Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Hưng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Hưng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2023

Đọc lại: Hoàng Hưng: Vụ án “Về Kinh Bắc” – một sự kiện hậu Nhân Văn

Vụ án liên quan đến tập thơ “Về Kinh Bắc” của nhà thơ Hoàng Cầm khiến tác giả Hoàng Cầm phải bị tù 16 tháng vì tội “phản động”, còn nhà thơ Hoàng Hưng vì mang tập thơ bên người mà bị khép tội “tuyên truyền văn hóa phẩm phản động, đồi trụy” (!) cộng thêm ngang bướng, không nhận tội nên bị 39 tháng tù! Đọc lại để thấy toàn bộ sự việc hết sức ngớ ngẩn, phi lý đến mức không tin nổi. Nhưng ở đất nước này, suốt gần tám thập kỷ qua cho đến tận bây giờ là thế kỷ XXI, đã và vẫn đang có biết bao nhiêu vụ án phi lý, phi nhân, vừa nực cười vừa chua xót vừa phẫn nộ như thế. Và biết bao nhiêu văn nghệ sĩ, trí thức, nhân sĩ đã bị tiêu diệt tài năng, sĩ khí, nhân phẩm ở vào những năm tháng mà họ đang tràn đầy năng lượng, sức sáng tạo và lẽ ra có thể cống hiến cho đất nước, dân tộc nhiều hơn gấp bội…

DĐTK
***

Gần đây trên mạng xuất hiện một số tư liệu mới về phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Tiểu luận mang tên “Vụ Nhân văn – Giai phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành” của nhà văn Lê Hoài Nguyên, nguyên đại tá Cục An ninh Tư tưởng Văn hóa Bộ Công an (A 25), là một tư liệu quan trọng góp phần vào lịch sử đấu tranh dân chủ của nước Việt Nam hiện đại. Trong tiểu luận trên, tác giả xếp vụ án “Về Kinh Bắc” 1982[1] vào mục “Hậu Nhân văn”. Chính điều này đã gợi hứng cho tôi quyết định viết về vụ “Về Kinh Bắc” với tư cách người trong cuộc, mong góp thêm phần hoàn chỉnh tư liệu về phong trào lịch sử này.

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2023

Thơ Hoàng Hưng: Nhật ký chung (chúng) cư

Bán đảo Linh Đàm, Hà Nội. Hình: VNExpress.

CÁI TÊN THẬT NGỘ


Chưa có cái tên nhà nào như thế

NƠ viết tắt của Nhà Ở

Không phải NO = Numero

Tìm nhà tôi cực kỳ khó

Vì nhà ở đây đánh số tùm lum

Có lần tôi đứng ở ngã ba

Một giờ có đến năm người hỏi đường

Xây dựng khu đô thị kiểu Tây này

Là những người nhà quê Việt Nam

đích thực

Nhà NƠ 7A Bán đảo Linh Đàm

Tôi cam đoan cả thế giới không có cái địa chỉ nào

đẹp như thế

Vì chúng tôi ở giữa một bán đảo

Một cái hồ không lớn lắm

Nhưng có cái tên rất oách: "Hồ thiêng"


Thứ Ba, 28 tháng 3, 2023

Thơ Tình Hoàng Hưng

 NGƯỜI YÊU MIỆT BIỂN

 

 

 Đồng cói đầy trăng em ơi

                                                                  đồng cói

Nhưng em đã bay đi như cánh vạc

Để rợn vàng đồng cói trăng rơi.

 

 

Bãi dài ngập nắng em ơi

                                                                    bãi nắng

Nhưng thịt da em ráng chiều vụt tắt

Cát không màu khép dưới bàn chân.

 

 

Triều dâng sóng trắng em ơi

                                                                     sóng nở

Nhưng đến trước ngực ta sóng vỡ

Bọt tan sôi réo lòng chiều.

 

 

Lưới thu đóng bạc mình thu em ơi

Mắt em nhìn ta qua lưới thưa

Xa lạ như là con mắt cá

Sắp quẫy vào lòng biển sâu

 

Đồ Sơn 1969


Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023

Hoàng Hưng: Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật

Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Wikipedia

“Tôi làm sơn mài t khi nó mi có, nên tui ca tôi cùng tui vi sơn mài. Tôi sng vi nó như cá sng vi nước nên không biết mình sng na”. Đó là li ha sĩ Nguyn Gia Trí nói vi ha sĩ tr Nguyn Xuân Vit, người mà ông nhn làm đ t vào nhng năm cui đi. [1]

Đã 90 năm t ngày cu Trí ra đi trong mt làng quê vùng đá ong Bc B (làng An Tràng, huyn Chương M, tnh Hà Đông). Giy Chứng minh Nhân dân (CMND) ca ông sau này ghi ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, nhưng ông Trí cùng mi người thân đu khng đnh ông sinh năm 1908 (K Du). Không có tài liu nói rõ v gia thế ông. Sinh thi ông Trí ch k sơ vi v con: c t Nguyn Gia Phúc là người chuyên thêu y phc triu đình, đến đi ông thân sinh là Nguyn Gia Cư còn làm công vic y. Ch riêng mt vic: ba anh em rut Nguyn Gia Tường là giáo sư ni tiếng ca Collège Bưởi, Nguyn Gia Trí hc Cao đng M thut Đông Dương ngành hi ho (theo ho sĩ Hoàng Tích Chù [2] thì ông Trí hc Collège Bưởi ri thi ngay vào Cao Đẳng Mỹ Thuật, bà Trí li cho biết chng mình có k rng ông đã theo hc trường Y mt thi gian ri mi b đi hc v), Nguyn Gia Đc hc Cao Đẳng Mỹ Thuật ngành Kiến trúc (và sau này tr thành mt kiến trúc sư hàng đu), cũng khiến ta hình dung được môi trường văn hoá gia đình rt thun li cho mt người đi vào con đường ngh thut.


Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Hoàng Hưng: Điều quan trọng là trở lại với CON NGƯỜI THẬT, CON NGƯỜI TỰ NHIÊN; CUỘC SỐNG THẬT, CUỘC SỐNG TỰ NHIÊN

Dịch giả, nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng từ Hà Nội vào sinh sống và làm việc ở Sài Gòn từ 1977.

Trường hợp của tôi có lẽ hơi cá biệt so với số đông đồng nghiệp ở miền Bắc trước 1975: Sinh trưởng trong một gia tộc thuộc “tầng lớp trên” thời Pháp thuộc; năm 1954 hầu hết họ hàng của tôi di cư vào Nam, chỉ riêng gia đình tôi ở lại miền Bắc vì bố tôi là một bác sĩ “chuyên môn thuần tuý” quá tin vào “hiệp thương tổng tuyển cử sau 2 năm” và chưa thấy được bản chất “Cộng sản” của Việt Minh; tuy nhiên bản thân tôi ham đọc sách tiếng Pháp từ nhỏ, được học tiểu học trong nhà trường “quốc gia” và Pháp, cấp 2 (Middle School) theo chương trình chuyển tiếp “quốc gia” sang “dân chủ nhân dân”, đến cấp 3 (High School) mới bắt đầu “nhà trường xã hội chủ nghĩa”; thêm nữa, từ 1954 đến 1975 tôi vẫn chịu khó đọc sách tiếng Pháp trong tủ sách gia đình và kho sách trong Thư viện Quốc gia được Sứ quán Pháp cung cấp. Có lẽ vì thế, khi vào Sài Gòn khá sớm sau 30/4/1975 để tìm mẹ và họ hàng, tôi thấy như được trở về đời sống tự nhiên của tuổi thơ mình vốn đã bị chế độ chính trị miền Bắc và tình trạng chiến tranh làm cho… quên mất!

