Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồi ký. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hồi ký. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

Hồi ký của Dương Như Nguyện: Kiến thiết Quốc Gia, thế hệ nằm xuống, những mất mát, và giấc mộng vỡ

Luật sư, Thẩm phán, Nhà văn,
Nhà thơ Dương Như Nguyện

I.

ÔN CỐ TRI TÂN:  CÂU CHUYỆN VĂN CHƯƠNG CUẢ 30 NĂM TRƯỚC 

Ghi chú cuả tác giả: Năm 1993, nguyệt san Thế Kỷ 21 (“TK 21”) đăng bài hồi ký dưới đây cuả tôi, “Nhữ ng Cỗ Quan Tài Cuả Tĩnh Tâm.” Độc giả Nguyễn Hà ở New Jersey yêu cầu TK21 đăng bản tiếng Anh cho thế hệ con cháu cuả mình. Tôi không nhận được lời yêu cầu đăng trên mặt báo. Mãi đến gần 30 năm sau, tôi tìm được số báo trong nhà của song thân sau khi ông bà đã qua đời. 

Tuy nhiên, sự tương ứng giữa tác giả và độc giả không bao giờ là quá trễ. 

Bản tiếng Anh mà độc giả Nguyễn Hà yêu cầu chính là khởi thủy tiếu thuyết lịch sử “Con Gái Cuả Sông Hương,” Tôi ký tên là Ng.Uyên Nicole Duong, xuất bản bởi Ravensyard Ltd. năm 2005 (bàn dịch Việt ngữ cuả Tiến Sĩ Linh Chân Brown), Lake Union tái bản năm 2011; trước đó, hồi ký ngắn tiếng Việt này nằm trong tập truyện “Mùi Hương Quế” xuất bản bởi Văn Nghệ, Calfifornia, năm 1999.  

Ray rứt vì vô tình bỏ qua trong 30 năm lời yêu cầu tha thiết cuả độc giả khi hồi ký mới ra đời, tôi đã khai triển ý kiến cuả thân phụ tôi về hồi ký ngắn này, và đưa một ấn bản mới có ý kiến cuả thân phụ tôi trong ấy.  Ý kiến đóng góp cuả thân phụ tôi, cố giáo sư Dương Đức Nhự cuả Đaị Học Văn Khoa Saigon cũ, đã được in đậm trong ấn bản online sau đây.  


Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023

Nguyễn Hữu Nghĩa: Một chút kỷ niệm với người già nhất Làng Văn

Học giả Lãng Nhân Phùng Tất Đắc.
Học giả Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, chết ở Anh quốc, ngày 29 tháng 2, thọ 100 tuổi.

Hai chữ “Làng Văn” trên tựa bài là báo Làng Văn, nhưng hiểu là làng văn, làng báo cũng được, vì hiểu cách nào thì hiểu, nếu còn sống, năm nay cụ đã 116 tuổi, già nhất ban biên tập. Tên cụ là Phùng Tất Đắc, bút hiệu Lãng Nhân.

Cụ sinh năm 1907, mất năm 2008, thọ 101 tuổi, lớn hơn bà ngoại tôi, lớn hơn cha tôi, và là người lớn tuổi nhất trong văn giới mà tôi biết, đã ra lệnh cho tôi gọi bằng “anh”, xưng “em”. Tôi vốn là đứa không sợ trời sợ đất (chỉ sợ vợ, vợ nào cũng sợ) nhưng ai bảo gọi sao thì cứ gọi vậy. Thế mà trong đời đôi khi cũng dở khóc dở cười vì sự ngoan ngoãn tuân lệnh đó.

Năm đó, tôi được Linh mục Sảng Đình giới thiệu vào phụ việc văn phòng ở Kim Lai Ấn quán và nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư. Việc tôi làm là cuối tuần và buổi tối tới đọc bản vỗ, sửa lỗi rồi đặt lên bàn để cụ Phùng phê duyệt. Việc nhẹ nhàng, hợp tạng, làm việc ngoài giờ, lương khá nên tôi thích lắm.

Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2023

Hoàng Thị Bích Hà: Anh tôi

Tác giả Hoàng Thị Bích Hà
Tôi có một người anh cá tính, hoang nghịch trổ trời mà lên. Từ nhỏ, thích trèo cây trong vườn. Có bữa leo phải cành ổi giòn bị gãy, thế là anh rớt xuống nghe uỵch một cái như trái mít rụng. Anh đau điếng cảm giác rêm ram cả mạng sườn. Anh sợ quá nằm im một lúc, nghĩ bụng chắc mình chết rồi! Mở mắt ra, giơ chân tay thấy còn ngọ nguậy được. Vậy là chưa chết lại phủi đất lò mò ngồi dậy (như chưa hề có cuộc chia ly). Anh chạy vô nhà thấy tôi ngồi chơi đồ hàng bên cửa sổ hỏi:

- Ê lúc nãy mi thấy tau té không?

- Anh có té à, em nghe bịch một cái, tưởng trái mít rụng chơ!

- Mít mô mà rụng tau té đó, đừng méc mạ nghe!

Trẻ con trong xóm có trò chi là anh tham gia trò nấy như thả diều, rượt nhau, bắn bi…Nghe nói bắt chuồn chuồn cho cắn rốn để biết bơi, vậy là anh cùng tụi bạn bắt chuồn chuồn rồi vén bụng lên cho cắn xong rồi cùng cả nhóm trong xóm ùa xuống bến sông nhưng chưa bơi được sải nào đã chìm nghỉm. Nhờ có anh bạn chụp tóc kéo vô, may không thôi chết. Sau về nhà ngồi ngẫm nghĩ chắc tại con chuồn chuồn kim cắn nên chưa hiệu nghiệm. Phải là con chuồn chuồn voi mới được. Vậy là trưa trời nắng gắt thế mà cũng lội từ vườn cây ra đến biền mà bắt cho được con chuồn chuồn voi. Cho cắn rốn sao mà nó ngoạm cho một miếng tươm máu rồi tự động viên không hề hấn chi miễn biết bơi là ok. Sau đó rủ tụi bạn xuống bến bơi nhưng vừa thả chân, thả tay ra khoát khoát vợi vợi vài cái cũng lại cũng chìm nghỉm. Nhưng lần này rút kinh nghiệm chỉ bơi chỗ nước ngang bụng nên không sao!

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2022

Nguyễn Công Khanh: Thầy Doãn Quốc Sỹ

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ  là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm nay tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay tôi cũng đã 87. Tính ra năm  thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”, dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không  gọi là “Giáo sư” như những năm sau này.  Mà người đi học thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”.

Thầy dậy tại trường Chu Văn An năm nào, thì tôi được học thầy năm đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng đọc tiểu sử của thầy, trên mạng Wikipedia  cho biết thầy chỉ dậy ở trường Chu Văn An có một năm 5253, sau khi thầy  dậy ở Nam Định một năm 5152. Trang mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 54, đoạn sau lại ghi thầy dậy trường Trần Lục tại Saigon năm 5360. Tôi không nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn vào Saigon trước năm 54. Không hiểu niên học 5354, trước khi di cư thầy dậy ở đâu. Chắc phải kiểm chứng lại mạng này, và đó là một câu hỏi tôi cần tìm  hiểu.

Trường Chu Văn An là hậu thân của trường Bưởi. Trường Bưởi ở khu Hồ Tây, bên cạnh đường tầu điện từ bờ Hồ Hoàn Kiếm qua Thụy Khuê đến trạm cuối là chợ làng Bưởi. Tôi chưa được vào xem trường này, chỉ ngồi nhìn từ trên xe điện. Nhất là sau này trường bị chiếm và là hậu cứ của lính nhẩy dù Pháp.


Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2020

Vương Tân (Hồi ký): Giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu, Ông Ngô Đình Nhu và Luật sư Lê Quang Luật.

