng lớp cây lá nhiều vẻ - trong đó những chiếc lá sen tàn được thể hiện thần tình, mỏng tang với những gân mảnh tinh tế đến khó tin. Sau cành lá thưa, một tốp người nữ bố cục thành một nửa vòng: ở tiền diện bên trái là một thiếu phụ tay vịn cành, lả mình để tay kia vươn hái một bông sen, phía bên phải tranh, hơi lui vào là một thiếu phụ ngồi chống một chân, tay cầm quạt, cả hai đều có vẻ mặt và tư thế thanh lịch và thư thái, đàng sau người cầm quạt là hai chị em gái nhỏ tuổi chạy chơi. Tốp này làm thành một vòng tĩnh và nửa động phía ngoài để rồi trung tâm bức tranh cuốn người xem vào ba cô thiếu nữ uyển chuyển ở ba vị trí tạo ra cảm giác xoay vòng ngây ngất: cô thứ nhất ngoảnh 2 phần 3 ra phía trước, cô thứ hai quay nghiêng nửa người và cô thứ ba gần như hoàn thành vòng xoay với gần hết phía sau quay ra ngoài, phần mông nảy tròn và đuôi tóc dài hất lên. Ba cô gái được tôn hẳn lên trên nền đen sâu thẳm của không gian trống - trời và nước. [12]


Những yếu tố căn bản của sơn mài Nguyễn Gia Trí đã thấy rõ trong tác phẩm này: Sự tôn vinh vẻ đẹp hài hoà tinh thần với nhục thể của các thiếu nữ "tân thời" áo dài thon thả phơi phới giữa thiên nhiên dào dạt - đặc biệt vòng “rondo ba cô gái" sẽ trở thành mô-típ tiêu biểu của các bố cục “phụ nữ trong vườn” theo đuổi ông cho đến hết cuộc đời. Một chi tiết nên biết: nguyên mẫu thiếu phụ cầm quạt trong tranh là “Cô Sáu” cũng chính là người mẫu cho HS Tô Ngọc Vân vẽ bức "Thiếu nữ bên hoa Lys". (Không biết cô có quan hệ gì hơn nữa với HS Nguyễn Gia Trí hay không, nhưng HS Hoàng Tích Chù lúc vui chuyện có kể rằng bà mẹ của ông Trí rất nghiêm, một hôm bà bất thần đến xưởng vẽ của con trai, ông Trí cuống quýt giấu cô mẫu của mình vào phòng tắm). Bố cục không gian “hình cầu" chứ không phải không gian dẹp quen thuộc của sơn mài “trước Trí". Kỹ thuật dùng sắc độ, tương quan để diễn tả ánh sáng lung linh trên áo và chất vải, lụa, nhung, diễn tả không khí, không gian nhiều tầng ở đây đã rất điêu luyện. Riêng vỏ trứng thì bức này đang trong bước thử nghiệm, nhưng đã khá mềm mại để tạo màu trắng của mặt, tay người và hoa văn trên áo.

Một tác phẩm độc đáo của ông có đề tài Kitô giáo là bức "Giáng sinh" thực hiện năm 1941 do một “bà đầm" đặt để tặng dòng tu Đa Minh. Bức tranh ba tấm có kích thước tổng cộng 1,3 m x 2, 37 m. Điểm độc đáo nhất của tranh này là Nguyễn Gia Trí đã Việt hoá hoàn toàn quang cảnh và các nhân vật trong
Kinh Thánh. Ba vị thiên thần đứng trên mây là ba cô “tân thời" duyên dáng trong tà áo dài màu lam, lục và trắng - một trong ba cô gảy đàn tì bà! Ông Giuse và Đức Mẹ là hai ông bà nhà quê áo sồi quần gụ. Ba người trong bóng tối góc bên phải đầy tính biểu hiện: ba trạng thái tinh thần của chúng sinh - người thành kính hướng về Chúa Hài đồng là kẻ đã có niềm tin, người thản nhiên nhìn ra ngoài là kẻ bàng quan, người nằm nghiêng gối đầu trên cánh tay say ngủ là kẻ còn chìm đắm trong u mê. Và thay cho máng cỏ chuồng lừa hang đá, ở đây là cái chuồng trâu với một con trâu trắng!