Phải nói dài dòng thế, vì có thể nhận xét của tôi về đời sống và văn hoá miền Nam có phần chủ quan, cá biệt.

1. Về lối sống của người Miền Nam trước 1975 (xin viết tắt là LSMN) và ảnh hưởng của nó sau 1975


Xã hội miền Nam mà tôi thâm nhập trước hết là xã hội của bà con họ hàng thân tộc ở Sài Gòn. Họ vẫn giữ khá đầy đủ những đặc điểm (cả hay lẫn dở) của tầng lớp trung lưu Hà Nội trước 1954. Tất nhiên là nó đối nghịch với xã hội miền Bắc mà tôi sống trong 20 năm “cải tạo xã hội chủ nghĩa” và chiến tranh, ở đó chính quyền toàn trị biến xã hội thành một trại lính khổng lồ, tất cả cho cuộc chiến, mọi người chia sẻ với nhau cảnh nghèo nàn đơn điệu; ở đó sự “nông thôn hoá” Hà Nội khiến cho lối sinh hoạt bình dân, suồng sã đánh bạt lối sống đài các, thanh lịch của chốn ngàn năm văn vật… 

Chủ Nhật, 10 tháng 9, 2017

Hoàng Hưng: Cảm nghiệm từ một người làm thơ trong nước về Thơ Việt Hải ngoại

(lược ghi phát biểu tại buổi Ra Mắt Sách “40 năm Thơ Việt Hải ngoại” tại Orange County 3/9/2017)

Nhà thơ Hoàng Hưng, nhà thơ Cung Trầm Tưởng 
Tiếp xúc đầu tiên của tôi với thơ Việt Hải ngoại là tập Thơ Cao Tần (những năm 1970) hình như do nhà văn Nhật Tiến gửi về cho em trai là nhà văn Nhật Tuấn.
Ngay lập tức, tôi xúc cảm mạnh với tâm trạng bi phẫn, tuyệt vọng, cười ra nước mắt của người bị mất tất cả, bị lưu đầy cộng với nỗi nhớ thương tiếc nuối những gì thân yêu nhất… Những câu thơ hôm nay tôi còn nhớ và còn xúc động:  
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió 
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan 

Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi 
Những hào hùng uất hận gối lên nhau 
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới: 
Ta làm gì cho hết nửa đời sau? 

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2016

Nguyễn Quang A; Nguyễn Huệ Chi; Hoàng Hưng - Tố cáo và phản đối Truyền hình An ninh TV vu cáo trắng trợn, ngang nhiên bôi nhọ danh dự của công dân (có bản dịch tiếng Anh)

Trên kênh youtube phát ngày 14.5.2016 có clip “Bằng chứng Việt Tân chỉ đạo dùng bom xăng để kích nổ "Cách mạng Cá" ở Việt Nam” của An ninh TV (xin xem https://www.youtube.com/watch?v=lUAs-GbdvTE), ở phút 04:45 có đoạn như sau:
“... Một số đối tượng, nhóm hoạt động trá hình ở trong nước ra các bản tuyên bố, kiến nghị, thư ngỏ mang tính lừa bịp, điển hình như bản tuyên bố do Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Hưng khởi xướng, kêu gọi ký tên. Theo cơ quan chức năng, đây là thủ đoạn nhằm khuếch trương thanh thế, nguỵ tạo dư luận nhằm lôi kéo, tập họp lực lượng mà các tổ chức cá nhân chống đối thường xuyên sử dụng trong thời gian qua. Bản chất là các tổ chức phản động lưu vong và một số phần tử xấu lợi dụng vụ việc và lòng tốt của người dân để kích động kêu gọi tụ tập gây rối theo kịch bản cách mạng đường phố được chúng gọi tên là cách mạng cá…”:
Trong clip này, tên của chúng tôi được phát kèm theo ảnh chân dung rõ mồn một.
Chúng tôi kiên quyết phản bác những nhận định vô căn cứ, bôi nhọ, vu cáo chính trị ác độc mà An ninh TV đã ngang nhiên áp đặt cho bản Tuyên bố và cho cá nhân chúng tôi.
“Tuyên bố về vụ đầu độc biển miền Trung” được khởi xướng bởi rất nhiều trí thức có tên tuổi, phẫn nộ trước tình trạng vô trách nhiệm, chậm trễ, bất lực của nhiều cơ quan chính quyền Trung ương và địa phương, thấy cần lên tiếng một cách mạnh mẽ nhưng ôn hoà để buộc chính quyền khẩn trương kiên quyết xử lý tai hoạ vô cùng nguy hiểm cho nước cho dân.

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015

HOÀNG HƯNG - VIẾT VỀ THƠ Ý NHI


“VƯỜN” CỦA Ý NHI

Cuối một ngày tất bật, cuối con đường tấp nập, ta gặp một khu vườn. Khu vườn lặng lẽ như không thể có trong sự ồn ã của thành phố phương Nam này. Lặng lẽ của con sóng “còn chuyến đi bền bỉ tới bờ”, của đoá hoa quì “tựa ngọn đèn ai thắp trong vườn / mong bước chân về”, của động tác “thắp ngọn đèn qua đêm chiến tranh / như thắp một nén hương”, của chiếc nhẫn hẹn ước “tuột khỏi vòng tay [ngón tay thì đúng hơn?]/ lẩn mình cùng sỏi đá”… Đây là khu vườn của ký ức. Người đàn bà ở bên kia đỉnh dốc mong tìm nơi “vòm dẻ nhuốm vàng kia / lời nguyện cho nỗi yên hàn” mà ký ức không thể yên hàn, ước nguyện “ra đi / như người đàn bà đi khỏi mối tình của mình” mà kỷ niệm không sao cất bước. Vì đã có một mối tình đi qua không bùng nổ không dông bão mà in dấu rất sâu trong “ánh chớp số phận”, có lẽ cho đến hết cuộc đời vẫn còn làm chị “lặng lẽ nói cười lặng lẽ nát tan”. May chăng thoát khỏi nỗi buồn u ẩn kia là những “đôi khi” bắt gặp lẽ vô cầu của chiếc gàu cứ thả mình trong sự va đập, của đứa trẻ bán xực tắc mải mê trong tiếng gõ…, là lúc “được bao phủ bởi thứ ánh sáng mơ hồ” của cái quán phi-thời-gian nào đó. Và khi ấy ta gặp lại mộng ước của tuổi 15 “được ra đi / ra đi mãi / về phía dãy núi màu lam sẫm”.

Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Hoàng Hưng & Hoàng Minh - Trò chuyện giữa nhà thơ Hoàng Hưng và nhà văn Hoàng Minh Tường quanh sự cố tiểu thuyết Nguyên khí bị cấm xuất bản

Hoàng Hưng & Hoàng Minh -

HH: Xin chào tác giả tiểu thuyết Thời của Thánh Thần. Đọc báo mạng mấy hôm nay thấy nhà văn đang gặp nạn. Chợt nhớ câu thơ của thi hào Nguyễn Khuyến: “Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông/ Nó lại lôi ông đến giữa đồng…”. Hình như ông cũng vừa bị “lèn” cho một vố đau như thế?