Sau khi Vương Tân với bút danh Hồ Nam công bố trên tuần báo Việt Chính của nhà thơ Hồ Hán Sơn, công trình lý luận Vượt Mác từ A tới Z, nhà chính luận Nguyễn Phan Châu tên khai sinh Tạ Chí Diệp đến kiếm Vương Tân tại tòa soạn tuần báo Việt Chính số 47Trần Hưng Đạo quận nhì Saigon, nói với Vương Tân là ông Ngô Đình Nhu muốn gặp để nói chuyện về văn hóa. Nguyễn Phan Châu - Tạ Chí Diệp là người từng lập chiến khu chống Cộng ở Bình Định cùng với nhà văn Võ Phiến. Ông Châu bị Cộng Sản tuyên án tử hình khuyết diện. Cuối năm 1954, trong khi tướng Nguyễn Văn Hinh nắm Quân Đội Quốc Gia VN với chức Tổng Tham Mưu trưởng lên đài phát thanh Quân Đội tuyên bố Quân Đội Quốc Gia không còn tín nhiệmThủ Tướng Ngô Đình Diệm, Nguyễn Phan Châu đã cùng Thái Quang Hoàng, Đỗ Mậu lập chiến khu Đông tại huyện Bác Ái tỉnh Phan Rang chống tướng Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ thủ tướng Ngô Đình Diệm. Như vậy, Nguyễn Phan Châu tuy là con tinh thần của học giả Hồ Hữu Tường, và học giả Tường vì tham gia Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia của Đức Hộ Pháp của đạo Cao Đài Phạm Công Tắc, đã phải tránh mặt ra Rừng Sát, Nguyễn Phan Châu - Tạ Chí Diệp đưa cho Vương Tân tờ tạp chí Xã Hội và nói:

-Tất cả lý thuyết về Cần Lao Nhân Vị của ông Ngô Đình Nhu đăng trong tờ báo này qua bài nói chuyện của ông Ngô Đình Nhu tại trường Võ bị Quốc gia VN ở Đà Lạt mà Đỗ La Lam đã tóm lược toàn bộ, với sự góp ý của đích thân chủ nhiệm kiêm chủ bút Ngô Đình Nhu.

Bài nói chuyện về lý thuyết Cần Lao Nhân Vị của ông Nhu tại trường Võ bị Quốc Gia Đà Lạt sau này, được các lý thuyết gia của Đảng Cần Lao Nhân Vị dùng làm cái khung để xây dựng chính cương Đảng Cần Lao Nhân Vị mà ông Nhu có ý muốn để ông chú của Vương Tân là cụ Tạ Chương Phùng làm Tổng bí thư, nhưng ông chú của Vương Tân đã từ chối. Tôi nói, thì ông cứ đọc đi và cho ý kiến. Ông bảo:

- Gặp ông Nhu thì gặp nhưng mình nói trước không bàn chuyện chính trường.

-Mình sẽ gặp lại ông Nhu và sau đó thống nhất ngày gặp nhé.

Tôi hỏi ông Nguyễn Phan Châu rằng:

-Tôi sẽ đi xe Mô bi lét như ông vô dinh Độc Lập được không?

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Nguyễn Tiến Hưng - Nhìn lại lịch sử 40 năm trước


“It's so sad, it's so sad” (Thật là buồn, thật là buồn), tôi nghe thấy Pat lẩm bẩm nói bâng quơ... Không ai nói năng gì nữa. Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Tôi ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại,” TT Nixon viết để kết thúc cuốn hồi ký dài 1,120 trang. Ðây là lúc ông ngồi trên chiếc trực thăng rời Washington sau khi từ chức ngày hôm trước. Bà Patricia là phu nhân tổng thống.

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Trần Phương Khanh - Nước Mắt Trông Theo


Như cơn gió lốc, thằng Tùng mở bung cửa, chạy thẳng tới bàn thờ, quơ tay cầm cái bọc nylon mở ra, lựa lấy cái áo thung màu olive của nó ôm vào ngực, và cũng lại như lúc vào, nó quay lưng chạy ra sân, phóng đi mất hút. Bà Thắng nãy giờ im lặng nhìn con trai, chưa kịp lên tiếng đã thấy nó bỏ đi. Bà hốt hoảng gọi với theo: “Tùng, Tùng ơi! Con về sao lại đi Tùng ơi.” Bà cũng vụt đuổi theo nó, vấp ngã ngay ngưỡng cửa.

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

Ðoàn Thanh Liêm - Câu chuyện Di cư vào Miền Nam của tôi

Hình: Life
Bài viết nhân kỷ niệm 60 năm Di cư vào miền Nam (1954 – 2014) - Hồi tưởng của  Đoàn Thanh Liêm 

Năm 1954, tôi vừa tốt nghiệp văn bằng Tú tài II qua kỳ thi vào tháng 6 tại Hà nội, thì được tin quân đội quốc gia đã rút khỏi miền quê tôi tại Huyện Xuân Trường Tỉnh Nam Định để ra Hải phòng bằng đường thủy. Và một số bà con ruột thịt của tôi cũng tìm cách kiếm được thuyền bè để mà đi theo đoàn quân tới được thành phố cảng này. Tôi lại có ông anh cả thuộc đơn vị quân đội trú đóng ở Quảng Yên sát với mỏ than Hòn Gai. Nên vào đầu tháng 7, tôi đã tìm cách đi từ Hà nội đến Hải phòng để tìm gặp bà con và đi thăm gia đình ông anh luôn thể.

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Vũ Ánh - Làm Lại Từ Đầu Ở Tuổi 51

Nho à báVũ Ánh và phu nhân, Ngô Yến Tuyết
Khoảng giữa năm 1985, tôi và một vài người nữa được đọc lệnh tha ra khỏi biệt giam. Có thể quyết định này liên hệ tới một cuộc tổng thanh tra các nhà tù của Bộ Nội Vụ Việt Nam Cộng Sản diễn ra chỉ nửa tháng sau đó. Tôi không có bằng chứng cụ thể nào để gắn vụ tổng thanh tra này với kế hoạch “đổi mới tư duy” của chế độ, nhưng trước khi bị biên chế từ đội làm lò gạch sang đội “đặc biệt” phải di chuyển vào ở chung với khu tu sĩ, tôi đã bị gọi ra làm việc với an ninh trại và qua những chi tiết trong câu hỏi của viên sĩ quan công an phụ trách an ninh này tôi hiểu rằng đang có một biến chuyển chính trị nào đó khá quan trọng ở bên ngoài. 

Vũ Ánh - Những Quyết Định Khó Khăn Nhất Trong Đời Tù

Ra tù 1988-1992. Ðạp xích lô, dy kèm Anh văn
Trích "Thung Lũng Tử Thần," Người Việt Books xuất bản 2014.

Ăn đói, làm việc nặng, nhưng khi đau ốm thì cũng chỉ có “xuyên tâm liên,” một loại lá thuốc nam sơ chế được cấp phát cho tất cả mọi tù nhân cải tạo khai bệnh tại bệnh xá, từ nhức đầu, đau bụng, cao máu cho tới thổ tả, kiết lỵ, nhiễm trùng đường ruột, lao phổi… Chúng tôi châm biếm cái loại thuốc viên từ lá cây xuyên tâm liên nghiền nát đóng thành viên này là thuốc “cải sinh thành tử” hoặc là thuốc “cải tiến thành lùi,” lấy từ ý tưởng chiếc xe cút- kít hay chiếc xe bò do người kéo thì được người Cộng Sản gọi là “xe cải tiến.”

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Ðoàn Thanh Liêm - Tưởng nhớ những người bạn đã ra đi


(bài viết nhân kỷ niệm 60 năm Di cư vào miền Nam của Đoàn Sinh viên Đại học Hanoi : 1954 - 2014)

Sau Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20/7/1954 quy định việc chia đôi nước Việt Nam thành hai miền Nam/Bắc, thì tính ra có đến con số 1 triệu người từ miền Bắc di cư vào miền Nam. Trong số này, thì có đến khỏang gần 1,000 sinh viên thuộc Đại học Hà nội di cư vào miền Nam. Nhưng chỉ có độ 300 sinh viên đến cư ngụ trong các trại tiếp cư dành riêng cho sinh viên - mà bắt đầu tại trường Nữ Trung học Gia Long, rồi sau đó chuyển ra Khu Lều trên nền đất của Khám Lớn Saigon cũ – và sau cùng thì đến cư ngụ tại Đại học xá Minh Mạng ở Chợ Lớn.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Trần Đình Thế - Bới đất tìm xương

Trần Đình Thế

Từ một mẫu tin nhắn
Những ngày này Sàigon, một buổi trưa hè nóng bức, tôi lang thang vào internet một cách bất định thì vô tình đọc được một tin nhắn tìm người thân : “Gia đình muốn tìm tin tức về người anh của chúng tôi Lê Văn Tài – Số quân 74/70/428, thuộc Tiểu đội 1 –Tiểu Đoàn 38-Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân. Trong lúc rút quân từ Tây Ninh về thì mất tich……”

Tôi dừng lại suy nghĩ một hồi rồi quyết định sẽ liên lạc với người thân của gia đình Chú Tài – vì Bố tôi chính là Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự - Tiểu Đoàn Trưởng -  Tiểu Đoàn 38-Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân với mong ước nhỏ nhoi là cung cấp thông tin một cách khách quan nhất. Thông tin từ Mẹ tôi về thời điểm bà nhận xác Bố tôi vào ngày 3/5/1975 là tại trường tiểu học Trung Lập Hạ – xã Trung Lập Hạ - Huyện Củ Chi. Tôi liền liên lạc với Cô Hương là người nhà của Chú Tài….