Về mặt nghệ thuật, đáng chú ý là việc sử dụng vàng để tạo ánh sáng huy hoàng, và việc sử dụng màu xanh lam và lục trong sơn mài (đây có thể là một trong những sơn mài đầu tiên bổ sung gam màu xanh vào bảng màu vàng son đen truyền thống).

Tác phẩm này đã chịu kiếp lưu lạc cùng thời cuộc: Năm 1954, trước khi Hà Nội về tay chính phủ kháng chiến, Tu viện Teresa đã đưa nó qua nhà dòng chính quốc ở Lyon. Các vị tu sĩ ở Couvent Le Corbusier chắc là không hiểu giá trị của tấm tranh nên để nó dưới sàn phòng nguyện, quay mặt sau ra làm... bảng viết. Năm 1955, Linh mục Pineau của dòng Đa Minh được cử sang Sài Gòn, biết việc ấy đã xin đưa tấm tranh trở lại Việt Nam. Đến cuối 1959 đầu 1960 mới đưa được về Sài Gòn, và từ đó nó nằm ở Nhà nguyện Dòng Mai Khôi đường Tú Xương cho đến nay. Năm 1990, theo yêu cầu của nhà tu, HS Nguyễn Gia Trí đã cho đệ tử là Nguyễn Xuân Việt gia cố góc trái tấm tranh bị bong do để ẩm. Linh mục Thiện Cẩm, bề trên dòng Mai Khôi, người cung cấp cho tôi lịch sử tấm tranh này, cho biết: trước đây có một vị Khâm sứ Toà thánh Vatican ngỏ ý muốn mua tác phẩm độc đáo này, ông sẵn sàng chịu giá 1 triệu đồng (tiền Sài Gòn cũ).

Giai đoạn thứ hai của sự nghiệp Nguyễn Gia Trí kéo dài gần 40 năm sau của đời ông gắn bó với Sài Gòn - TPHCM kể từ năm 1954 đến khi ông qua đời (20/6/1993), song chủ yếu 20 năm 1954 - 1975 là thời kỳ ông có điều kiện thuận lợi nhất để hoàn thiện nghệ thuật sơn mài.

Những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Gia Trí sau 1954: Bộ lịch sử Việt Nam gồm các bức "Địa linh hoán tượng", "Hai Bà Trưng", "Trận Bạch Đằng" (cùng với hai tranh khác do ông Ngô Đình Diệm đặt với “tiền riêng” hơn một triệu đồng vào những năm 1957 - 1958), "Ba Vua" (1960), bộ tranh cho Thư viện Quốc gia gồm ba bức "Hoài niệm xứ Bắc", "Trừu tượng", "Múa dưới trăng" (1968 - 1969), "Vườn xuân" (1970)... và tác phẩm cuối cùng "Vườn xuân Trung Nam Bắc" thực hiện kéo dài trong nhiều năm.

"Ba Vua" là tấm tranh về đề tài Giáng sinh thứ hai của Nguyễn Gia Trí, thoạt tiên thực hiện theo com-măng của ông Diệm làm quà tặng La Mã, nhưng khó chịu vì những “góp ý" của con người quyền thế kia, hoạ sĩ đã thoái thác không giao tranh nữa và... tặng không cho một người bạn vong niên là một bác sĩ (có tài liệu nói người được cho tranh là một nhà văn trẻ, sau đó bức tranh mới về tay ông bác sĩ). Năm 1975, chủ nhân qua Pháp, mang theo bức tranh, nhưng rồi không hiểu vì lý do gì lại gửi nó về cho gia đình ở trong nước. Năm 1996, gia đình ông bán bức tranh, người mua được là một nhà sưu tập có tiếng ở TP HCM.