Nhà văn Hoàng Hưng

HMT: Cám ơn nhà thơ Hoàng Hưng đã quan tâm. Ông vận thơ Nguyễn Khuyến để vấn an tôi, quả là một lời thăm hỏi văn hoá. Tôi không bị “lèn”, nhưng còn đau hơn thế. Vì giá thân xác mình bị đau đã đi một nhẽ. Nhưng đây lại là đứa con tinh thần của mình, sản phẩm sáng tạo văn chương của mình bị bóp từ trong trứng, mới đau đớn hơn nhiều…

HH: Nhưng cơn cớ làm sao? Đọc chương trích (Sử thần Ngô Sĩ Liên) trên các báo mạng thì thấy đây hoàn toàn là một cuốn tiểu thuyết lịch sử.

HMT: Vâng. Tôi biết thời chúng ta đang sống bây giờ là mảnh đất màu mỡ cho các nhà tiểu thuyết đương đại. Nhưng sẽ chẳng có nhà văn nào thành công, nếu không tự bẻ cong ngòi bút của mình đi, tự đẽo gọt những trang văn cho tròn trĩnh, nhợt nhạt… Vì thế tôi phải chọn đề tài lịch sử, trốn vào lịch sử may ra mới an toàn…

HH: Vậy mà ông có an toàn đâu. Nghe nói Cục Xuất bản Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấm xuất bản tiểu thuyết Nguyên khí của ông? Lý do là gì nhỉ? Chỉ vì ông đã gửi bản thảo đến mấy nhà xuất bản và bị từ chối? Chỉ vì NXB Tri Thức không có chức năng in tiểu thuyết?

HMT: Những lí do kì quặc phải không? Các nhà xuất bản có thể từ chối in một cuốn sách là chuyện bình thường. Có thể có một bản thảo bị 9 nhà xuất bản từ chối, nhưng đến nhà xuất bản thứ 10 thì lại được vồ vập chào đón thì sao? Tuyệt tác Lolita của Nabokov đã từng bị tất cả các NXB ở “cựu lục địa” từ chối đấy thôi. Lý do thứ nhất là vớ vẩn. Còn lý do thứ hai, nếu NXB Tri Thức không có chức năng in tiểu thuyết, thì các vị có cho tôi in ở các nhà xuất bản có chức năng in tiểu thuyết (ví dụ NXB Văn Học, Hội Nhà văn…) không? Câu trả lời dứt khoát là: Không. Các vị nại ra lý do cho có vẻ dân chủ. Thực chất là các vị muốn bóp chết một tác phẩm khi còn chưa ra đời. Vậy đó. Rất buồn là mấy chục năm nay giới sáng tác chúng ta bị vây bủa bởi một hệ thống xuất bản không giống bất kỳ nơi nào trên thế giới. Tôi bỗng nhớ lại câu chuyện đúng ba mươi năm trước của ông…

HH: Về tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng Cầm và chuyện Hoàng Cầm với tôi bị vào tù bởi tập thơ ấy?

HMT: Ông có đọc tiểu thuyết Thời của Thánh Thần của tôi không? Ông có ấn tượng gì với nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ trong tác phẩm?

HH: Hình như ông muốn mượn câu chuyện tôi bị bắt vào Hoả Lò để viết về một đoạn đời của Nguyễn Kỳ Vỹ?

HMT: Trường hợp các trí thức bị bắt oan như Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung, Hoàng Hưng, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên… hồi ấy nhiều lắm. Từng người đều có bóng dáng trong nhân vật nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ của tôi. Vậy mà người ta bảo Thời của Thánh Thần là cuốn sách đen, bôi nhọ chế độ. Nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn ở các hệ thống trường đảng đều nêu Thời của Thánh Thần như một cuốn sách bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa.

HH: Còn bây giờ, Nguyên khí có phải là một cuốn sách đen không?

HMT: Tôi cũng không biết nữa… Với hai lý do mà Cục Xuất bản bộ Thông tin và Truyền thông gán cho, thì không biết chừng họ còn xếp Nguyên khí trên cả sách đen. Họ không đủ kiên nhẫn chờ cho Nguyên khí xuất bản rồi mới thổi còi như lâu nay họ vẫn làm, mà họ xục xuống tận nhà xuất bản, bắt đem nộp bản thảo để kiểm duyệt. Tôi bỗng nhớ mồ ma nhà văn Trần Hoài Dương. Một đêm kia, ông choàng tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm. Ông vừa mơ một giấc mơ khủng khiếp, rằng cách mạng thành công từ năm 1930 chứ không phải 1945. Nếu quả như vậy thì Thơ Mới, Tự lực Văn đoàn, Mỹ thuật Đông Dương… đã bị bóp chết từ trong trứng, chứ làm gì được tồn tại để bây giờ chúng ta tự hào có những di sản tinh thần vô giá. Và may thay, thời ấy, nhờ bọn thực dân không kiểm duyệt kỹ như bây giờ, mà những Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân… mới còn để lại được Số đỏ, Chí Phèo, Tắt đèn, Bước đường cùng, Bỉ vỏ, Vang bóng một thời…

HH: Quả là một giấc mơ khủng khiếp…

HMT: Vâng. Tận diệt văn hoá là một tội ác khủng khiếp. Triệt tiêu động lực sáng tạo của người viết, bóp chết tác phẩm khi còn trong trứng là vi phạm nhân quyền… Một nền văn học chỉ dung dưỡng những tác phẩm tụng ca, một nền xuất bản lúc nào cũng khuyến cáo các nhà văn hãy tự kiểm duyệt các tác phẩm của mình ngay từ khi ngồi trước trang viết, thì còn gì là văn chương.

HH: Qua vụ cấm xuất bản Nguyên khí, ông có thấy mình bị mất nhân quyền?

HMT: Nếu tôi bảo rằng nhân quyền là thứ xa xỉ với xứ sở này thì ông có tin không? Với trí thức, tầng lớp nhạy cảm nhất của xã hội, thì đó là nỗi đau âm ỉ. Nhân quyền của nhà văn chính là Văn quyền, quyền được viết, được công bố tác phẩm. Không có thứ quyền tối thiểu này nhà văn sẽ bị triệt tiêu động lực, khát vọng sáng tác. Người ta đặt ra luật xuất bản chỉ cốt để bó tay người viết. Nhiều người khuyên tôi khởi kiện kẻ đưa ra lệnh cấm lưu hành để đến nỗi Thời của Thánh Thần bị đầu nậu in lậu hàng vạn bản, bất cứ hàng sách vỉa hè nào cũng thấy bày bán, mà chẳng bị ai thu hồi. Tác giả, NXB, nhà nước, bị thiệt nhiều triệu đồng, độc giả bị đọc một thứ ấn phẩm vừa sai lỗi vừa mất câu… Nhưng kiện ai, thưa ông? Kẻ ra lệnh cấm luôn lẩn trong bóng tối. Không có văn bản. Chỉ một câu nói, hoặc một giọng nói qua điện thoại.

HH: Ông nói khiến tôi thấy nản. Chả lẽ hơn bẩy chục nhà xuất bản trên cả nước đều sợ hãi trước những câu nói phát ra từ bóng tối…?