Ngày thứ nhất :
Cái cảm xúc trở lại nơi chiến trường xưa làm lòng tôi xao động, lúc trên đường đầu óc cứ ngẩn ngơ hình dung ra khoảnh khắc đau buồn nhưng kiêu hùng, nơi đây vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, Bố tôi và các chiến hữu đã đánh một trận để đời và đã anh dũng nằm xuống cho quê hương, thỏa ước lòng kiêu hãnh, không bao giờ đầu hàng - họ những chiến sĩ  BĐQ oai hùng đã chiến đấu đến những viên đạn cuối cùng.

Quãng đường khoảng 50 km đưa tôi đến trường tiểu học Trung Lập Hạ – xã Trung Lập Hạ - Huyện Củ Chi. Tôi đứng trước cổng trường mà lòng đau thắt từng cơn, hình dung cảnh các chiến sĩ BĐQ  trói tại sân trường, bị nhục mạ, hành hạ….. trước khi đem ra cái mương gần đó để tàn sát bằng những họng súng của bọn du kích  tại địa phương, sao mà não lòng. Một cơn gió mạnh mẽ, cùng với cái nắng gay gắt mang cát bụi bất chợt đi ngang qua làm tôi chợt bừng tỉnh…. Ghé vào quán nước nhà tranh vách đất ven đường ngồi trấn tỉnh lại, tôi hỏi thăm chủ quán nước và họ cho biết tin; có một hố chôn tập thể cách chỗ tôi ngồi khoảng 1km, trên bờ ruộng của ông Mười Nghe, chính xác là 12 người lính của BĐQ bị tàn sát sau khi đã chiến đấu đến cùng và không chịu đầu hàng, họ bị bắt tại Hương lộ 2… tôi gần như mất hồn… thầm nghĩ như vậy là đúng rồi. Bỗng nhiên có một người được gọi là Cô Sáu ở đâu xuất hiện như một định mệnh, Cô tự nhiên kéo ghế lại sát bàn của tôi đang ngồi và nói như đang lên đồng: cái hố chôn tập thể là của lính Ông cọp trên vai trái, mà hình như người ta gọi là Biệt Động Quân, nghe đâu rút quân từ Tây Ninh về đến đây bị phục kích” tôi buộc miệng reo lên: như vậy là đúng rồi…..


Tiếp đó Cô Sáu nói, ngoài BĐQ rút từ Tây Ninh về đánh trận sau cùng, không có trận đụng độ nào hết…. chỉ có là sau ngày 30.4 bọn du kích đi lùng sục các dân địa phương mà đi lính VNCH, chúng cũng mang ra mà tử hình hết...... Cô còn nói với tôi là phải gặp chủ của cái ruộng đó là ông Mười sẽ biết được thêm tin tức, nói xong Cô đứng lên đi về như một làn gió mà tôi quá bối rối chưa kịp để cám ơn….

Sau đó tôi xin phép đứng lên và ra ngay bờ ruộng nơi tử hình 12 quân nhân BĐQ, nó trước đây là những cái hào được đào để chống chiến xa…. Người chủ quán nước hướng dẫn ra tận nơi đó là cái mô đất chôn 12 người, bọn du kích tập trung các quân nhân BĐQ đứng trên mép của cái mương rồi xả một loạt đạn AK, các thi thể ngã rộp như cây chuối bị đốn, sau đó chúng bỏ đi, người dân xung quanh thấy tội nên đã đắp vội nắm đất cho những anh hùng vô danh này….


(nơi thắp nhang là trung tâm của hố chôn tập thể)

Cảm giác lúc đó khó diễn tả, tôi cứ nhắm nghiền mắt và rơi lệ, giọt nước mắt của sự tiếc thương,đau đớn, giọt nước mắt của lòng căm phẫn….. để lắng nghe cũng như để hình dung ra thời khắc đó, chiều ngày 30 tháng 4 của 36 năm về trước…. tôi như dại người nhưng vẫn có giữ bình tĩnh nhằm để tìm hiểu thông tin một cách chính xác nhằm xác định bốc hài cốt cho Chú Tài – là người lính truyền tin ở lại sau cùng với Bố tôi.

Ngày thứ hai :

Những dòng chữ tìm người thân tưởng chừng như vô cảm trên internet, nhưng chan chứa khát vọng muốn tìm được tông tích của người thân, làm cho tôi có nhiều động lực đễ phải cố gắng tìm  được nơi diễn ra trận đánh và những cái chết đầy anh hùng của các quân nhân BĐQ đã oai dũng chiến đấu đến phúc cuối cùng cùng với Bố tôi.

Tiếp tục lên đường chạy qua nhà Chú Mười, ông là chủ ruộng nơi có cái hố chôn tập thể, như một sự sắp đặt ngẫu nhiên hay có sự trợ giúp của một sự huyền bí nào đó, ngày tôi nói chuyện cũng là ngày ông vừa từ Saigòn về sau thời gian nằm bệnh viện. Chú hỏi ngay vào vấn đề : tôi có giúp được gì cho mấy chú? Tôi bắt đầu câu chuyện : cháu là người thân của một trong mười hai người nằm ở cái hố chôn tập thể đó, giờ Chú có thể kể lại chi tiết chính xác về cái hố chôn này không?

Chú Mười vội pha ấm trà và châm điếu thuốc hút, ông kể: lúc thời điểm đó thì tôi không chứng kiến việc này, nhưng sau ngày 30/4 người dân ở đây ai cũng biết là cái hố chôn 12 người lính là nằm chính trên bờ ruộng của tôi, tôi trồng lúa nhưng không dám trồng trên phần mộ đó, đến dịp rằm hay Tết tôi đều mua đồ cúng cho mấy ổng và cầu mong là người thân sẽ tìm đến và mang họ về. Tiếp theo ông nói, chính xác theo lời kể thì là 12 quân nhân của BĐQ nghe nói rút quân từ Tây Ninh – khu vực ấp chợ Rầy – Khiêm Hanh – Bầu Đồn về đến đây thì bị phục kích cũng được chôn ở cái hố đó. Tôi tiếp lời, như vậy Chú có biết ai là du kích hay những người tham gia trận đánh đó không?

Ông rít một hơi thuốc thật sâu và nói : hiện nay chỉ còn một người có thể biết chính xác là ông Út – trước đây là du kích ở địa phương này, may ra ông có thể xác định cho các chú, tôi như vừa nhặt được vàng, vừa mừng, hồi hộp và lo lắng…. không biết là họ có thể tận tình giúp đỡ hay không, cho dù cuộc chiến đã xãy ra 36 năm… tôi chợt rùng mình…

Sau lời cám ơn và không quên tạm biệt Chú Mười, tôi nói : cháu xin đại diện gia đình kính mong Chú tạo điều kiện để bốc mộ của 12 người cho họ về Chùa để siêu thoát… Chú ấy trả lời ngay : Tôi sẽ tạo mọi điều kiện cần thiết đễ các chú bốc mộ, giống như tôi làm công đức, ông nở một nụ cười nhân hậu và hạnh phúc.

Đường từ Củ Chi về Saigòn trời bỗng mưa nặng hạt, những cơn gió xào xạc mang theo những giọt mưa rơi làm tôi cay mắt… nhưng không tôi đã bật khóc vì bao nhiêu kỷ niệm tràn về… khóc và buồn cho cái bản tính ích kỷ của mình vì trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng  chỉ có Bố tôi là anh hùng nhưng sau khi thực hiện cuộc đi tìm mộ này tôi mới nhận biết một điều thiêng liêng cao cả là, họ những người đã cùng chung lý tưởng với Bố tôi cũng quá xứng đáng là những anh hùng vị Quốc vong thân, và dù có muộn màng họ sẽ nằm trong nơi trân trọng và đáng quí nhất trong trái tim và tâm hồn của mọi người. Họ thật sự đúng là những “người chiến sĩ vô danh”. 

Ngày Thứ ba :

Trằn trọc thao thức cả đêm không tài nào chợp mắt được, đầu óc tôi có quá nhiều suy tư và trắc ẩn… cảm giác vừa mừng vừa lo, vừa hạnh phúc vừa đau khổ… cầu mong trời mau sáng để tôi lên đường đi Củ Chi để gặp lại nhân chứng sống và duy nhất còn lại đó là chú Út – người du kích năm xưa. Có thể hiểu được nỗi lo trăm mối của tôi vào thời điểm đó : có thật sự là cái hố chôn mà chính tay Mẹ tôi 36 năm về trước đi tìm xác Bố tôi đã đào lên và lắp lại, có thật, sự là cái hố của 36 năm về trước và có chú Tài không? Mà nếu có chú Tài thì lấy gì chứng minh nếu không có thẻ bài, thẻ căn cước, hoặc các loại giấy tờ khác…

Đường về Củ Chi dường như ngắn lại, tôi đến ngay ngã tư Tỉnh lộ 2 và Hương lộ 7 là nơi TĐ 38 rút quân từ Tây Ninh về cố gắng đến Đồng Dù – nhưng trên thực tế Đồng Dù đã thất thủ vào ngày 29-4-1975 mất rồi. Tôi đứng yên lặng một hồi lâu, đốt vội điếu thuốc, đứng tựa vào thành cầu Sạn nơi đã diễn ra trận đánh nhằm hồi tưởng lại thời khắc của 36 năm về trước.