Tuy chỉ có khuôn khổ khiêm tốn (70 cm x 100 cm), nhưng tác phẩm này là một đỉnh cao toàn diện của tài năng Nguyễn Gia Trí. Một bảng màu cực kỳ phong phú (có người tỉ mẩn đếm được 22 sắc độ) vừa nghiêm trầm với các gam màu rượu chát - củ dền, vừa lộng lẫy với ánh sáng vàng và vỏ trứng, quí giá với màu xanh ngọc, bức tranh có hiệu quả như tấm tranh kính nhà thờ trong ánh hoàng hôn. Tài nghệ dùng sắc độ để diễn tả những nếp mềm mại, những biến đổi ánh sáng trên các tấm áo choàng, đặc biệt là tài xử lý vỏ trứng ở đây đã đến chỗ cực kỳ tinh tế. Cùng một mảng lớn, nhưng vỏ trứng được mài nông sâu uyển chuyển, có khi như trong suốt, để lớp màu nền bên dưới ánh lên khác nhau khiến các vật thể lung linh sống động, và nhất là tạo được sự biểu cảm của các gương mặt như trong những tranh Phục hưng.

Khi nhận làm ba tác phẩm để đặt trong Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM), HS Nguyễn Gia Trí quyết định coi đây là dịp để tổng kết các khả năng của sơn mài cho các thế hệ sau học hỏi về kỹ thuật để tiếp tục phát triển.

Bức "Hoài niệm xứ Bắc" cố tình làm theo phong cách trang trí truyền thống với bốn màu tĩnh tại và chắc chắn: son vàng đen trắng, phối hợp hàng loạt họa tiết vuông thành sắc cạnh thể hiện những sinh hoạt và vật thể văn hoá cổ truyền Việt Nam: ở trung tâm là cảnh hội hè đình chùa, bên trên là cảnh Đền Ngọc Sơn, Ô Quan Chưởng, Văn Miếu, Chùa Một Cột, khung viền xung quanh là các hoạ tiết cầm kỳ thi hoạ, bánh chưng bánh dày, lan tùng cúc thủy tiên, tam đa, trà thuốc lào, hạc rùa ngựa lọng... cùng với mấy câu thơ chữ Nôm “Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non" ("Thề non nước” của Tản Đà).

Bức "Múa dưới trăng" vẫn tiếp tục đề tài thiếu nữ trong vũ điệu mê li và ánh sáng lung linh, có những mảng họa sĩ giát vàng rất mỏng lên trên vỏ trứng để tạo ánh sáng trăng vừa lộng lẫy vừa thanh cao.

Song đáng lưu ý nhất là bức "Trừu tượng". Thể loại trừu tượng ông đã thực nghiệm từ những năm đầu tiên của sự nghiệp mình. HS Hoàng Tích Chù thường nói về một tấm vóc thử màu của ông Trí, được các đồng nghiệp khen là một “trừu tượng đẹp", ông bèn đặt tên là “Bouillabaisse” (Món xúp thập cẩm) và có người mua liền. Sau 1954, ông cũng vẽ một số tranh trừu tượng và nửa trừu tượng, trong đó có bức vẽ cho ông Diệm để làm quà cưới Thái tử Nhật. Nhiều mảng trong các bức tranh có hình của ông nếu tách riêng ra cũng có thể coi như tranh trừu tượng. Ông từng nói, bản thân sơn mài giàu tính trừu tượng: “Bắt đầu vẽ sơn mài là đã vẽ trừu tượng rồi". Lại nói: “Tranh trừu tượng là gần tâm hơn cả vì nó tự do không bị trói buộc". Nhưng ông cũng chỉ ra cái khó của thể loại này: “Tranh trừu tượng như nhốt một đàn thú chung một chuồng. Các hình, nét, màu sắc, chất... thiên sai vạn biệt, chỉ tâm ‘từ’ mới hoà hợp chúng thành nhất phiến."