HMT: Ông có tin không, khi có người bảo rằng, hầu hết các Giám đốc các nhà xuất bản trong cả nước ta đều là cánh tay nối dài của An ninh văn hoá, của Cục Xuất bản. Họ biết sách của anh hay, nhưng họ không dám in, vì họ còn phải bảo vệ niêu cơm của họ. Khi viết xong Nguyên khí, tôi có đưa cho một vài người bạn làm lãnh đạo các nhà xuất bản, vốn có viết lách, có hiểu biết văn chương. Tôi nghĩ rằng họ về hưu rồi, già rồi, còn gì phải sợ. Vậy mà sau khi đọc, họ đều lắc đầu: Rằng hay thì thật là hay, nhưng tôi xuất bản còn gay hơn nhiều. Tôi còn phải giữ cái niêu…(!). Đó, kẻ sĩ thời nay đó…

HH: Thế mới tiếc là cách đây chục năm, vẫn còn có những Giám đốc xuất bản có bản lĩnh. Như ông Nguyễn Văn Ngợi, NXB Thanh Niên, đã in Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, ông Quang Huy, NXB Văn hoá - Thông tin, dám in mấy bài thơ tù của tôi trong tập Người đi tìm mặt, ông Nguyễn Khắc Trường, NXB Hội Nhà văn, in Thời của Thánh Thần… Song, hình như mươi năm nay, chính sách xuất bản ngày càng khắt khe với những nội dung “nhạy cảm”, khiến không còn cơ hội xuất hiện những giám đốc bản lĩnh như thế nữa. Và hình như đó cũng là thông điệp mà ông muốn gửi đến bạn đọc qua tiểu thuyết Nguyên khí?

HMT: Đúng là như vậy. Qua câu chuyện vụ án Lệ Chi Viên, tôi không chỉ minh oan cho hai đại quan triều Lê sơ là Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi và Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ, mà còn đề cập tới gương mặt kẻ sĩ thời nay. Họ là hậu duệ của Ức Trai tiên sinh, đau đáu với vận mệnh dân tộc, căm ghét cường quyền, nhưng nếu gặp phải một xã hội toàn trị, họ cũng đành thúc thủ, một số người cũng đành chịu chung số phận như Nguyễn Trãi thời xưa…

HH: Có nghĩa là Nguyên khí không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử đơn thuần, mà có đề cập đến cả đương đại.



HMT: Tôi dựng lại không khí lịch sử thời Lê sơ một phần qua góc nhìn, cách đánh giá của người đương thời. Tác phẩm, ngoài hàng loạt những nhân vật lịch sử nổi tiếng, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Ngô Sĩ Liên, Trịnh Khả, Lê Thái Tông, Đinh Liệt, Lương Đăng, Nguyễn Thị Anh…. Còn có một vài nhân vật hiện đại như Giáo sư Hoàng Nguyên, Chủ nhiệm Huỳnh Đạo, Thọt Bỉ Nhân, Đỗ Chí Cao, Ngô Tháp, v.v.

HH: Tôi hiểu ra rồi… Người ta bắt lỗi ông chính là ở những trang viết về các nhân vật hiện đại và thời cuộc hôm nay. Tiểu thuyết Nguyên khí có không khí tranh biện và với một bút pháp hậu hiện đại?

HMT: Tôi có đọc về khuynh hướng hậu hiện đại. Nhưng tôi không viết theo lý thuyết. Tôi viết bằng cảm quan và kinh nghiệm của mình. Việc phân loại dành cho các nhà lý luận. Tôi chỉ tin một điều, nếu những ai đã đọc và yêu thích tiểu thuyết Thời của Thánh Thần của tôi, thì sẽ không thất vọng khi đọc tiếp Nguyên khí.

HH: Ông định sẽ công bố Nguyên khí trên mạng?

HMT: Còn cách nào khác nữa? Thời đại bùng nổ thông tin cho người viết chúng ta một khả năng bất tận, đó là anh có thể đến mọi chân trời, nếu anh đem đến cho người đọc một điều gì mới mẻ.

HH: Thầy Nhất Hạnh có câu này: “Be free where you are” (Hãy tự do ở bất cứ nơi nào anh đang ở). Tôi nghĩ không ai tước đoạt nổi tự do của người sáng tạo, trừ khi anh ta tự tước quyền mình. Nhưng quyền công bố tác phẩm lại do chính quyền từng nơi quyết định. Điều tôi cứ nghĩ mãi không ra là: Suốt mấy chục năm, họ cứ cấm, cứ bắt, cứ cắt… mãi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là “quảng cáo” không công cho tác phẩm, tác giả bị cấm, bị bắt. Thế mà họ vẫn cứ làm như chưa hề có kinh nghiệm về tấn bi hài kịch ấy. Tại sao thế nhỉ? Phải chăng trước đây họ hy vọng nỗi sợ vô hình do họ gây ra trong toàn xã hội, mà trước hết cho “kẻ sĩ”, sẽ bảo đảm cho quyền lực toàn trị của họ, còn bây giờ thì chính họ bị kẹt cứng trong nỗi sợ vô hình bị đả kích, bị lên án, bị trở thành tội đồ của lịch sử? 

HMT: Gót chân Asin của Tần Thuỷ Hoàng chính là nỗi sợ hãi người đời phỉ nhổ. Những chế độ độc tài toàn trị mọi thời đều có gót chân như vậy. Họ sợ hãi sự minh bạch, sợ hãi mọi sự phản biện. Hình như giáo sư Ngô Bảo Châu có nói rằng: “Một xã hội không có phản biện là một xã hội đang chết lâm sàng”. Tôi lại nhớ câu của nữ nhà văn Pháp Yveline Féray, tác giả tiểu thuyết Vạn Xuân: “Tấn thảm kịch thực sự của Nguyễn Trãi, là tấn thảm kịch của một vĩ nhân sống trong một xã hội quá ư bé nhỏ”. Cái xã hội quá ư bé nhỏ ấy, không chỉ tồn tại ở thời Ức Trai tiên sinh, mà ngay cả ở chế độ có bom hạt nhân của Kim Jong Un và bạn bè chúng, cũng mãi mãi quá ư bé nhỏ vậy thôi…

HH: Còn một thắc mắc nữa, tôi không hiểu vì không nằm trong “tổ chức”. Thế cái Hội Nhà văn nước ta sinh ra để làm gì nhỉ? Hội không có động thái gì bênh vực các tác giả bị sách nhiễu như anh sao? Và các đồng nghiệp của anh? Họ có phản ứng gì không?

HMT: Thưa nhà thơ, nhà thơ quá biết câu trả lời rồi, còn hỏi làm gì nữa…

HH: Ôi thôi, vậy những chuyện này không chỉ là chuyện của ngành xuất bản, của an ninh văn hoá, mà là chuyện “nguyên khí” của cả một dân tộc đang… hết hơi? Với một “nguyên khí” như thế, dân tộc này làm sao bảo vệ được sơn hà xã tắc mà cha ông truyền lại? “Một câu hỏi lớn không lời đáp”!

Nguồn: Bauxite Việt Nam


Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Hoàng Hưng - Với tôi, Làng Mai là một công án


Hoàng Hưng

Bài này viết ngay sau hai khóa tu Mùa Hè 2012 ở Làng Mai và Học viện Phật giáo Ứng dụng châu Âu, nhưng tôi muốn nghe ngóng lòng mình qua thời gian sau khi những bồng bột tan đi, còn những gì đọng lại. Một năm đã qua, khoá tu Mùa Hè 2013 đã tới, đọc lại vẫn thấy cảm xúc còn nguyên, vậy xin công bố như một thu hoạch tu tập, cũng như một kỷ niệm ân tình với Làng. 


Tặng Thơ cho Thầy và được Thầy tặng Thơ.