 (Cây cầu Sạn nơi diễn ra trận đánh vào giờ 25 của cuộc chiến)

Tiếng xe chạy qua lại làm tôi không thể nào tập trung được, tôi quyết định tiếp tục rong rủi lên đường, chạy thêm một đoạn đường nữa là đến nhà chú Út, nhà ông nằm sâu trong một con hẻm nhỏ sình lầy lội, nhà ông bán quán nước và cơm trưa cho các công nhân của một xí nghiệp gần nhà.
Tôi dừng xe lại như một người khách bình thường, kêu một ly café đá tôi hỏi người phục vụ: có phải đây là nhà của chú Út không? Người con gái liền trả lời: Ba đang ngủ, anh tìm Ba có việc gì không? Tôi liền đáp: em vui lòng gọi Ba dậy, anh ở Saigon xuống có việc cần hỏi Ba….

Tôi nín lặng và hồi họp trong khi chờ ông thức dậy, 10 phút trôi qua mà tưởng chừng như dài vô tận. Và ông đã bước ra, dáng vóc còn mệt mỏi và ngái ngủ. Tôi mời ông ngồi và bắt đầu câu chuyện : cháu từ Sài Gòn xuống, vì  cháu có người quen nhờ đi tìm cái hố chôn tập thể ở ngoài tỉnh lộ 7, chú Út liền nói : đúng rồi, ở đó có cái hố chôn nhưng tôi không còn nhớ gì hết?..... Tôi giống như từ trên mây rơi xuống mặt đất, cố kiềm nén cảm xúc, tôi mời ông uống nước và tiếp tục câu chuyện. Tôi kể ông nghe toàn bộ câu chuyện đã nói với chú Mười và Cô Sáu…. Ông liền đột ngột thay đổi cách nói chuyện : ông kể là lúc đó khoảng 11h00 đến 12h00 trưa thì người dân về báo là có một nhóm lính được trang bị đầy đủ súng, máy truyền tin… đang tiến về hướng căn cứ Đồng Dù có bắt theo vài du kích để dẫn đường và dường như họ không đến địa điểm tập trung để đầu hàng.

Du kích xã tất cả ở đây rất đông vì thời điểm này xã Trung Lập Hạ đã là vùng giải phóng vào ngày 29-4, ngày mà căn cứ Đồng Dù thất thủ. Tôi nói tiếp : cháu là người được người nhà nhờ đi tìm cái hố chôn vì họ có thông tin là người nhà họ bị chết tại khu vực này sau khi rút quân từ Khiêm Hanh –Bầu Đồn – Tây Ninh về. Chú Út chợt reo lên đúng rồi, tôi nhớ ra rồi dẫn cánh quân đó về có ông Thiếu Tá rất đẹp trai, lúc đó du kích của tất cả khu vực đều tập trung để đánh chặn TĐ đó, tôi như đứng tim vì câu nói vô tình của chú Út về Bố tôi – nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh : cháu có liên hệ được với vợ của Ông Thiếu Tá đó vì Cô ấy là người chỉ cái hố chôn này. Chính Cô ấy là người lúc đi nhận xác đã tự tay bới cái hố đó lên khi đi nhận xác chồng, cái hố chôn rất cạn vào thời đểm đó, Cô ấy kể chỉ cần cào nhẹ lớp đất là phát hiện ra xác người liền….

Chú Út ngắt lời và nói tiếp về trận đánh, lúc du kích đã dàn quân ra phục kích xong thì TĐ đó về đến khoảng 40 người và lọt vào vòng vây của toàn bộ du kích ở đây. Phía du kích phóng loa kêu gọi đầu hàng, đáp lại là tiếng súng nổ từ TĐ 38, như vậy là họ quyết đánh rồi, cuộc giao tranh du kích và TĐ 38 đánh nhau khoảng được 30 phút. Rồi bỗng nhiên tiếng súng im bặt, không khí nặng nề mùi thuốc súng, cảnh tượng người chết của hai bên nằm la liệt….. tiếp đó phía du kích tiếp tục kêu gọi đầu hàng và thông báo căn cứ Đồng Dù đã thất thủ nếu không đầu hàng sẽ có xe tăng đếm yểm trợ và tiêu diệt… vẫn không có lời đáp trả từ TĐ38… nhưng sau đó vài phút thì họ phát hiện TĐ 38 gần như kiệt quệ và hoàn toàn hết đạn từ lâu… tất cả còn lại 12 người bao gồm TĐT, người mang máy truyền tin, một sĩ quan Thiếu úy đầu bạc, và 9 người lính còn lại…., họ đang ngồi bên nhau cùng hút những điếu thuốc quân vụ cuối cùng, tất cả đã hết đạn và bị dẫn về trường tiểu học và trói tất cả tại đó…

Tôi gần như chết lặng, sự thật đây rồi… vì từ đầu tiếp xúc với tất cả mọi người tôi đã che giấu thân phận của mình để nhằm tìm kiếm và có một thông tin khách quan nhất về cuộc tìm mộ đầy gian nan vất vả này nhưng đầy bất ngờ, nhiều cảm xúc, vì tôi đã được nghe kể về trận đánh oai hùng của Bố tôi và các chiến hữu, và cũng quan trọng không kém là sự thật về cái chết của Bố tôi. Tôi quyết định tạm dừng tại đây và xin phép ra về vì tôi bắt đầu muốn khóc nhưng cố kìm nén lại. Sau khi từ giã tôi nói, hôm nay cháu đến đây là để tìm hiểu có phải là cái hố đó chôn các lính rút từ Tây Ninh về, chú Út tuyên bố chắc nịch, chính xác rồi đó, chính chú là người canh chừng khi  họ bị trói trong trường học nên chú nhớ rõ từng khuôn mặt từng người. Để hôm khác lên nếu chú còn nhớ gì thì sẽ kể tiếp. 

Ngày thứ tư :

Về đến nhà thì trời đã tối hẳn, cơm nước xong là tôi lên net để thông tin cho người nhà của Chú Tài, là người lính truyền tin của Bố tôi. Sau một vài phút thấy nickname của cô Hương đang online thì tôi mừng khôn xiết và tôi đã truyền tải những thông tin mà tôi có được mong mỏi là gia đình có thêm tin tức về chú Tài… Cô Hương nói ngay như vậy là đúng rồi, chắc Cô sẽ về Việt Nam cùng tôi thực hiện việc tìm hố chôn và cải táng, tôi hơi bất ngờ về việc này vì tôi nghĩ rằng gia đình của chú Tài sẽ đi cùng tôi chứ không phải là cô Hương và cô ấy chỉ là người yểm trợ. Cô nói rất cương quyết rằng Cô sẽ về VN một chuyến… Tôi nói tiếp cháu cũng nhiều cảm xúc quá nên nghĩ ngơi vài ngày, sau đó cháu sẽ tiếp tục lên đó thêm lần nữa để nghe chú Út kể tiếp may ra có thêm tin tức gì mới… và Cô Hương đồng ý.

Tôi liền liên lạc với Mẹ để kể về cuộc tìm kiếm của tôi, biết là Bà sẽ rất buồn nhưng biết làm sao được vì Mẹ tôi có thể may ra nhớ thêm điều gì. Bà nói, con cố gắng làm hết sức mình để giúp họ vì lúc đó gia đình chỉ mong là tìm được xác của Bố chứ đâu có khả năng và thời gian làm cho những người còn lại, đó là trăn trở của Mẹ suốt bao nhiêu năm qua, tôi nói Mẹ yên tâm đây là trách nhiệm và bổn phận con phải làm, chứ con không hề nghĩ đây là một việc làm từ thiện hay công đức, tôi biết Mẹ tôi rất hài lòng về cách suy nghĩ của tôi.

Vài ngày trôi qua, đầu óc tôi cứ quay cuồng với bao suy nghĩ chẳng tập trung được vào việc gì nhưng tôi mừng thầm vì đã có thêm nhiều tình tiết là người ở lại cuối cùng sau trận giao tranh giờ thứ 25 có một người lính truyền tin của Bố tôi, sau cuộc đụng độ vẫn con mang máy truyền tin cho TĐT….

Rồi cô Hương cũng đã về đến Việt Nam, chúng tôi ngồi bàn bạc cách làm sao cho nhẹ nhàng và nhanh chóng vì có lẽ chẳng ai muốn về lại nơi đau thương đó. Tôi và Cô quyết định sẽ xuống nơi hố chôn tập thể với mong muốn là thông báo cho các Chú là khai quật và đem các Chú về nơi an lành nơi không có tiếng súng, sự tàn ác, dã man mà chỉ có tiếng kinh hàng ngày.

Vài ngày sau đó, tôi, Cô Hương, chú Nguyên (người em của chú Tài) lên đường về Củ Chi, trên đường đi chẳng ai nói với ai lời nào, ai cũng mong muốn là mau đến nơi nhưng dường như tôi thấy đoạn đường sao mà xa vời vợi, cái cảm giác cứ ảm ảnh tôi trong suốt quãng đường, khi ngôi trường hiện ra trước mặt cũng là lúc mọi người đã thấm mệt.Tôi đã hướng dẫn và đã kể cho mọi người nghe về câu chuyện mà tôi đã được chú Út kể cho tôi nghe, ai cũng không cầm được nước mắt. Khi đến nhà chú Út thì có một việc không ai ngờ đến là khi vừa thấy chú Nguyên thì chú Út buộc miệng kêu lên: giống lắm, chú này giống cái ông lính truyền tin mang máy cho ông Thiếu tá… mọi người ai cũng giật bắn người vì câu chuyện bất ngờ này… Sau vài câu nói chuyện chúng tôi cùng mang một số đồ cúng mang theo ra cái hố chôn….


(chú Út đang tiến hành việc cúng và đốt nhang)

Như vậy đấy mọi người ơi, dù 36 năm về trước họ có thể là kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây nhìn hình ảnh này tôi không thể cầm được nước mắt, khóc nhiều rồi tôi cũng chẳng biết khóc vì cái gì nữa… nhưng cái hình ảnh này đã làm tôi thật sự cảm động.

Sau các nghi thức cúng kiến xong, chúng tôi quay lại nhà chú Út để bàn về việc tiến hành khai quật, chú Út là người đã thật sự giúp đỡ rất nhiều, ông làm vì tình người, sự cảm thông, hay sự hối hận??? …. Nhưng tôi hy vọng đó là những việc làm xuất phát từ tình người, những cử chỉ và hành động của ông phần nào làm xoa dịu mọi người khi nghĩ về cái chết thương tâm và uất nghẹn của các quân nhân BĐQ. Ông là người đã giúp chúng tôi liên hệ với bên công nhân khai quật, chuẩn bị đồ cúng, liên hệ với ủy ban xã v.v…

Chúng tôi dùng cơm tại nhà ông và ngồi cùng nhau để bàn bạc việc bốc hài cốt đã được cô Hương ấn định là ngày 16/9/2011. Đường từ Củ Chi về trời mưa nặng hạt, như khóc thương thân phận đất nước Việt Nam điêu linh trong chiến tranh, bao cảnh lầm than, nhiều gia đình tan vỡ…

Ngày thứ năm :

Lại một đêm mất ngủ và thao thức, trằn trọc để mong trời sáng… và rồi buổi sáng đến thật mau, tôi chuẩn bị ra khỏi nhà không quên thắp vài nén nhang cho Bố tôi và cầu mong ông sẽ phù hộ cho chúng tôi khai quật một cách nhanh chóng và chính xác. Khi tôi đến nhà cô Hương thì mọi người đã tề tựu đông đủ, chúng tôi vội vàng lên đường vì ai cũng mong mỏi là sẽ mau chóng đến nơi, trên đoạn đường đi tôi thấy dường như ai cũng căng thẳng và lo âu, riêng tôi như đã đề cập ở phần đầu, cảm giác bấc an, lo lắng, những câu hỏi vẫn chưa có lời đáp, có lẽ không ngoa khi có thể nói rằng, chính tôi là người mong muốn đến thật nhanh tại hiện trường.

Các địa danh như căn cứ Đồng Dù, cầu Sạn (nơi diễn ra trận đánh), trường học (nơi giam giữ và trói các quân nhân BĐQ)… đều nằm lại sau lưng và chúng tôi cuối cùng cũng đến nơi cái hố chôn đó. Bên bộ phận bốc mộ họ đã đến thật sớm làm các thao tác cần thiết như chuẩn bị đồ nghề và đồ cúng, chú Út cũng đến đó từ bao giờ, tôi thấy Ông trầm ngâm và rất suy tư. Sau các nghi thức cúng kiến và thắp nhang cầu nguyện, Sư Cô quyết định là đã đến giờ bắt đầu khai quật, mọi người đã chờ đợi giây phút này rất lâu, đối với gia đình chú Tài thì chắc là đã 36 năm rồi họ chờ đợi giây phút này. Nhà ngoại cảm cầm tay người em của chú Tài và bắt đầu xác định vị trí khai quật…. ai cũng nín thở chờ đợi…


(Sư Cô và gia đình đang thực hiện các nghi thức)


(Từ trái qua em trai, em gái chú Tài, Cô Hương và Sư Cô)

Bên bộ phận khai quật bắt đầu cào lớp cỏ khô ra nhằm xác định vị trí cho chính xác,  mỗi nhát cuốc là mỗi lần tim tôi nhói lên vì hồi hộp, người tôi lạnh toát mặc dù đứng giữa cánh đồng trời đang chói chang nắng… sau chừng khoảng vài cuốc, nước từ dưới hố bắt đầu trồi lên làm việc khai quật bị chậm lại vì họ phải cuốc đất đấp thành những cái đê nhỏ nhằm chặn không cho nước tràn vào lại các chỗ đã được đào. Dũng là người chỉ huy các công nhân đào mộ nói với tôi rằng : đúng rồi em có cảm nhận sắp đến chỗ có xương rồi vì theo kinh nghiệm của em chổ nào có xương người thì đó đất sẽ rất mềm….

Vừa nói chuyện với tôi Dũng vừa lấy bàn tay thọc xâu vào lớp đất bì bõm nước, bỗng nhiên Dũng kêu to lên : có xương rồi, xương này to lắm, chắc là xương ống chân…. Tôi như trút được gánh nặng một phần vì đây đúng là hố chôn rồi, nhưng để xác định là có hài cốt chú Tài hay hài cốt của các quân nhân BĐQ là một quá trình rất dài và phải có kỷ vật gì để chứng minh. Dũng nhoẻn miệng cười và hỏi : anh có muốn xem không, không một giây để suy nghĩ tôi trả lời : tất nhiên và tôi là người đầu tiên nhìn thấy cái xương chân đó. Dũng làm một vài động tác và cầm lên một ống xương chân dài, còn nguyên chiếc vớ đã ngả màu bao bọc lại, bất ngờ tiếp theo là còn cả sợi dây trói bằng chỉ cước xanh to bằng ngón tay cái….nước mắt tôi đã rơi vì có lẽ đây là khoảnh khắc đã làm tôi xúc động và sẽ ám ảnh tôi mỗi khi nghĩ về nó, tôi bỗng nhiên hình dung ra thời khắc đó : khi bọn du kích dẫn các quân nhân BĐQ anh hùng ra tàn sát tập thể, họ vẫn bị trói chặt tay hoặc chân, tôi cố dằn cơn xúc động nhưng nước mắt cứ tuôn rơi, lòng tôi gầm thét như bị ai làm tổn thương….. tôi tự hỏi tại sao lại có dây nịt, có lẽ lúc khi bị tàn sát họ vẫn mặc đồ quân phục kiêu hãnh của Biệt Động Quân…..


(đợt đầu tiên khi phát hiện ra xương)


(xương ống chân và dây trói bằng chỉ cước xanh) Và có cả sợi dây nịt bằng vải dù mặc dù cái đầu dây nịt đã rỉ sét

Cảm giác đau xót như ai xát muối vào vết thương, nhưng đây là vết thương lòng làm sao mà lành lại được… bỗng nhiên chú Út đứng sau lưng tôi từ khi nào, ông vỗ vai tôi nhè nhẹ như an ủi, làm tôi thức tỉnh nếu tôi quá xúc động sẽ để lộ ra tung tích của mình, đốt vội điếu thuốc lá và cố giữ bình tỉnh, tôi quay sang hỏi chú Út : vậy khi du kích bắn những người này thì họ đang mặc quần áo gì hả chú, ông suy nghĩ vài phút rồi  nói : lúc đó đông ngươì lắm, nên chú chỉ nhớ là có người mặc chỉ cái quần cụt, người thì còn mặc quần dài của lính, người thì mặc áo, người thì cởi trần… lâu rồi chú chỉ nhớ có vậy. Tôi ra hiệu cho mọi người nghỉ ngơi một chút vì chính xác là đây rồi với lại tôi muốn có thêm thời gian để suy nghĩ. Tôi quay lưng lại thì hỡi ơi có cả hơn 40 người hiếu kỳ đang đứng xem từ khi nào mà tôi không biết họ đến từ đâu và từ khi nào, họ bắt đầu bàn tán : xót thương có, chửi rủa có, thông cảm có, mắng nhiếc có, cảm thông có và có người đã khóc… họ còn kể chính xác là thời điểm tàn sát vào xế chiều vào khoảng 4h00 hay 5h00 gì đó. Sau vài phút nghĩ ngơi và nói chuyện, bên công nhân khai quật tiếp tục công việc của mình, thời khắc quan trọng đã đến một cái thẻ bài đã được Dũng mang lên từ cái hố chừng nửa mét sâu : tôi như đứng tim và cầm ngay cái thẻ bài đến cái bờ ruộng có nước sạch rửa để xem và hy vọng đó là thẻ bài của chú Tài nhưng một thoáng thất vọng đã xuất hiện trên khuôn mặt của tôi, thẻ bài không phải của chú Tài mà là của :