Bức trừu tượng ở thư viện là bức lớn nhất (1,2 m x 2,4 m) và tiêu biểu nhất. Người ta nhận thấy trước nhất là sự phong phú của nó: Đây là một tập hợp hài hoà của nhiều bức trừu tượng, thống nhất thành một tác phẩm. Các tầng tranh cũng biến đổi, và lượng màu cơ bản rất ít (đều là màu truyền thống) nhưng biến chuyển nhiều sắc độ, có thể theo dõi sự chuyển ấy ngay trên một đoạn nét rất mảnh cũng như trên toàn bộ màu nền. Ở đây nét bút tung hoành phóng khoáng tự do của Nguyễn Gia Trí khiến ta tưởng chúng chạy một hơi trực tiếp theo cơn tùy hứng của tác giả như một “action painting” (hội hoạ động tác) của Jackson Pollock chứ không thể là sự thực hiện qua nhiều công đoạn nguội của sơn mài. Những nét bút mềm mại thoải mái như nét bút lông, mảnh tinh như thoáng mực nho nhưng lại có độ sâu và sự bền chắc chỉ có được ở sơn mài.

Đề tài “Thiếu nữ trong vườn" được Nguyễn Gia Trí thâm canh ngày càng hoàn thiện. Đến bức "Vườn xuân" năm 1970 (năm ấy là năm Tuất, ông Trí có vẽ lẩn trong đám lá hình một con chó) thì đã như trăng đến rằm. Mọi thành tựu kỹ thuật trước đó đều được phát huy hết mức, đặc biệt là thủ pháp để lộ nền son trong những hình người khiến các nhân vật nhẹ lâng lâng như tan được. Việc xử lý vỏ trứng ở đây có những sáng tạo mới: vỏ trứng nhoè mờ, ẩn hiện như thủy mặc, mềm như lụa, ánh vàng kim chiếu ra từ bên trong, từ những kẽ vỏ trứng như một ánh sáng nội tại huy hoàng, và các nét tinh tế màu đen chạy trên mặt vỏ trứng khiến ta nhìn thấy được những đường gió cuốn tà áo dài thiếu nữ. Vẫn là mô-típ ba cô, nhưng có thể thấy sự khác biệt với ba cô tiền chiến ở vẻ mông lung hư ảo nhiều hơn, phần hồn át hẳn phần xác, nhịp chân tíu tít, bước chân tung tẩy như không chạm đất, sự trong trắng phát sáng từ bên trong. Các cô đã rời cõi thế lên tiên giới. Trong khi đó, các nhân vật nữ ở tiền diện thể hiện ý tưởng ba miền Bắc Trung Nam: thiếu phụ mặc áo dài kiểu cổ đánh đàn tỳ bà là người Trung, thiếu phụ người Bắc nằm như trong các tranh tiền chiến (vẫn là nhân vật trong hoài niệm của tác giả sống xa quê hương), bà già Nam bộ đội khăn vẻ mặt ưu tư và cô gái Sài Gòn hồn nhiên trong áo dài lửng cổ Lệ Xuân.

Bức "Vườn xuân" khổ 1,2 m x 1,8 m nói trên là sáng tác theo yêu cầu của một người bạn của họa sĩ, bác sĩ Phạm Văn Hải, ông này muốn có “một tác phẩm để đời" của Nguyễn Gia Trí. Năm 1975, bác sĩ di tản, bức tranh trong nhà ông đã được một vị tướng của chế độ mới bán rẻ như biếu không, người may mắn mua được là hoạ sĩ sơn mài Nguyễn Thanh Liêm. Chính từ cái duyên này, Nguyễn Thanh Liêm đã kết thân được với gia đình lão hoạ sĩ để rồi làm mai cho TPHCM mua tác phẩm lớn cuối cùng của ông với giá 600 triệu đồng vào năm 1991 (tương đương 100.000 đôla), một kỷ lục về giá tranh ở Việt Nam từ trước đến nay. Gần đây chủ nhân cũ của bức "Vườn xuân" 1970 về nước, ông có tìm đến thăm lại báu vật xưa. Ông ngồi thẫn thờ hồi lâu nhưng rồi tự an ủi: “Dù sao tôi cũng vui vì cứ ngỡ cộng sản đã chặt nát mất rồi".