Trên chuyến bay từ Paris đến Reykjavik, thủ đô Iceland, tôi không khỏi mỉm cười khi thấy trên màn hình giới thiệu du lịch có những từ “mindfulness” (chánh niệm), “meditation” (thiền), “here and now” (bây giờ và ở đây). Hôm trước cũng nghe một thiền sinh ở Làng Mai (LM) chia sẻ rằng cô thích thú khi nghe một nữ tiếp viên hàng không nói với khách: “Please have mindfulness to bring your luggage down…” (xin chánh niệm khi đưa hành lý xuống…). Thiền tập đã đi vào đời sống người châu Âu đến vậy, có phần ảnh hưởng khá lớn của LM.

Với riêng tôi, Làng Mai (LM) là một “công án” ám ảnh nhiều năm. 

Tôi biết từ lâu một thi sĩ với những vần thơ tự do khá mới mẻ chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện bên cạnh những bản dịch tuyệt bích thơ tứ tuyệt Lý Trần. Cũng nghe từ lâu dòng tu “nhập thế” nổi tiếng với Phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội, với những vận động hòa bình cho Việt Nam, với con tàu cứu vớt thuyền nhân… Cũng đọc không ít sách Đạo của vị Thiền sư (TS) được coi là tu sĩ Phật giáo lớn thứ nhì thế giới hiện nay mà người đọc và học trò đã lên tới nhiều triệu trên khắp hành tinh. Tôi ngưỡng mộ ông là chuyện tất nhiên. 

Nhưng thú thật, với kinh nghiệm một đời lăn lộn, vỡ mộng cũng nhiều, cộng với “sở tri chướng” của kẻ “đa thư”, luôn e ngại mọi thần tượng, giáo chủ có “charisma” dẫn dụ bày cừu mê mẩn, tôi vẫn giữ thái độ “quan sát” đối với LM.

Ấn tượng đầu tiên của tôi với LM có sự mâu thuẫn. Lần đầu tiên tiếp xúc, vào năm 2005 khi TS đưa tăng đoàn về VN, là trong buổi pháp thoại của TS ở Viện Goethe. Ấn tượng này đã được ghi lại gần như tức thời qua bài thơ Bậc thầy (bài này đã in trong tập Hành trình, NXB Hội Nhà văn, HN 2005, bản tiếng Anh The Master in trong chapbook Hoang Hung, Poetry & Memoirs do International Poetry Library of San Francisco xuất bản, và đọc trong đêm thơ-văn “Echoes of Vietnam” tháng 3 năm 2012 ở Santa Cruz):
“Thầy vào như hơi gió
Tăng đoàn rạng rỡ tuệ quang…”

Quả thực hình ảnh khinh khoái hiếm thấy của một ông sư và ánh sáng trên gương mặt các học trò của thầy chinh phục tôi nhiều hơn những lời thuyết giáo.

Nhưng rồi ngay sau đó, tôi bị hẫng khá mạnh khi nghe qua bản thu âm câu hỏi đáp trong một buổi thầy thuyết trình ở Viện Khoa học Xã hội miền Nam. Một “giáo sư” giọng rất gay gắt (nói cho đúng là khiêu khích) nhắc lại hai lần câu hỏi, lần sau gắt hơn lần trước: “Tôi xin hỏi TS, nếu bây giờ tôi quy y thì tôi có còn được quyền yêu Đảng, Đảng do Bác Hồ sáng lập và lãnh đạo, có được quyền yêu nước, nữa hay không?” Có lẽ quá bất ngờ trước câu “truy hỏi”, TS hơi sững một chút, rồi đáp: “Không yêu Đảng không yêu nước thì quy y làm gì!”. Thú thật là tôi bất mãn với câu trả lời. Yêu nước, OK, còn “yêu Đảng”? Sao lại phải yêu cái đảng tuy một thời có công lãnh đạo cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất cho đất nước (tuy là với cái giá quá đắt, vấn đề này mang tính lịch sử rất phức tạp, lúc khác sẽ bàn), nhưng gần đây nó đã biến chất, suy thoái rõ rệt, không còn tính chính đáng? 

Hình ảnh sơ phác của LM trong tôi thế là trong cái sáng vẫn còn cái “lăn tăn”.

Ba lần đến với Làng Mai:
Ba năm nay, Trời Phật sắp xếp sao đó để tôi có cơ duyên thực sự đi sâu, đi sát LM, để ngày càng hiểu rõ và hiểu đúng về Làng. 

Tôi đã đến gần với LM qua những ngày hoạn nạn của các học trò TS ở Bát Nhã. Tôi đã thấy ánh sáng rạng rỡ trên gương mặt người thân của mình sau mỗi chuyến lên Bát Nhã tu tập đợt hai tuần, đợt ba tuần. Tôi đã thấy ánh sáng rạng rỡ trên gương mặt, đã nghe tiếng cười hồn nhiên của những sư em, những thực tập sinh trẻ măng căng tấm ni lông giữa trời hứng nước mưa khi bị các đệ tử của ông Đức Nghi cúp nước. Tôi đã nghe người thân kể chuyện những người trẻ là con em gia đình “cộm cán”, hay bản thân là trí thức trẻ đầy tương lai, đã dứt bỏ tất cả đi theo con đường LM để thực hiện tâm nguyện Bồ tát trước cứu mình sau giúp người ra khỏi cõi mê.



Tiếp ngay đó, cơ duyên lại đưa tôi đến thẳng LM. Nhân đi làm công việc dịch thuật ở Paris, hai vợ chồng tôi quyết định ghé xuống Làng vài hôm. Không liên lạc được trước, chúng tôi cứ đi, nghĩ có duyên thì gặp. Quả nhiên trong lúc tôi đang nằm thẳng cẳng ngủ giấc trưa “bụi đời” trên ghế băng trước cửa ga xép Sainte Foye La Grande chưa biết cách nào đến được LM, thì xuất hiện một sư cô người Tây trong trang phục màu đà quen thuộc của LM. Tình cờ cô ra đón một khách của Làng từ Paris tới. Thế là cô vui vẻ đưa chúng tôi về Xóm Mới, và cho biết ở đó đang có một khóa tu ngắn ngày. Bước chân vào Xóm, người tiếp đón chúng tôi là một sư cô trẻ măng đồng hương Hà Nội. Sau này tôi biết cô là con gái cưng của một quan chức cao cấp, lại biết cả mẹ cô cũng đã xuất gia theo gót con gái (thật dễ hiểu vì sao những quyền lực thế gian lại “kỵ” Bát Nhã, LM đến vậy!). Ba ngày ngắn ngủi ở LM tóm lại một cảm tưởng: một tiên cảnh giữa trần gian, với cảnh đồng quê đồi rừng thanh bình đẹp đến nao lòng, với những tiên đồng ngọc nữ tươi tắn trong veo và thanh tú, với hàng trăm người trong đại gia đình quốc tế vui vẻ và thành kính thực tập những “pháp môn” rất giản dị để thân tâm an lạc: tập thở vào thở ra, tập bước đi chánh niệm, tập ngừng lại khi nghe tiếng chuông… 

Trong lần sơ ngộ này có một chi tiết tình cờ nhưng ít lâu sau thành một yếu tố gắn tôi với LM. Trong màn tự giới thiệu khi chia sẻ trong nhóm “gia đình”, tôi thành thật nói mình là nhà báo, không phải Phật tử (nói cho chính xác là không quy y Thầy nào, không theo tổ chức của chùa nào). Tôi đọc thấy vẻ ngỡ ngàng của quý ni sư và Phật tử. Giờ giải lao, một ông “Tây” to lớn đầu râu tóc bạc xin có vài lời với tôi. Ông bảo: “Tôi xin tự giới thiệu, tôi là cố vấn của Tổng thống Israel, nhưng tôi cũng là đệ tử của Thay (các đệ tử Âu Mỹ của TS đều gọi TS là Thay như một tên riêng) từ chục năm nay. Tôi không hiểu vì sao ông có ý nói ông là nhà báo nên không thể là Phật tử?” Tôi chỉ cười, đáp: “Mỗi nước có một hoàn cảnh khác nhau ông ạ”. 