Ly A Sam
Số quân : 70/131238
Loại máu : A +
Và một thẻ quân nhân cũng là của Chú Sam: tên đầy đủ là :
Lý A Sầm
Sinh ngày : 19/5/1950
Cha : Lý Man Soi
Mẹ: Hồ Thị Minh


(mặt trước và mặt sau của thẻ quân nhân)

Lúc này thời tiết càng nóng gay gắt cũng như lòng người cũng gay gắt nóng hy vọng tìm được thêm kỷ vật. Và tiếp theo là một thẻ căn cước với nội dung:
Trịnh Ngọc Thuần
Sinh ngày : 3/03/1957 tại Saigon
Cha: Trịnh Hữu Hiền
Mẹ : Hứa Thị Là
Địa chỉ : 15/1 ngô Quyền – Sai gòn


(mặt trước và mặt sau của thẻ căn cước)

Như vậy thời điểm chú Sầm bị tử hình ông vừa tròn 25 tuổi và chú Thuần thì chỉ vừa 18 tuổi và 01 tháng. Tôi tự hỏi tại sao chiến tranh kết thúc, các anh là người thắng cuộc tại sao lại phải đối xử và tàn sát những người  như vậy và giờ những người đã thi hành việc tử hình năm xưa đang ở đâu, họ có đứng trong vài chục người đang đứng kề cận bên tôi, và họ nếu có và chứng kiến thì họ đang nghĩ gì trong lúc này……càng quanh quẩn với các câu hỏi tôi càng cảm phục và hãnh diện về các quân nhân BĐQ dưới quyền của Bố tôi, những anh hùng vô danh, vì lý tưởng họ đã chiến đâu đến hơi thở và viên đạn cuối cùng, họ còn quá trẻ để phải chết, nhưng họ đã quyết định chọn cái chết một cách đau đớn nhất nhưng vô cùng kiêu hãnh và đáng để thế hệ sau lấy đó làm niềm tự hào, trong những nổi đau thương luôn có những niềm kiêu hãnh.

Lúc này tinh thần mọi người bắt đầu bớt căng thẳng vì đã có những kỷ vật và ai cũng hy vọng sẽ có bất cứ kỷ vật gì là của chú Tài, có lẽ chú Sầm là người cẩn thận nên hầu như các giấy tờ đều còn. Tôi miên man với bao suy nghĩ và cầu nguyện thì Dũng lại moi từ lòng đất một cái túi nylon  đã ngả màu theo thời gian, tôi lập tức cầm lấy và mở ra, thì trời ạ… một chai dầu gió hiệu “song thập”, một bàn chải đánh răng, một cây viết, một cái bóp cá nhân có hình một người mặc đồ lính chụp hình chung với một cô gái – nhưng rất mờ và rất khó để nhận diện khuôn mặt…..tiếp theo trái tim tôi có lẽ ngừng đập trong thời khắc này : đó là một cái đồng hồ đeo tay sợi dây đồng hồ bằng da màu đen, còn nguyên vẹn, tôi vội vàng lẻn ra khỏi nơi đang quá đông người và ồn ào : cái đồng hồ đã bị gỉ sét theo thời gian nhưng hai kim đồng hồ thì còn nguyên vẹn…..


(chiếc đồng hồ và sợi dây đeo còn nguyên vẹn)

Kim đồng hồ chỉ 4h14 phút ngày 31 – như vậy có 02 giả thuyết chúng ta có thể suy luận :

1.     Các quân nhân bị tàn sát vào lúc 4h14 phút, ngày 30-4-1975 vì đồng hồ đeo tay thời đó thường là đồng hồ lên giây nên chỉ chạy đúng 24 giời sau đó lên giây thì mới tiếp tục vận hành, khi chủ nhân của chiếc đồng hồ này bị tàn sát thì nó vẫn tiếp tục chạy đúng 24 giờ (tức là ngày 31-4-1975) nữa rồi mới ngừng hẳn 36 năm qua trong lòng đất.
2.     Là chủ nhân chiếc đồng hồ đó bị tàn sát, vào lúc thời điểm đồng hổ chỉ lúc : 4h14 phút, khi nằm xuống đã gặp nước và hư hỏng ngay.

Tôi như điên như dại, ôm cái đồng hồ vào lòng và bật khóc tôi muốn hét thật to vào không gian yên tĩnh nơi tôi đang đứng một mình. Có một sự huyền bí nào hay chỉ là sự trùng hợp khó tin là các chú đã để lại một dấu hiệu cho mọi người và gia đình biết chính xác ngày và thời gian họ đã nằm xuống cho quê hương, đất nước.

Cuộc đào hố chôn vẫn tiếp tục, thoáng thất vọng đã hiện rõ lên khuôn mặt của cô Hương và gia đình chú Tài là vẫn chưa tìm được bất cứ vật gì để chứng minh là có chú Tài. Nhưng tôi thì hơi khác vì tôi nghĩ rằng trước tiên phải có bất cứ kỷ vật gì để chứng minh đây là TĐ 38, và tôi tiếp tục cầu nguyện, gào thét tên Bố tôi trong tâm khảm là hãy phù hộ cho tôi và mọi người. Và đây rồi thêm một cái bóp cá nhân được Dũng đưa tận tay tôi, tôi lập tức mở ra :


(mặt trước và mặt sau của giấy quyết định điều động)

Tôi lập tức đọc kỹ danh sách các quân nhân có tên và trong đó đã có tên của chú Sầm, như vậy như tôi đã nói ở trên chú Sầm là người cẩn thận….được điều động về TĐ 38- Liên Đoàn 5 - Biệt Động Quân, phía sau có chữ ký Ông Trung Tá Nguyễn Văn Đương – Liên Đoàn trưởng LĐ 5 ký năm 1969, như vậy so với số quân của chú Sầm thì ông về TĐ 38 từ năm 1969 và đã vĩnh viễn không được thuyên chuyển sang các binh chủng khác.

Và một “Chiến Thưởng Bội Tinh”  phía sau có chữ ký Ông Trung Tá Nguyễn Văn Đương – Liên Đoàn trưởng LĐ 5 ký 8-5-1969

Và một giấy có ghi phía sau là : Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 – Biệt Động Quân - Ông Nguyễn Thanh Tiến hay Tiền… năm 1965.

Lúc này trời đã về chiều, ai cũng mệt mỏi và gần như không còn hy vọng gì là sẽ tìm kiếm được nữa vì cái hố đã được đào quá rộng rồi, với diện tích là 3m x 6m…..



(quần áo, dây trói và thắt lưng…)

Sau khi hội ý với nhà ngoại cảm thì ông quyết định là tất cả đã đầy đủ và không nên tiếp tục đào nữa… tôi không thể giải thích được hiện tượng này chỉ biết là ông cứ đi quanh trên cái hố đã được đào, nhắm nghiền mắt và nói chuyện một mình.



(toàn cảnh cái hố chôn tập thể - thật khủng khiếp)

Sau đó gia đình hội ý thật nhanh và làm các công tác nhận diện hài cốt của chú Tài bằng hình thức nhà ngoại cảm nói chuyện với các vong linh (lý do tôi không tường thuật việc này vì gia đình chú Tài đã bàn bạc với nhà ngoại cảm). Tiếp theo đó mọi người quyết định sẽ hỏa táng chú Tài và các quần áo, dây nịt, dây trói…… tại cánh đồng lúa nơi chú và các chiến hữu đã nằm lạnh lẽo suốt bao năm qua.



(toàn bộ hài cốt và quần áo, dây thắt lưng và dây trói)




(đang tiến hành hỏa táng chú Tài)




(đang tiến hành hỏa táng quần áo và các kỷ vật)

Số hài cốt còn lại tạm thời được để vào trong một cái “khạp” để hy vọng gia đình sẽ liên lạc và mang người nhà của mình về. 

Lúc này gia đình và mọi người ngồi cách rất xa, tôi và các bạn đi cùng tiến hành việc hỏa táng….cảm giác như kẻ không hồn…buồn vui trộn lẫn…nghĩ về cảm giác nơi này 36 năm về trước khi chiến tranh chấm dứt đã có một cuộc tàn sát diễn ra giữa những người Việt Nam với nhau cùng chung giòng máu Lạc Hồng, cùng huyết thống….cuộc tàn sát này đã có thể không xảy ra nếu lúc đó…

Phần hỏa táng:

Tôi và cô Hương rong ruổi mang cái “khạp” gửi vào nhà thờ mong ước để xin gửi trong vòng 02 tháng để đăng tin tìm người thân và cũng để vận động sự giúp đỡ vì tất cả các chi phí đều do tiền túi của cô Hương bỏ ra… giờ thì cô ấy đã thật sự hết khả năng mất rồi.

Về nước được 02 tuần tôi vui mừng được cô Hương thông báo là đã đủ số tiền để hỏa táng và gửi vào nhà thờ, tôi hạnh phúc đến dâng trào vì mọi việc gần như đã hoàn tất, mang cái ‘khạp” đi hỏa táng về xong thì tôi liền chạy ngay về nhà thờ đễ làm các thủ tục cần thiết nhằm để các chú an nghỉ…

Cảm giác phấn khởi tôi bước vào thì được bộ phận hài cốt cho biết hoàn toàn họ chưa nhận bất cứ tiền của ai để lo cho cái “khạp” này, tôi như chết đứng và vô cùng tức giận, tôi liên lạc với cô Hương thì được Cô cho biết là người đã trực tiếp gửi tiền về cho nhà thờ là ông Đ.T.H – một cựu quân nhân BĐQ, cô Hương cho tôi số phone của người đó để tôi liên lạc và tôi hy vọng chắc họ đã gửi tiền về…... Qua những khó khăn và sự hiểu lầm mà tôi cho rằng có thể tránh được nếu họ - những người đã vận động có một sự tin tưởng và thấu hiểu được các khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong suốt quá trình tìm hố chôn – và đây chính là hạn sạn nhỏ trong sự thành công  của việc khai quật và hỏa táng mang về nhà thờ đúng như ước nguyện của gia đình.

Đôi dòng tâm sự :

Về đến nhà tôi thẩn thờ và ngồi bệt trên ghế giống như vừa trở về từ cõi chết, cảm giác như các chú cứ quanh quẩn đâu đây… thầm nghĩ đã nhiều năm nằm hiu quạnh, lạnh lẽo nơi hiu hắt và cô đơn, giờ các chú đã được giải thoát… Hãy thực hiện các ước nguyện của nghiệp trai chưa tròn, về thăm gia đình và bạn bè những người thân đã lo lắng trong suốt thời gian qua các chú nhé!!!

Tôi liên tưởng lại các câu chuyện và lời kể của vài nhân chứng và chính thức tôi xác nhận rằng : Tiểu Đoàn 38 – LĐ 32 – Biệt Động Quân là đơn vị BĐQ cuối cùng đã chiến đấu vào giờ 25 của cuộc chiến, họ đã chiến đấu một trận cuối cùng của đời lính vinh quang nhưng đầy cay đắng, họ và chính họ đã chọn cái chết đau đớn nhưng oai hùng sẽ được mọi người nhắc đến…

Theo lời kể của chú Út thì sau khi TĐ 38 hết đạn, người du kích tên là Cò Ráng -  đã có những giây phút thóa mạ và mắng nhiếc TĐ 38 và Bố tôi đã to tiếng với người này, sau khi vào trong hội ý chúng đã dẫn Bố tôi ra cái đồng ớt gần đó và tử hình nhằm áp đảo tinh thần anh em còn lại, về nội dung cuộc tranh cãi của Bố tôi thì không ai còn nhớ đến nội dung – kể cả chú Út vì theo ông lúc đó rất đông người, kẻ thóa mạ, dùng những từ khó nghe…. nhưng ai cũng có thể thấy việc tàn sát là chủ đích cá nhân của một nhóm du kích có lẽ lúc đụng độ bên du kích cũng đã bị thiệt hại rất nhiều…

Dự đoán mãi mãi là dự đoán nhưng chúng ta cần tôn trọng sự thật, và vinh danh họ : Thiếu Tá Trần Đình Tự - và các quân nhân TĐ 38 chính là đơn vị BĐQ cuối cùng chiến đấu và cái chết của họ phải được trân trọng như những giá trị lịch sử của QLVNCH.

Bố tôi và họ cũng đã có thể có cách khác để an toàn về với gia đình nhưng tôi hiểu Bố tôi qua nhiều thông tin tôi có được, Ông không bao giờ thỏa hiệp chứ đừng nói đến đầu hàng. Họ đã chiến đấu vì lý tưởng, vì danh dự….Họ không cần vinh danh, không cần chức tước, họ chỉ cần trả lại sự thật cho sự hy sinh của họ, họ chỉ biết chiến đấu với lời nguyện ước với non sông :

Tổ Quốc - Danh Dự  - Trách Nhiệm

Và sau cùng họ chỉ mong những người còn lại, nhớ đến họ , thắp cho họ một nén hương lòng mỗi khi 30/4 lại về để họ yên lòng nơi cõi trời cao rộng.

Kính Bố : con đã thực hiện xong trăn trở của Mẹ, trách nhiệm và bổn phận của con một người lính VNCH, đâu đó trong cõi tạm trần gian này con mong Bố đã thấy và hài lòng về những gì con làm cho những người đồng đội đã cùng lý tưởng với Bố và đã vĩnh viễn nằm xuống cho quê hương. Hãy thanh thản nơi cõi trời cao rộng – Bố và các Chú sẽ không bao giờ cô đơn, sẽ không bao giờ bị quên lãng.

Trần Đình Thế
Tháng 9 năm 2011

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

Đoàn Thanh Liêm - Ấn tượng khó quên từ Úc châu (Australia 4)


Đoàn Thanh Liêm

Trong ba bài trước đây, tôi đã trình bày chi tiết về sinh họat của bà con trong thân tộc và của bạn hữu thân thiết tại Úc châu. Trong bài thứ tư này, tôi xin ghi lại một số ấn tượng khó quên phát xuất từ cuộc viếng thăm nước Úc vào cuối năm 2011 vừa qua, cụ thể là tại các thành phố Canberra, Sydney và Melbourne.


1 – Thành phố Canberra - thủ đô của Liên Bang Úc châu.
Vào đầu tháng 12/2011, anh Nguyễn Bá Tùng và tôi được hai anh bạn là nhà báo Lưu Dân và huynh trưởng Hướng Đạo Hồ Văn Chánh hướng dẫn đi từ Sydney đến thăm viếng thủ đô Canberra. Đường xa khỏang trên 250 km, xuyên qua vùng đất trong nội địa với dân cư thưa thớt, nên xe có thể chạy với tốc độ cao trung bình có thể lên tới cỡ 70 – 80 km/giờ.

* Dọc đường nhà báo Lưu Dân kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện ngộ nghĩnh lạ lùng về nước Úc, cụ thể như “khu nhà tù cẩn mật tối đa” (maximum security prison) nằm trong thành phố Goulburn - mà hiện chỉ có chừng 7 - 8 phạm nhân bị giam giữ tại đây. Trong số này có một tù nhân gốc Việt nam mà vụ xét xử của Tòa án đã gây ra sự tranh cãi rất sôi động giữa người bênh kẻ chống trong dư luận tại Úc châu trong nhiều năm trước đây – đó là cựu Nghị viên Ngô Cảnh Phương bị kết án chung thân khổ sai với bản án chung thẩm vào năm 2008. Đây là một vụ ám sát vì lý do chính trị nghiêm trọng đầu tiên trong lịch sử nước Úc (political murder) khiến gây ra cái chết vào năm 1994 cho một vị dân biểu đương nhiệm có tên là John Newman người Úc ở thành phố Fairfield trong đó có khu vực Cabramatta là nơi rất đông người Việt định cư và kinh doanh buôn bán từ nhiều năm nay. Nhà báo Lưu Dân còn kể là phải qua 7 lần cửa kiểm sóat thật nghiêm ngặt, thì mới vào thăm ông Phương được. Anh Lưu Dân nói : “ Cả con ruồi cũng khó mà bay lọt qua 7 lần cửa ải đó !” Người dân nước Úc vốn có cuộc sống thanh bình trầm lặng và tương đối có ít những vụ phạm pháp nghiêm trọng so với dân tại nước Mỹ, ấy thế mà lại có lọai nhà tù cẩn mật tối đa như thế này, thì đó phải kể là một trường hợp ngọai lệ đặc biệt khác thường vậy.

*Thủ đô Canberra thật là yên tịnh đẹp đẽ, xanh tươi với nét kiến trúc tổng thể đượm tính chất phong thủy rõ ràng với mấy ngọn đồi, sông hồ bao quanh những đại lộ chính yếu với các khu dinh thự công quyền, các tòa Đại sứ, các khu dân cư, trường học, nhà bảo tàng, khu thương mại … xen kẽ với nhau một cách rất hài hòa hợp lý. Tôi đặc biệt chú ý đến tòa nhà Quốc hội vừa mới được hòan thành vào năm 1988 mà được xây cất và trang trí bằng các vật liệu hòan tòan gom góp từ nội địa, nhằm kỷ niệm 200 năm ngày thành lập quốc gia Úc. Đây là một kỳ công của một quốc gia vào thập niên 1980 lúc đó chỉ mới có chừng 20 triệu dân thôi – mà đã dám chi ra một ngân khỏan lên đến 1,200 triệu dollar cho việc xây dựng được một tòa nhà thật là tân kỳ độc đáo mà lại uy nghi đồ sộ - để làm trụ sở cho cơ quan Lập pháp của Liên Bang như thế đó. Cơ sở này rõ ràng là một thắng cảnh thu hút rất đông du khách từ khắp nơi đến viếng thăm và cũng còn là một niềm tự hào cho dân tộc Úc nữa.

2 – Từ Thế vận hội Melbourne 1956 đến Thế vân hội Sydney 2000.
*Năm 1956, dân số nước Úc mới có chừng 10 triệu, ấy thế mà đã tổ chức thành công được cuộc tranh tài Thế vân hội thứ XVI và đặc biệt đòan lực sĩ Úc châu đã chiếm được rất nhiều huy chương vàng trong bộ môn bơi lội. Tổng kết thành tích : nước Úc với 35 huy chương, được xếp hạng thứ ba, chỉ đứng sau hai cường quốc là Liên Xô và Hoa kỳ mà thôi.

Mặc dầu hồi năm 1956, tình hình thế giới rất căng thẳng với vụ khủng hỏang về kinh đào Suez và vụ Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy ở Hungary, thì Thế vận hội Olympics Melbourne - dù mới chỉ là lần đầu tiên do nước Úc đăng cai - cũng vẫn diễn ra rất tốt đẹp. Khi chở tôi đi thăm phố xá ở Melbourne, Luật sư Trần Minh Phước đã chỉ cho tôi thấy nhiều dãy building được xây cất cho Olympics này, mà hiện được sử dụng làm các khu chúng cư dành ưu tiên cho lớp người di dân.

*Đến năm 2000, một lần nữa nước Úc lại nhận trách niệm đứng ra tổ chức Olympics Sydney với sự thành công vượt bậc được cả thế giới ca ngợi. Kết quả là nước Úc với tổng số 58 huy chương, được xếp hạng thứ tư sau Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc. Vào năm 2000 này, thì dân số Úc châu mới chỉ có 20 triệu, ấy thế mà vẫn đạt thành tích vượt xa những nước lớn hơn mà lại từng có có tên tuổi về thể thao như Anh, Pháp, Đức, Nhật ...

Anh bạn Đặng Trung Chính ở Sydney còn cho tôi biết một chi tiết thật là phấn khởi như thế này, đó là có đến con số 50,000 thiện nguyện viên (volunteers) xin xung phong phục vụ trong mấy tuần lễ của Olympics thứ XXVII này. Họ phần đông là giới sinh viên học sinh tình nguyện tham gia các khóa huấn luyện, rồi được phân công trong các tóan chuyên môn để phục vụ cho các sinh họat rất đa dạng của Olympics. Con số 50,000 thiện nguyện viên này quả là một biểu hiện của một trình độ văn hóa cao độ của người dân Úc.
Qua hai cuộc thế vân hội này, ta có thể nhận định rằng nước Úc tuy có một dân số tương đối còn ít ỏi – hiện vào năm 2012 thì chỉ mới có khỏang 22 triệu người - nhưng đã có được một cuộc sống khá năng động thỏai mái để mà có thể duy trì được một địa vị rất khả quan trong bảng xếp hạng về thành tích thể dục thể thao trên thế giới. Và đó cũng là một đặc trưng tiêu biểu cho tinh thần đồng đội gắn bó trong nếp sinh họat tập thể của một dân tộc tại vùng Nam bán cầu này vậy.

3 – Người tiếp tục sứ mệnh ngọai giao của người Việt Tự Do tại nước Úc.
*Sau năm 1975, có rất nhiều viên chức có tên tuổi trong ngành ngọai giao của Việt nam Cộng hòa đã chọn đến định cư tại nước Úc, cụ thể như các vị cựu Đại sứ Trần Văn Lắm, Đòan Bá Cang, các vị Sứ thần Nguyễn Triệu Đan, Đỗ Quang Năng v.v… Nhưng trong số đông các cựu viên chức ngọai giao này, thì người vẫn còn họat động năng nổ nhất tại Úc châu lại là Luật sư Lưu Tường Quang. Một phần vì vào năm 1975, ông Quang hãy còn trẻ - mới ở tuổi ngòai 30 – một phần vì ông đã có nhiều kinh nghiệm trong thời gian làm việc tại Tòa Đại sứ Việt nam tại Úc, nên ông đã dễ dàng hội nhập vào với dòng chính của xã hội nước Úc.

Khởi đầu ông Quang đã tiếp tục học thêm để có bằng hành nghề Luật sư ở Úc. Và đặc biệt ông Quang được chánh quyền nước Úc tín nhiệm để trao phó cho trách nhiệm điều hành văn phòng Di trú của tiểu bang New South Wales và sau này ông còn được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Đốc Hệ thống Truyền Thanh SBS của chánh phủ Liên Bang Úc châu nữa. Và hiện nay ở vào tuổi 70, dù đã về hưu, ông Quang lại vẫn họat động trong lãnh vực từ thiện nhân đạo, cụ thể như cộng tác với cơ quan xã hội ActionAid trong chức vụ của một Hội viên Hội đồng Quản trị (Board Member). Ông Quang còn là một cư sĩ Phật tử tham gia sinh họat thường xuyên với cộng đồng Phật giáo ở Úc châu nữa. Ngòai ra ông Quang còn tham gia cả trong lãnh vực truyền thông với tư cách là một nhà báo cộng tác thường xuyên với các đài truyền thanh quốc tế như VOA, RFI nữa.

*Và đối với cộng đồng người Việt, thì ông Quang luôn hỗ trợ mọi công tác về văn hóa xã hội cũng như về ngọai giao chính trị, mỗi khi được bà con cần đến sự tiếp tay của ông trong việc liên lạc giao tiếp với các cấp chính quyền bản xứ. Điển hình như việc mới đây vào tháng 8/2011, ông Quang đã hợp tác với giới chức lãnh đạo cộng đồng người Việt tại Úc châu trong việc soạn thảo và đệ trình lên chính quyền nước Úc một tài liệu về tình hình vi phạm về Nhân quyền tại Việt nam. Tài liệu này do tổ chức Cộng đồng người Việt tại Liên Bang Úc châu (Vietnamese Community in Australia – VCA National) đệ trình theo lời mời gọi của Tiểu Ban về Nhân Quyền thuộc Liên Ủy Ban về Ngọai Giao, Quốc Phòng và Thương Mại để góp phần vào Những Vòng Đối Thọai về Nhân Quyền của chánh quyền Úc châu với Trung quốc và Việt nam vào cuối năm 2011 (Australia’s Human Rights Dialogues with China and Vietnam). Bản văn dài trên 30 trang với nhiều chi tiết và hình ảnh minh họa trình bày về các vụ vi phạm Tự do Tôn giáo, đàn áp đối lập chính trị, hạn chế tự do ngôn luận, nạn buôn người, đàn áp các sắc dân thiểu số v.v…

*Đặc biệt riêng đối với Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam (MLNQ - VN) chúng tôi, thì vào ngày 6/12/2011 ông Lưu Tường Quang đã hướng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng và tôi đến văn phòng của Viện Đại học Southern Cross ở trung tâm thành phố Sydney để viếng thăm và trao đổi với Luật sư John Dowd hiện là Viện trưởng của Viện Đại học này. Luật sư John Dowd đã từng giữ chức vụ Bộ trưởng Tư pháp Tiểu bang NSW và hiện là Chủ tịch Hội Luật gia Úc châu và Phó Chủ tịch Hội Luật gia Quốc tế nữa.

Trong hơn một giờ tiếp chuyện với nhân vật này, anh Tùng và tôi đã có dịp trình bày chi tiết hơn về tình hình vi phạm nhân quyền vẫn còn rất trầm trọng ở Việt nam hiện nay. Nhân dịp này, chúng tôi cũng trao tận tay Ông John Dowd một bản Tường Trình năm 2011 của MLNQ - VN về tình trạng Nhân quyền ở Việt nam vào lúc này.

Nhiều bạn hữu của tôi ở Úc châu đều cho biết là ông Lưu Tường Quang là một nhân vật rất có uy tín đối với giới chức trong chánh quyền nước Úc và ông Quang đã thật xuất sắc trong vai trò làm nhịp cầu nối kết giữa cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản với dòng chính của xã hội Úc châu nữa. Quả thật ông Quang là một trong những người vẫn tiếp tục sứ mạng ngọai giao của tập thể người Việt Tự Do tại Liên Bang Úc châu này vậy.

California, tháng Hai năm 2012
Đoàn Thanh Liêm