Có thể nói tâm tư về sự thống nhất đất nước thể hiện trong bức tranh trên là nỗi ám ảnh sâu xa nhất trong những năm cuối đời HS Nguyễn Gia Trí. Ngay sau bức "Vườn xuân", ông đã cùng bác sĩ Tín (người sản xuất dầu gió khuynh diệp nổi tiếng ở miền Nam) nhất trí về bức tranh cỡ lớn với đề tài này, bức “Vườn xuân Trung Nam Bắc" [13]
. Bức tranh 9 tấm kích thước tổng cộng 2 m x 5,4 m - bức lớn nhất còn lại của Nguyễn Gia Trí - mà ông làm cho bác sĩ Tín được tiến hành từ đầu những năm 70.

Sau 1975, người đặt tranh đã di tản, trong điều kiện khó khăn của TPHCM một thời kỳ dài, họa sĩ vẫn quyết hoàn thành tác phẩm lớn mà ông biết sẽ là cuối cùng của đời mình. Để nuôi sống gia đình một cách khiêm nhường và đầu tư cho tác phẩm này, ông phải làm những tranh nhỏ để khách mang “chui" ra nước ngoài (vì tranh Nguyễn Gia Trí đã nằm trong danh mục “văn hoá phẩm quí cấm xuất khẩu"). Vậy mà lúc tranh đang làm dở, có người trả 14 lượng vàng ông không chịu bán. Mãi cho đến năm 1990, khi UBND TPHCM quyết định mua tác phẩm, nó vẫn chưa hoàn chỉnh như ý đồ của hoạ sĩ. Một phần vì khó khăn về nguyên liệu (bà Trí phải bán dần vóc và son để mua từng thếp vàng cho tranh). Phần quan trọng là vì hoạ sĩ bắt đầu lâm bệnh: trận tai biến mạch máu não đầu tiên xảy ra vào năm 1988, sau đó còn hai lần nữa trước khi ông qua đời. Do đó khâu làm vàng mặt tranh ông phải giao phó cho học trò là Nguyễn Xuân Việt. 
Nguyễn Gia Trí: "Vườn xuân Trung Nam Bắc"
Tác phẩm "Vườn xuân Trung Nam Bắc" tổng hợp mọi thành tựu trong nửa thế kỷ tìm tòi sáng tạo về sơn mài của Nguyễn Gia Trí với những yếu tố của đề tài “thiếu nữ trong vườn" quen thuộc được bổ sung, đổi mới. Sự cộng hưởng giữa các chất liệu vàng son vỏ trứng trong bố cục phối hợp nhịp nhàng các hình hoạ khiến bức tranh như một bản giao hưởng mà mọi thành phần đều vang lên cùng một lúc, lại như màn vũ kịch trong đó các nhân vật cùng cây lá, nhóm thì tĩnh tại làm nền cho những nhóm chuyển động với các cấp tiết tấu khác nhau. Trung tâm bức tranh là nhóm thiếu nữ Trung Nam Bắc trong trang phục hơi xưa. Cạnh đó là hai đứa bé như trong tranh dân gian cưỡi con kỳ lân huyền thoại chạy chơi. Phía sau là ngôi miếu cổ nhỏ nhưng trang nghiêm. Xen với các nét văn hoá truyền thống đó là không khí hiện đại tạo bởi hai nhóm thiếu nữ áo trắng múa quay tròn. Nếu nhóm bên trái còn giữ mức tiết tấu vừa phải như trong bức "Vườn xuân" 1970 thì ở ba cô gái bên phía tay phải, thần bút Nguyễn Gia Trí đã hiện hình được cái ảo, cái cuộn bay, cảm giác chóng mặt của vũ điệu quay tít có sức quyến rũ ma thuật, nếu nhìn lâu ắt phải “nhập đồng" theo. Khó hình dung họa sĩ làm thế nào giữ được cảm xúc một hơi trên cả tấm tranh lớn như vậy qua một thời gian dài, một sự “xuất thần suốt hai chục năm" như nhận xét của hoạ sĩ Nguyễn Xuân Việt. Xúc cảm ấy bộc lộ rõ trong từng mảng vỏ trứng thể hiện tà áo tung bay, trong từng mảng lá phượng chuyển sắc tinh tế, trong đôi bướm vờn sống động... Với kiệt tác này, thật sự Nguyễn Gia Trí đã đạt được mong muốn của mình: “Vẽ tranh muốn 10 năm như 1 giờ, vóc trăm cân như không còn trọng lượng." (Khi tác phẩm hoàn thành, cụ Trí nói: “Không phụ lòng anh em.")