Chỉ vài tuần sau đó, tôi đang ở chơi nhà chị Thụy Khuê dưới Côte d’Azur, một biệt thự màu hồng đẹp như mơ trên đồi nhìn xuống biển Địa Trung Hải mà anh Lê Tất Luyến chồng chị là người tạo dựng và chăm nom, ngôi nhà luôn mở lòng đón tiếp bạn bè tứ xứ… thì dồn dập nghe tin Bát Nhã bị tấn công. Sự xúc động trong lòng tôi nhiều lần trào lên khóe mắt khi xem trên mạng những em thiền sinh ngồi an bình niệm danh Quán Thế Âm trước sự hung hăng dữ dằn của kẻ ác. (Trong dịp ở LM gần đây, mỗi lần nghe màn tụng Avakilotesvara trước khi Thầy pháp thoại, thì hình ảnh các em Bát Nhã niệm Quán Thế Âm lại hiện lên khiến sự xúc động của tôi lại dâng trào). Đến ngày cao điểm, bọn ác nhân xua đuổi 400 em khỏi Bát Nhã giữa trời mưa như trút thì tôi không nén nổi căm giận và xót thương. Tôi nhờ chị Thụy Khuê liên lạc ngay với Radio France International (RFI) – lúc này chị đã về hưu, chỉ còn cộng tác một chuyên mục với Đài – cho biết tôi muốn phát biểu trên Đài về sự kiện Bát Nhã. Tôi cũng không ngờ, như Thầy cho biết trong phút gặp gỡ đầu tiên ở LM, phát biểu của mình về pháp nạn Bát Nhã trên truyền thông quốc tế đã khởi lên cao trào lên tiếng bênh vực con em của LM đang gặp nạn, và cũng không ngờ việc này kéo tôi tiếp tục dấn thân vào vụ Bát Nhã, viết liên tục 9 bài trên các mạng trong ngoài nước, trong đó có Thư ngỏ và Thư thỉnh nguyện gửi ba nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước VN thu được trên 400 chữ ký bao gồm nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong ngoài nước và đảng viên Cộng sản kỳ cựu. (Đây là một câu chuyện hơi bị “ly kỳ”, dịp khác sẽ kể).

Với thầy Pháp Hữu, trụ trì chùa Thượng, LM.

Có một điều là tôi luôn khẳng định: lên tiếng bảo vệ các thiền sinh Bát Nhã không phải vì tôi là Phật tử hay đệ tử của LM (thực ra tôi từng là tín đồ Công giáo, đã chịu lễ rửa tội từ lúc còn nhỏ do các bà cô dẫn dắt, rồi lẳng lặng bỏ đạo khi các bà vào Nam và chính quyền Cụ Hồ về Hà Nội), mà chỉ do lương tâm của một nhà báo “thấy sự bất bằng”. Tôi bảo vệ các thiền sinh Bát Nhã là bảo vệ quyền công dân, quyền con người, quyền chọn đi theo một lý tưởng, một tôn giáo của những người trẻ tuổi – tương lai của dân tộc. Tôi đã trả lời phóng viên hãng AP cũng như các sĩ quan an ninh VN “làm việc” với mình như thế.

Sau khi Bát Nhã tan, tôi biết ngoài hàng trăm thiền sinh được LM bảo lãnh sang Pháp, Đức, Mỹ, còn hàng trăm em ở lại tản mác khắp nước vẫn kiên gan chịu đựng sự truy bức của chính quyền để tu tập theo pháp môn của Thầy. Đôi lúc có dịp gặp, tôi vẫn thấy được vẻ “vững chãi như núi cao, thảnh thơi dường mây trắng” (như lời một thiền ca LM) của những con người ấy mặc dù họ không còn được đi với nhau “như một dòng sông”. Tôi hiểu là LM đã gieo được những hạt hướng dương bất diệt trên quê hương đau thương này.

Vậy đến gần đây, “Công án LM” của tôi có thể “diễn nôm” thế này: 
1/ LM có “phép” gì đào tạo được những người trẻ tuyệt vời đến thế, những người quyết tâm thực tập ba đức Bi - Trí - Dũng của Bụt để “độ mình và độ đời”, giữa lúc nhan nhản quanh tôi là đám trẻ mất phương hướng, hoặc chỉ biết chạy theo “lý tưởng” làm giàu, tạo vị thế cho riêng mình, nói gọn là “vinh thân phì gia” bằng mọi giá, chấp nhận “đi với ma”, nhắm mắt che tai thậm chí hùa theo cái xấu cái ác, còn việc của dân của nước thì buông xuôi, mackeno, “đã có Đảng, Nhà nước lo”?

2/ LM làm thế nào hòa hợp được triết lý vô ngã, diệt dục của đạo Phật truyền thống với “chủ nghĩa cá nhân” sáng suốt và tính cạnh tranh là động lực phát triển của xã hội hiện đại? 

3/ LM làm thế nào thu hút hàng ngàn người, hàng trăm gia đình Tây phương, trong đó không ít trí thức, doanh nhân thành đạt đến sinh hoạt và tu học theo hướng dẫn của các tăng ni người Việt trẻ măng?

Mùa hè vừa rồi, nhân sinh nhật thứ 30 của LM, tôi có cơ hội được cùng người thân của mình tham dự hai khóa tu liền, của người Việt tại LM và của người Hòa Lan tại cơ sở mới rất đồ sộ của Làng vừa khánh thành bên Đức (EIAB: Học viện Phật giáo Ứng dụng châu Âu). Gần một tháng sống trong đại gia đình quốc tế LM, tôi cảm nhận có sự biến chuyển trong mình, kẻ luôn tự nhận “tên học trò mới bướng bỉnh”.
Đi tu vui lắm chứ!

Đây là những gì đọng lại trong tôi sau khi đã rời Làng một tháng:
Bao trùm là cảm nhận về một cuộc sống thư giãn, yên vui. 

LM đã khéo chọn những khung cảnh thần tiên cho đại gia đình của mình, những sườn đồi hiền dịu xanh nho, đỏ mận, vàng rực hướng dương, những cuộn rơm nằm im lặng trong nắng chiều, hay đồi cỏ mượt với hàng trăm cây táo đang ửng trái, giữa vùng quê thanh bình êm ấm mà ta khó lòng gặp được ở VN hôm nay. Không có những ngôi chùa thấp bé, tối tăm ẩn mình thời trước hay ngược lại hoành tráng phô trương lố lăng thời mới, “chùa” ở LM chỉ là những thiền đường rộng, thoáng, giản dị, duy nhất một ông Bụt Thích Ca mỉm cười với ta trên bệ thấp trước mặt (ta còn gặp trên đường thiền hành những ông Bụt nho nhỏ ngồi trên cỏ, không có tòa sen uy nghi, mà lũ trẻ Tây rất thích chơi với, có đứa ngồi trên lòng, ôm hôn ông gọi “Buddha! Buddha!” như gọi mẹ, có đứa đội mũ đeo kính cho ông như chơi với bạn…).

Nhưng điều khiến ta thư giãn, yên vui nhất chính là niềm vui tỏa ra từ các tăng ni ở Làng. Không hiểu sao tôi cứ nhớ đến những bà xơ vui tính trong một bộ phim ca nhạc của Mỹ. Từ “sư cô” ngoài 70 mà cứ xuất hiện là có ngay một dàn ca hát hình thành, đến “sư anh” hơn hai mươi tuổi trụ trì một ngôi chùa cả trăm tăng (trong đó có một vị hòa thượng) với cả ngàn thiền sinh Tây, mà gặp đâu cũng thấy cười đùa với đám teen, rồi trong đêm hội Trung thu thì đeo kính đen nhảy và hát “rap” (với lời “Đạo ca”, tất nhiên) khiến mấy cô bé cậu bé khoái trá nhảy nhót theo tưng bừng. Xin biết rằng những vị ấy, chỉ mấy phút trước đây vừa lăn lưng khênh vác, dựng rạp, và đêm qua còn thức đến nửa đêm dọn dẹp nhà bếp hay lái xe đưa khách về nhà nghỉ, hay chiều nay vừa dẫn dắt buổi “chia sẻ” của những người lớn tuổi mang nặng tâm tình u ám. Tôi rất thích cách nói của một cô “sư em” khi phân công mọi người tham gia “chấp tác”: “Mời các cô các chú chơi rửa chén (chơi lau nhà, chơi sấy muỗng nĩa…) với con!” Và đúng thật, ai nấy làm mà thấy vui như đang chơi với nhau vậy. Cũng như mỗi lần trông thấy tôi, các “sư chị, sư em” bao giờ cũng hỏi: “Chú ở Làng có vui không ạ?” thay vì hỏi: “chú đã học được gì ở LM?” 

LM có một sinh hoạt độc đáo chắc không hề có ở bất kỳ cơ sở tôn giáo nào: “Thiền buông thư” mỗi trưa. Nằm dài trong thiền đường, có sư thầy/ sư cô hát thiền ca cho mà… chìm dần vào giấc ngủ. Tôi đã bắt chợt cảnh ấy trong một khúc thơ:
“Em nằm trong thiền đường
Cỏ cây mùa hạ
Áo tràng
Xông hương”

“Thiền ca LM” có bài (đặt theo nhạc Phạm Duy): “Ai bảo đi tu là khổ, đi tu sướng lắm chứ! Ngồi tụng kinh, cái đầu rung rinh và con mắt lim dim…”

Nói “thiền ca”, thì quả thực, hai năm trước, khi nghe trong băng đĩa những bài dạy Đạo bằng lời ca “chế” từ các bài hát quen thuộc (có cả bài lấy từ “Năm anh em trên chiếc xe tăng” nữa chứ), tôi thấy nó… sao sao ấy! Rồi có một ngày, tôi lặng người nhìn cảnh hàng trăm người già, trẻ đủ màu da đứng vòng tròn giơ tay lên múa miệng hát say sưa bài I am free bằng mấy thứ tiếng, và tôi không thể ngăn mình hát theo. Từ lúc nào không biết, bây giờ, thỉnh thoảng lại tự bắt gặp mình lẩm nhẩm: “Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, hay Muốn ăn thêm nhưng có tiếng chuông, em thở vào thở ra…”

Một nữ kỹ sư dầu khí chuẩn bị xuất gia sau khi cả mẹ, chồng và hai con trai đều “theo chân Bụt”, kể với tôi: “Công an làm việc với em cứ thắc mắc tại sao LM thu hút được nhiều người trẻ đi theo thế? Em trả lời đơn giản: Anh không biết hồi trẻ chúng tôi được sinh hoạt Đội, Đoàn vui tươi, lành mạnh như thế nào hay sao? Bây giờ bọn trẻ có còn được thế không?”.

Hạnh phúc chính là con đường:
Một chị trí thức sống lâu năm ở Pháp chia sẻ: “Tôi thu nhận nhiều nhất từ lời dạy này của Thầy: Năng lực hạnh phúc là một đức hạnh căn bản”. Tôi nghe chị nói mà thấm thía. Cả thế hệ chúng tôi hầu như đã bị mất đi cái năng lực ấy. Vì hoàn cảnh xã hội ư? Tất nhiên, khi ta là con dân một xứ sở đầy tai ương kéo dài cả thế kỷ. (Ngày đầu tiên ở Làng, một vị hòa thượng bảo tôi: “Bác hãy buông thư trong thời gian hai tuần lễ ở Làng, bỏ hết những áp lực của 70 năm ở lại VN”).

Nhưng còn hàng ngàn con người từ những nước phát triển nhất, bản thân may mắn, thành đạt, vì sao họ kéo tới đây hầu như chỉ mong tìm được con đường thoát ra khỏi tình trạng bất hòa, xung đột trong gia đình, phiền muộn, dằn vặt trong nội tâm? Vậy đâu có thể đổ hết cho hoàn cảnh xã hội? 

LM chỉ cách để ta có thể sống hạnh phúc ngay trong hiện tại. Hạnh phúc không phải là đích đến, hạnh phúc chính là con đường, châm ngôn của Thầy trên những bức thư pháp chỉ ra điều mà tôi thấy là căn bản nhất của “pháp môn LM”. Bây giờ, ở đây. Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây. Hiện pháp lạc trú. Đâu phải đi tìm? Hãy sống hết mình với giây phút này, vì ta chỉ thực sống trong hơi thở này. Có thế thôi, còn gì giản dị hơn?

Nhưng để có được “đức hạnh căn bản” ấy, có khi phải đảo lộn toàn bộ nhận thức và lối sống sai lầm đã thành “tập khí” lâu dần “nội kết” trong ta. Làm sao gỡ những nội kết, từ “duy ngã” thành “vô ngã”, từ “tham đắm”, “chấp thủ” thành “buông xả”, “không ràng buộc”, từ “phân biệt” thành “không phân biệt”, từ “sân hận” thành “hiểu và thương”? 

Những bài “pháp thoại” của Thầy rất giản dị, và chỉ nhắc đi nhắc lại vài ý rất căn bản, dễ hiểu, ai đã đọc sách của Thầy chắc đều nhận ra. Riêng tôi, khái niệm “vô ngã” khó “tiêu” nhất đối với con người hiện đại được Thầy làm sáng tỏ một cách thuyết phục bằng thực tế “tiếp nối” (continuation) và “tương tức” (interbeing, interêtre) của sự sống. “Ta” là “ta” mà cũng là “người”. Khi “ta” làm cho “người” đau khổ thì chính “ta” cũng đau khổ, và ngược lại, khi “người” làm ta đau khổ thì “ta” phải biết rằng chính “người” cũng đang đau khổ!

Những nhận thức gốc ấy của Phật giáo nói thì dễ, nhưng thiếu gì người tụng kinh đọc sách một đời mà mặt vẫn nhăn như bị? Vậy vấn đề là tu tập để làm sao thực sự “ngộ”những chân lý ấy. Đọc sách Thiền, ta thích những mẩu chuyện “hoát nhiên đại ngộ” của người xưa. Nhưng với con người tầm thường như tôi, tôi tin ở quá trình “tiệm ngộ” hơn. Pháp môn LM là con đường dẫn dắt ta “ngộ” qua từng ngày. 

Thực hành và Chuyển hóa:
Trong các bài giảng ở LM, Thầy hay dùng từ “chuyển hóa”. Với hình tượng hoa sen làm mẫu. Hoa sen có năng lực từ từ chuyển hóa bùn thành hương thơm và vẻ đẹp, không chỉ thụ động “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” như ca dao nói. Ở LM, người ta không nói “đổ rác” mà “chuyển hóa rác”! 

Và LM “sáng chế” ra những “kỹ thuật” rất hữu hiệu mà đơn giản để ta luyện tập “chuyển hóa” mỗi ngày. Tự chuyển hóa thông qua tập “chánh niệm” trong từng công việc, lúc ăn, lúc đi vệ sinh…, tập “thở vào, thở ra” – quán hơi thở để thân tâm hợp nhất trong giây phút hiện tại, tập “ngừng lại” khi nghe tiếng chuông để nhận biết giây phút hiện tại. Chuyển hóa lẫn nhau thông qua những pháp môn “làm mới”, “tưới hoa”, “ái ngữ”, “lắng nghe”…

Thoạt đầu, thấy cái gì đó như đơn giản, như công thức, như “trại hè thanh thiếu niên”! Rồi, chỉ sau 5, 7 ngày, ta ngỡ ngàng nghe lời tâm sự của những thiền sinh có đời sống thật khó khăn thấy sự thay đổi xảy ra trong lòng họ. Một chị người Pháp gốc Việt hôm mới đến vừa khóc vừa hỏi: “Thầy dạy hãy nghĩ rằng mình không đi một mình, lúc nào cũng có ông bà, cha mẹ mình đang cùng đi trong từng bước… Nhưng con KHÔNG MUỐN họ đi cùng với con, con hận họ!”. Mấy hôm sau, giữa đêm hội Vu Lan, chị đột ngột chạy ra bàn điện thoại, gọi về nhà. Ông bố sững sờ. Đã bao nhiêu năm ông không chờ đợi cú điện thoại của cô con gái bỏ nhà ra đi! Những chuyện “người thực việc thực” như thế ở LM có nhiều lắm. Chỉ cần dẫn một con số: sau khóa tu 5 ngày của 800 người Hòa Lan ở EIAB, có 200 người xin quy y, trong đó có nhiều tín đồ Công giáo, Do Thái giáo. Họ quy y vì thấy đạo Bụt mà Thay dẫn dắt họ vào là con đường hạnh phúc. 

Còn riêng tôi, sau một tháng ở LM, tôi thấy mình học được nhiều hơn những gì mình học trong nhiều năm. Học từ đủ thứ xung quanh. Từ bước đi, từ nụ cười của Thầy (nhiều người nói đến sức mạnh “thân giáo” của “ông Thầy LM”), từ câu chuyện xử sự với chính quyền công an của một sư thầy, từ vẻ thành kính trên gương mặt chàng trai Tây phương khi bưng bát cơm lên niệm trước khi ăn… Nhất là từ các tăng ni tuổi con mình có phong thái đầy tình cảm mà thung dung, đĩnh đạc, đầy năng lượng tươi mát của “tâm ban đầu” (Xin cúi chào/ những người thầy rất trẻ/ của tôi… – những câu thơ ấy đã “vụt hiện” trong tôi giữa sân Xóm Trung, LM khi nghe các thiền sinh từ Bát Nhã hát về ngày mai đói nghèo tủi nhục /đang chờ mình dâng hiến bàn tay). Từ những con người bốn phương tụ họp với cùng một ý hướng tự tu, tự hoàn thiện. (Dịp khác tôi sẽ kể về những cái đẹp, cái lớn lao mình phát hiện được trong những anh những chị lặng lẽ, khiêm nhường hy sinh, chịu đựng, cống hiến suốt bao năm cho cộng đồng mà tôi có dịp gặp ở đây). Tôi hiểu thế nào là “sức mạnh tăng thân”, là “đi như một dòng sông”. 

Nhưng có lẽ điều “chuyển hóa” quan trọng nhất là tôi đi đến xác quyết này: Ở tuổi 70, mình vẫn phải “tự chuyển hóa” để có được năng lực hạnh phúc. Vì tôi cũng như không ít người già thường biện minh cho sự bảo thủ của mình bằng câu “ngũ thập tri thiên mệnh”, hàm ý đến tuổi 50 là chẳng còn thể thay đổi gì nữa. Không, ở tuổi 70, mình vẫn có thể “tự chuyển hóa”, và có thể “tự chuyển hóa” từ những thực hành tu tập cụ thể nhất, đơn giản nhất mỗi ngày trong cả ba lĩnh vực thân - khẩu - ý. 

Bụt – Chúa – Đảng và Thơ:
Khi mới đến LM, vào chào Thầy, tôi hồn nhiên thưa: “Thưa Thầy, tôi không quy y, không là Phật tử”. Thầy mỉm cười: “Phật tử đâu ở cái tướng?”. Tôi lại nói: “Thưa Thầy, tôi tiếc là mình không được gặp Thầy sớm hơn, nếu không chắc tôi đã đi theo Thầy. Bây giờ thì muộn rồi, thôi chắc xin hẹn Thầy kiếp sau!” (trong một bài thơ viết trên sông Hằng, tôi chả có lời nguyện cho tôi chết giữa dòng để hóa thân thành nhà thơ hay thiền sư lang bạt đó sao?). Thầy mỉm cười, bảo: “Làm Thơ cũng Tu được mà!”.

Ở LM tôi được nghe rằng: Sau một khóa tu, một thiền sinh đang là bà xơ băn khoăn có nên cởi áo chùng đen con Chúa khoác áo tràng nâu con Bụt? Thay nói: “Chúa hay Bụt cũng là một, con vẫn làm bà xơ nhưng tu tập theo pháp môn LM”. Tôi cũng thấy ở LM, các sư cô được gọi trong tiếng Pháp tiếng Anh là “soeur”, “sister” không khác gì bên nhà thờ Công giáo. Trong nhà ăn Xóm Mới, trên kệ thờ giản dị có hình Chúa sát bên hình Bụt. Tôi bỗng ngộ ra ý nghĩa câu trả lời của Thầy 7 năm trước: “Không yêu Đảng không yêu nước thì quy y làm gì?”. Liên kết với ý niệm “tâm ban đầu” của Thầy khi nhắc nhở những người Cộng sản VN về một thời tuổi trẻ họ sống có lý tưởng cứu nước, tôi hiểu Thầy muốn siêu việt ý niệm “Đảng” lên khỏi tầm của một tổ chức chính trị cai trị hay thống trị. 

Như thế, với tôi LM có lẽ không phải chuyện Tôn giáo, mà là chuyện Lý tưởng sống, chuyện Lối sống. Con người hiện đại quá kiêu hãnh đang tự hủy hoại chính mình và hủy hoại đồng loại, hủy hoại trái đất. Từ đó mà khổ đau chồng chất. LM cống hiến một lối sống dựa trên minh triết của Bụt để con người có được hạnh phúc ngay trong hiện tại. 

Câu cuối cùng Thầy cầm tay tôi nói lúc chia tay: “Hưng nhớ nhé, Thơ đi bằng hai chân: chánh niệm và hơi thở”. Lại một công án! Tôi sẽ phải giải công án này trong phần còn lại của đời mình.

H. H.
Nguồn: Bauxite Việt Nam