Trong lúc giúp Thầy mình làm tranh, Nguyễn Xuân Việt có hỏi: “Không biết bức này sẽ nằm ở đâu?", cụ bảo: “Đặt vấn đề ấy là thừa." Bởi cụ thường tâm niệm: “Nghệ thuật là vô cầu. Vì vô cầu nên nó hướng đến một cái gì đó rất cao." Nhưng lịch sử cuối cùng bao giờ cũng công bằng. Tác phẩm tinh túy bậc nhất của người thầy nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã được đặt đúng chỗ: Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM.

Về con người Nguyễn Gia Trí, chúng ta chưa có điều kiện hiểu nhiều và cũng có những điều chưa đến lúc nói ra (chủ yếu vì tôn trọng ý nguyện của gia đình cố hoạ sĩ).

Ông người nhỏ nhắn, gương mặt không có vẻ gì đặc biệt khác với các trí thức nghiêm túc “thời Tây", nhất là với cặp kính cận to đeo thường trực. Một nét trong tính cách ai cũng nhận thấy ở ông là lặng lẽ, ít giao du, ít nói nhưng nói thì lắm lúc khá hài hước. Một người Pháp kể: Khi tiếp khách đến thăm xưởng, Trí có kiểu “làm dáng" là tự làm người ta quên mình đi, nếu có ai đề cập quá thẳng đến tài nghệ của ông thì ông chỉ nói: “Sơn mài đẹp quá!", như thể mình chẳng có vai trò gì trong đó. [14]
HS Hoàng Tích Chù kể, khi báo chí hỏi vì sao đi vào hội họa, Nguyễn Gia Trí đã trả lời: “Nghịch mà vẽ".

Đời ông hầu như chỉ có một đam mê duy nhất là ở bên những tấm vóc sơn mài. Nhà văn Kim Lân nhớ nhất hình ảnh “ông chủ" của mình ngồi sụp xuống đất mài tranh trong xưởng vẽ. Bà Trí cho biết lịch sinh hoạt hàng ngày hầu như bất di bất dịch của ông: 5 giờ sáng ngủ dậy, vệ sinh xong là sang ngay xưởng sắp xếp công việc cho thợ - 7 giờ về ăn sáng rồi sang xưởng làm việc - 11 giờ 30 về ăn cơm, không ngủ trưa đến 1 giờ lại sang xưởng - 6, 7 giờ tối về ăn cơm, nghỉ một chút lại sang xưởng làm việc đến khuya, thường tới 1, 2 giờ sáng. (Sau này ông nói với Nguyễn Xuân Việt: “Sơn mài khác sơn dầu ở công hạnh", “Vẽ sơn mài có lúc như thợ mộc, như nông dân đi cày".) Có khi ông không về, bà sang xưởng thì thấy ông đã ngủ thiếp trên chiếc giường sắt nhà binh mà người cháu đem về từ Biệt điện Bảo Đại trên Đà Lạt. Mời ông đi chơi thật là khó. Lúc nào ông cũng bảo: “Để tôi trông nhà cho". Bán bức tranh "Vườn xuân" cho bác sĩ Hải, mua được chiếc xe hơi La Dalat (hồi đó xe hơi rất đắt), nhưng chẳng bao giờ ông chịu lái chở vợ đi chơi, ông nói: “Nhờ người khác lái, hoặc đi taxi có lợi hơn".

Cũng bởi thế, Nguyễn Gia Trí sống rất giản dị. Tiền ông làm ra không ít, nhưng ngoài việc đầu tư cho sơn mài, hầu như ông không có nhu cầu gì lớn. Trong xưởng vẽ trước kia ở làng Thịnh Hào, đồ đạc của ông cũng chỉ có một chiếc giường cá nhân và một ngăn sách. Giới hoạ sĩ hồi đó thường truyền nhau rằng: “Trí làm ra tiền cho Tứ (nhà văn Đoàn Phú Tứ - bạn thân của ông) tiêu". Sau 1954 thì mọi việc tài chính đều do bà Trí quán xuyến, ông chỉ chuyên tâm vẽ. Sau một thời gian ngắn sống khổ sở ở gần Lò heo Gò Vấp, ông bà Trí thuê rồi mua lại hai căn liền nhà ngói cũ một tầng (trệt) trong ngõ đường Ngô Đình Khôi (sau đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đổi tên là đường Cách Mạng, sau 1975 đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa rồi Nguyễn Văn Trỗi), một bên ở một bên làm xưởng. Nhà ở cũng như xưởng của ông rất tuềnh toàng, mấy chục năm hầu như không sửa chữa gì. Căn xưởng nát, mái trổ vài viên lắp kính để thêm ánh sáng trời, và cũng như ở xưởng Thịnh Hào xưa, có một chiếc thang đôi để ông trèo lên khi cần nhìn toàn cảnh những tranh lớn. Tường sau căn xưởng bị nứt toác, HS Nguyễn Xuân Việt nói lần nào đi qua anh cũng rùng mình vì trông y như cái máy chém rớt xuống lúc nào không biết. Ông gắn bó với ngôi nhà giản dị của mình đến mức sau khi tranh "Vườn xuân Trung Nam Bắc" bán được, trong lúc ông đi bệnh viện thì con ông xây lại nhà mới, khi đón ông về, đến trước cửa nhà ông không chịu vào và kêu lên: “Đây không phải nhà tôi". Khi biết rõ là nhà mình được xây lại, ông “bắt đền" và bảo: “Thế này thì bạn bè làm sao biết là nhà tôi mà đến chơi!"

Chuyện ăn mặc thì ông chẳng quan tâm gì tới. Bà Trí cho biết ông ăn uống rất đơn giản, đúng khẩu vị thanh tao dân Hà Nội xưa, chỉ cần đồ ăn nóng sốt. Ông bảo bà: “Nếu thiếu lắm thì ăn nước mắm chưng cũng được". Ông không biết nhậu nhẹt, hàng tháng bà cứ “nhập" đều đều cho ông 30 chai bia, 1 chai rượu Martell, 10 chai soda để ông uống trong lúc làm việc, còn cà phê thì mỗi ngày đến 4-5 phin. Theo một số hoạ sĩ gần gụi ông cuối đời, ông chẳng để ý là mình đi hai chiếc vớ hai màu khác nhau, cũng như bộ com-lê diện của mình là “mặc thừa" của ông anh là GS Tường.

Thật khó ngờ con người đam mê nghệ thuật và lặng lẽ ấy lại là một nhà cách mạng chống Pháp thực sự đã chịu tù đầy tra tấn vì nghĩa lớn của dân tộc. Sau 1954, có thể ông đã nguội lửa đấu tranh trước những diễn biến phức tạp của lịch sử, nhưng lòng khảng khái trước quyền lực của ông thì còn nguyên. Có nhiều chuyện kể về những lần ông từ chối vẽ tranh cho ông Ngô Đình Diệm cũng như Đại sứ Mỹ Bunker khi họ đòi ông vẽ theo ý họ. Ông cũng từ chối yêu cầu của bà Cố vấn Trần Lệ Xuân đòi dành riêng một buổi cho gia đình bà đến xem trong dịp ông triển lãm tại nhà năm 1959. Và người Sài Gòn thì không quên bức biếm hoạ 6 con chuột khoét ruỗng quả dưa hấu trên báo
Tự do xuân năm Canh Tý, khiến ông phải “đi trốn" một thời gian. Cũng từ thời gian này, ông ngày càng ham mê nghiên cứu Phật giáo và triết học Trung Hoa cổ. Đôi lá thư ông viết cho các bạn văn nghệ trước 75 hay những lời ông dạy đệ tử Nguyễn Xuân Việt sau 75 cho thấy rõ ông ngày càng tâm niệm nghệ thuật gắn làm một với “Tâm", với “Đạo". Những suy nghĩ về nghệ thuật của người mang pháp danh Thiện Chân ngày càng thấm nhuần triết lý thiền: “Phải luôn luôn nhớ: tranh mình chỉ là phương tiện để tu tập mà thôi", “Hội hoạ gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta"... Hai mươi ngày trước khi ông qua đời, Nguyễn Xuân Việt đến thăm, ông không nói được nữa, chỉ ra dấu: khép lại hai mắt, khép lại hai tai, khép lại đôi môi, rồi ngón tay ông chỉ vào giữa trán. Đó chính là vị trí “con mắt thứ ba", “con mắt huệ", ngõ vào duy nhất để tiếp nhận chân lý sự sống cũng như chân lý nghệ thuật.

Một đời tìm tòi sáng tạo để đưa sơn mài Việt Nam lên được địa vị một chất liệu hội hoạ hiện đại, với những kiệt tác hoà quyện cái cổ truyền và cái thời đại, với nhân cách và bản lĩnh sống thật cao thượng đến tận giờ phút cuối cùng, Nguyễn Gia Trí xứng đáng là bậc “đạo sư" của tất cả những ai coi nghệ thuật là thiêng liêng, của những ai thành tâm muốn tìm một lối đi cho văn hoá Việt giữa thời giao lưu toàn cầu này.
SG 5/4/1998

[1]Câu này cũng như tất cả các câu nói về nghệ thuật của HS Nguyễn Gia Trí trích trong bài này đều rút từ cuốn Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo của Nguyễn Xuân Việt, NXB Văn học 1998.
[2]
HS Hoàng Tích Chù sinh năm 1910, học CĐMT Đông Dương sau Nguyễn Gia Trí hai khoá, sau này là một trong các hoạ sĩ sơn mài hàng đầu Việt Nam.
[3]
V. Tardieu, người sáng lập trường CĐMT Đông Dương, sinh 1870 ở Lyon, mất 1937 tại Hà Nội.
[4]
Joseph Inguimberty (1896 - 1971) là người đã khuyến khích các sinh viên CĐMT Đông Dương nghiên cứu sơn mài, ông yêu mến và gíup đỡ Nguyễn Gia Trí nhiều, sau trở thành bạn vong niên, thường liên lạc thư từ với hoạ sĩ sau 1954.
[5]
Ý trong bài "Nguyen Gia Tri, artiste laqueur" của CL.M. trên tạp chí Indochine số 217 (26/ 10/1944)
[6]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn
[7]
HS Tô Ngọc Vân (1906 - 1954) học khoá hai CĐMT Đông Dương. Hai câu trên trích trong những bài viết của Tô Tử - bút danh của Tô Ngọc Vân - ở báo Ngày nay số 146 năm 1939 và Tô Ngọc Vân trên báo Thanh nghị số 77 năm 1944).
[8]
Bà Trí nhũ danh Nguyễn Thị Kim là em họ vợ họa sĩ Lemur Cát Tường, người sáng tạo chiếc áo dài Việt Nam hiện đại. Bà kết hôn với HS Nguyễn Gia Trí năm 1955 tại Sài Gòn. Hai ông bà không có con, nuôi một con trai tên là Tuệ. Bà là người vợ hiền Việt Nam mẫu mực, cả đời chăm lo cho sự nghiệp của chồng.
[9]
Xem chú thích 7
[10]
Ý của Linh mục Trần Thái Hiệp (Báo Công giáo và Dân tộc năm 1991)
[11]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn
[12]
Nhiều điểm phân tích kỹ thuật hội hoạ của Nguyễn Gia Trí trong đoạn viết này cũng như các đoạn sau trong bài, tác giả tiếp nhận từ các hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Xuân Việt.
[13]
Tên tranh mà HS Nguyễn Gia Trí viết trực tiếp trong tranh là “Vũ phiến". Sở dĩ có tên này là do sau 1975, đất nước vừa thống nhất, để tránh có người hiểu lầm là mình xu thời nên hoạ sĩ tạm thời không dùng tên “Vườn xuân Trung Nam Bắc”.
[14]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn