Hiển thị các bài đăng có nhãn Hạ Ðình Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hạ Ðình Nguyên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2017

Hạ Đình Nguyên: Về một chuyện vá xe

Hôm qua, tôi đi dự một buổi họp mặt để bày tỏ sự hưởng ứng và lòng tri ân về cụ Nguyễn Đình Đầu - một học giả đáng kính ở tuổi 97 - đã hoàn thành tác phẩm nghiên cứu về nhà bác học Trương Vĩnh Ký, nhân dịp bị nhà nước ra lệnh cấm xuất bản và thu hồi sách đã in.
Khi về và chia tay anh BVNS, tôi cưỡi xe trong cơn mưa phùn rất nhẹ của đất Sài Gòn, không gian thật mát mẻ. Anh BVNS dặn dò thêm, nếu mưa thì phải núp, chứ tuổi nầy bị mưa là phiền lắm. Vâng, tuổi trên 70 thì nên cẩn thận vậy. Đi một đoạn tôi nghe chừng bánh xe bị xẹp. Quan sát kỹ, xẹp thật! Nhìn sang bên lề đường, đi một khoảng thấy ngay một tiệm sửa xe.
Một cậu bé bước ra hỏi, bác bơm hay vá. Tôi trả lời, chưa biết, nếu lủng thì vá. Nhìn cậu bé, tuổi chừng 12, và không thấy ai khác. Tôi hỏi, cháu có làm được không. Thằng bé yên lặng, đi tìm dụng cụ, rồi bật ra một câu trả lời thong thả. Nếu bác tin thì được! Thằng bé quay bánh xe chầm chậm và phát hiện một con vít cắm sâu vào vỏ xe. Nhìn nó làm, tôi thì thưởng thức câu nói vừa rồi của nó. Nó không có vẻ gì năn nỉ, nhưng tự tin và khách quan, ý tôi hiểu thế nầy: Nếu bác tin, tôi sẽ làm cho bác xem, nếu không tin thì là quyền của bác vậy. Tôi thấy ở câu nói nầy là cả một xã hội dân sự, bình đẳng, không có áp chế hay độc tài từ cả hai phía.

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2016

Hạ Đình Nguyên: Tản mạn về “văn hóa khinh bỉ”

Góp phác họa một bức tranh vân cẩu của hiện tình đất nước, một vị quan to bước ra từ cửa lò đỏ, đã cống hiến một cụm từ vừa bự, vừa mới mẻ, lại cũng khá ỡm ờ, có ý nghĩa như một giải pháp cho sự nghiệp chống tham nhũng đang hồi rất gay go. Nó như sau:
Câu nói bất ngờ này làm làm hoang mang cho giới học trò và cả học giả. Tuy nhiên, nếu đã có một thứ “văn hóa phong bì từng xuất hiện, thì nay “văn hóa khinh bỉ ra đời có chi phải xét nét? Hãy cứ xem như một sáng tạo về văn hóa chữ nghĩa của một thời kỳ đặc biệt, và lạ gì một khi có cái đuôi xã hội chủ nghĩa, thì bầu trời trở nên bao la hơn, vượt nhiều thứ chuẩn mực đã có trước.

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

Hạ Đình Nguyên: Yên Bái và tám phát K59


Như chuyện đã loan ai cũng biết, chỉ là tám phát đạn, bốn dành riêng cho ông Bí thư tỉnh trong một căn phòng riêng cách âm, ba dành cho ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh, và một dành riêng cho mình, cùng trong một căn phòng khác. Tiếng súng K59 không lớn lắm và diễn ra trong mấy phút, nhưng âm vang của nó đã vang xa cả nước, kéo dài cả tuần nay chưa dứt, và hứa hẹn là chưa thể chấm dứt, với tin tức đã tràn ngập trên mạng, lề trái và lề phải... Tên xạ thủ Đỗ Cường Minh – trưởng Chi cục Kiểm lâm – hẳn phải ghi đậm nét, dù màu đen hay màu đỏ, trong trang sử của Đảng Cộng sản Việt Nam ở giai đoạn đặc biệt này. Người ta lập tức nhớ lại câu chuyện của anh Đặng Ngọc Viết, năm 2013, với sáu phát súng colt. Vì có một sự tương đồng. Cái tương đồng là ở phong cách hành xử của xạ thủ, tuy có khác phần nào về ý nghĩa, vốn là động cơ đưa đến hành động. Người ta có thể sực nhớ hình ảnh của anh Nguyễn Viết Xuân với câu nói nổi tiếng: “Nhắm thẳng quân thù mà bắn” trong kháng chiến chống Mỹ. Có thể hình dung, ở công dân Đặng Ngọc Viết, ở đảng viên kiểm lâm Đỗ Cường Minh giống nhau: mắt nhìn thẳng vào đối phương, bình thản, và bấm cò. Bấm cò chính xác vào đối tượng.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016

Hạ Đình Nguyên - Một mũi dao đâm bất ngờ của bà Tôn Nữ…


Thế là cả hai tuần nay không gian mạng đã nhường một góc lớn cho chuyện của bà Tôn Nữ Thị Ninh và ông Bob Kerrey.
Nhưng đúng ra là chuyện của chính bà Ninh, chứ ông Bob thì vẫn vậy.
Câu chuyện của bà Tôn Nữ tạm thời che lấp một phần chuyện người dân khắp nước đang bức xúc về cá chết, biển nhiễm độc cùng sự đàn áp bắt bớ đánh đập người biểu tình. Nó che luôn kết quả “thành công rực rỡ” của cuộc bầu cử Quốc hội khóa 14. Nó gây ồn ã và làm suýt sém một góc tiếng vang của Tổng thống Mỹ Obama trong chuyến công du Việt Nam.

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016

Hạ Đình Nguyên - “Hãy chọn đi!”


Đó là lời nói chân thực của Châu Xuân Phàm về một sự kiện xấu xa Formosa. Nguyên văn: “Hồi xưa, khi giải phóng mặt bằng đã tính phương án hỗ trợ ngư dân đánh bắt cá chuyển sang nghề khác rồi, sao cứ phải đánh bắt quanh vùng biển này. Muốn bắt cá, bắt tôm hay nhà máy, hãy chọn đi. Nếu chọn cả hai thì làm Thủ tướng cũng không giải quyết được”.
Vì phát ngôn sự thật này, ông ta bị cơ quan chủ quản Formosa cho thôi việc, và nhân viên Formosa đã cúi đầu nói lời “xin lỗi” trước công luận.
Nhưng thật oan cho ông, vì xét cho cùng, lời nói ấy có giá trị nhất về sự thật, hơn hẳn mọi lời phát ngôn rất huê dạng của các lãnh đạo Việt Nam, từ khi sự kiện diễn ra đến hôm nay.

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Hạ Đình Nguyên - Câu chuyện về bốn loại bò đực


Trong thời gian Đại hội Đảng 12, và tiếp theo là những ngày kỷ niệm Việt Nam bị Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và tấn công biên giới, tôi “được/bị” lực lượng an ninh thành phố canh cửa không cho ra khỏi nhà. Tôi làm công việc lặt vặt và đọc vài ba trang sách. Tôi đọc phải đoạn “Bốn loại bò đực” trong sách Phật học, có phần lý thú, xin chép ra đây.                   
Này các bhikkhu, có bốn loại bò đực.
Đó là: Bò đực hung dữ với bầy đàn của mình nhưng không hung dữ với bầy đàn khác; bò đực hung dữ với bầy đàn khác nhưng không hung dữ với bầy đàn của mình; bò đực hung dữ với bầy đàn của mình và hung dữ với bầy đàn khác; bò đực không hung dữ với bầy đàn của mình và không hung dữ với bầy đàn khác.
Cũng vậy, có bốn hạng người được ví như các loại bò đực…”(*)

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

Hạ Đình Nguyên - Thức tỉnh một cuộc tình 65 năm chăn gối?

Cuộc hôn phối bị cưỡng bức đối với dân tộc Việt Nam đã diễn ra 65 năm qua, được hâm hôn một cách gượng gạo bằng chuyến viếng thăm vừa rồi của Tập Cận Bình, với lời lẽ ôn tồn hoa mỹ từ cả hai bên, em và anh, có thể tóm tắt: “65 năm ấy biết bao nhiêu tình”!

Lãnh đạo Đảng của hai bên đều tỏ ra đồng tình xí xóa cho nhau những lỗi lầm nếu có, và thống nhất xem đó là chuyện nhỏ. Như lời khẳng định vào tháng 4 năm nay, lúc mà em sang thăm anh: “quan hệ song phương mặc dù có khó khăn, lúc thăng trầm, nhưng hợp tác hữu nghị, phát triển tích cực vẫn là dòng chính. “Dòng chính” ấy là tấm lòng trung trinh tiết hạnh của người nữ gương mẫu thuộc “cửa Khổng sân Trình” hiện đại, nay gọi tạm là Mác-Lê-Mao, dù cho em có trải qua bao trận đòn roi từ 1979 đến nay, trải qua bao đêm trăng lên đầu ngõ, bao ngày mặt trời lặn cuối sông, em vẫn bỏ qua. Nhưng trên thực tế thì em – Việt Nam – chẳng có lỗi gì!

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

Hạ Đình Nguyên - Chuyện đổi mới “cái đèn cù”?


Từ ngữ “đổi mới” khá quen thuộc với người Việt Nam, ít nhất từ ba thập kỷ qua. Nó xuất phát từ Đảng Cộng sản Việt Nam, như một khẩu hiệu, như một phương châm, và kêu vang như một mệnh lệnh không thể cưỡng lại. “Đổi mới” có sức hấp dẫn, vì nó mang ý nghĩa là sự từ bỏ cái cũ vì cái cũ không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, tệ hại hơn, nó đang ngự trị hằng ngày, kìm hãm, nhấn chìm hiện tại lún sâu vào quá khứ lạc hậu. Khẩu hiệu đổi mới từng được nêu lên một cách quyết liệt: “đổi mới hay là chết” (vào thập niên 1980). Sau đó, từ ngữ “đổi mới” ấy đã chạy vòng quanh như một thứ khẩu hiệu đơn thuần, qua từng thời kỳ Đại hội Đảng, qua mỗi đời Tổng Bí thư. Từng lúc nó mang tên khác nhau, như có vẻ mới và chi tiết hơn, như đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế, đổi mới hành chánh, đổi mới cán bộ… Người dân nói nhại theo: đổi mới tivi, đổi mới bàn ghế, đổi mới ăn mặc, đổi mới cách nói năng… Dù sao, “đổi mới” cũng đã thành một từ ngữ nổi tiếng rất được ưa dùng.

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015

Hạ Đình Nguyên - NGHE DIỄN VĂN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC, LẠI NHỚ “ÔNG ĐỒ GIÀ”


Tôi cố nén lòng đứng nghe cho hết bài diễn văn ngày 2/9 của Chủ tịch nước.
Nghe hết, bỗng dưng, một nỗi buồn mênh mang cùng với hình ảnh “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên xuất hiện trong tôi, qua mấy câu thơ:
Những người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?”
Cảm giác ấy là do ba lần từ “muôn năm” được Chủ tịch nhấn mạnh hùng hồn, trước khi kết thúc bài diễn văn. Từ muôn năm cũng làm tôi mất đi khái niệm về thời gian, trong thời đại mà thế giới đang chuyển động với toan tính từng sát na. Những “từ ngữ” trong diễn văn cũng đã nhảy múa tưng bừng, ùa vào trong tôi, cùng với trống kèn và nhịp bước quân đi. Các từ ngữ đã vang lên trong không khí trang nghiêm: xúc động thiêng liêng, cuộc chiến đấu thần thánh, tầm vóc thời đại, thắng lợi vẻ vang, thành tựu to lớn, lãnh đạo thiên tài, đỉnh cao trí tuệ, bản lĩnh, truyền thống kiên cường, bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo, anh hùng, bất diệt, tự hào, trong sạch, vững mạnh, tiền phong, gương mẫu… Và kéo theo cả: thế lực thù địch, suy thoái đạo đức, nhạt phai lý tưởng…, có cả: bè bạn năm châu cảm phục, vị trí quốc tế được nâng lên, và sau đó lại xuất hiện có… thu nhập trung bình. Có điều gì đó khá bất ổn, như chỏi nhau.

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Hạ Đình Nguyên - “Tan sương đầu ngõ…”


Thế là chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kết thúc, đã có nhiều tiếng vỗ tay ở trong và ngoài nước. Chuyến đi đã ít nhiều gây ấn tượng, nhưng ấn tượng đậm nét nhất là sự “xoay trục” của chính bản thân ông. 

Điều này gợi nhớ về sự thay đổi tư duy chính trị, “viết lại báo cáo” của cố Tổng Bí thư Trường Chinh, về chủ trương đổi mới, tạo nên một bước ngoặt quan trọng của giai đoạn lịch sử từ Đại hội VI của Đảng. 

Nếu so sánh, người ta lại hoài nghi sự thay đổi của ông Trọng về tính triệt để và logique của nó, bởi ông mang nặng cái nhìn giáo điều, bảo thủ và có tiếng là “thân” Trung Quốc. Niềm tin kiên định của ông với đất nước “lý tưởng tương đồng” đã được duy trì, ít nhất cho đến sự kiện bẽ bàng của giàn khoan HD 981 xuất hiện trong vùng biển Việt Nam, và sau 30 cuộc gọi mà Tập Cận Bình không thèm nhấc máy. Càng yêu nhau lắm, càng cắn nhau đau. Biết đâu, vết thương lòng đã góp một phần vào sự xoay trục!

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Hạ Đình Nguyên - “Kinh Kha tráng sĩ” của Tàu và tư duy của người Việt


Vắn tắt câu chuyện
Tần Thủy Hoàng được xem là một bạo chúa đang trên đà tóm thâu lục quốc (Trung Quốc bấy giờ chia ra làm sáu nước). Thái tử Đan là kẻ kế thừa dòng họ vua chúa của một nước, quyết chống lại Tần Vương nhưng chẳng có binh lực gì, thậm chí là tài năng, mưu lược cũng không. Hắn dụ dỗ, vỗ về một tay thanh niên có tên là Kinh Kha để ám sát Tần Vương. Trong lần chiêu đãi cuối cùng trước khi Kinh Kha vượt sông Dịch tiến hành cuộc mưu sát, Kinh Kha đã thốt lên lời ca ngợi bất ngờ về “bàn tay đẹp” của một người đẹp đang phục vụ cuộc chiêu đãi. Lập tức, bàn tay ấy được chặt đi, gói lại, làm quà tặng cho Kinh Kha. Kinh Kha vô cùng cảm kích Thái tử Đan về hành vi được y cho là cao cả và hết lòng của thái tử Đan đối với hắn, đối với quyết tâm trừ bạo chúa, mà đúng ra là cực kỳ vô nhân tính, để động viên hành vi liều mình của Kinh Kha. Câu chuyện được kết thúc bằng cảnh tượng thê thảm của Kinh Kha. Cuộc hành thích không thành công và Kha bị băm nát thây thành từng mảnh vụn, Tần Vương thì an toàn. Thái Tử Đan thì biến mất trong lịch sử không còn nghe nhắc tới, vì chẳng làm nên trò trống gì.

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Hạ Ðình Nguyên - Những cái nhìn về “Đèn Cù”


Mỗi người đọc một cuốn sách đều phải đọc bằng con mắt sẵn có của mình, do đó, Đèn Cù cũng được đọc dưới những cặp mắt kính khác nhau.

Tôi nghĩ về câu chuyện “Người mù sờ voi”.

Đây là câu chuyện xa xưa, đã có từ rất lâu đời của nhiều dân tộc khác chứ không riêng của Việt Nam ta. Nó có cả trong sách kinh của Phật giáo, tức là rất lâu. “Người mù sờ voi” không phải câu chuyện có ý nghĩa tiêu cực, nhằm phê phán ai đó là thiển cận, là dốt nát. Nó có ý nghĩa rất tích cực và trung tính, không nhằm khen chê, phê phán. Nó nêu lên một chân lý khách quan, nói lên một cách nghiêm túc rằng, không ai có thể nhìn thấy được đích thật một sự vật, mà chỉ thấy một mảng nhỏ của sự thật qua nhãn quan của mình, giống như một người mù sờ vào một phần thân thể con voi.

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Hạ Đình Nguyên - Từ thoát Trung đến thoát Cộng


Có ba vấn nạn cho Việt Nam hôm nay:
– Trung Quốc Cộng sản đang là một đe dọa nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam.
– Thể chế nhà nước Việt Nam đang là một thể chế bất hợp lý, độc tài và tham nhũng.
– Ý thức hệ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang theo đuổi, chính xác là một ảo tưởng.

Vận nước cũng giống quy trình của một đời người: “Một thời để yêu, một thời để chết” (tên một tác phẩm của Maria Remarque). Nói theo phong cách triết học hiện đại thế kỷ 20: Một thời dấn thân (s’engager), một thời tháo gỡ (desengager).

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Hạ Đình Nguyên - Các Mác & Việt Nam hôm nay


Hạ Đình Nguyên - 

Người ta đều biết Các Mác là một nhà tư tưởng lớn có tầm thời đại, với ảnh hưởng kéo dài đã ngót 200 năm. Tư tưởng của ông có tính chất cách mạng và nhân bản, hướng đến giải phóng loài người với mục tiêu tự do và bình đẳng. Nhưng trải qua tác động của tư tưởng đó, bằng sự so sánh lợi và hại, người ta nói, giá như đừng có ông thì hơn!


Thật đáng thán phục vừa là kinh ngạc, khi đọc kỹ một đoạn văn sau đây của ông, giống như ông vừa mới nói hôm qua ở một vài xứ sở:
Các chế độ chính trị lỗi thời đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng.

Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi thảm là vì nó tự buộc cho mình một nội dung hãnh tiến vô vọng.

Hễ cái chế độ này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì chính tự bản chất của nó là một lỗi lầm lịch sử...
Chế độ này là vở hài kịch to lớn của thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước và sẽ không bỏ sót một ai.

Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp.
(Góp phần phê phán triết học pháp quyền Heghen)

Cái nhìn của của ông có tầm bao quát lịch sử xã hội, nhìn rõ một cách sắc sảo đúng như bản chất của thời đại mà ông đang sống, đồng thời lý tưởng mà ông hướng tới, diễn ra sau ông một trăm năm, lại y hệt điều mà ông lên án nó.

Mỉa mai thay, hiện thực đó lại nhân danh chính lý tưởng của ông. Nhân danh ông, người ta thực hiện chính điều mà ông phê phán:
Các chế độ chính trị lỗi thời đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng”.

Bằng vào hiện thực hôm nay, tại các nước XHCN nhân danh ông, đã tạo nên cơ chế quyền lực biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng, các chế độ đó đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng ra sao, tại các quốc gia nói trên, còn lại ít nhất là ở Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên! Và nó đang diễn ra từng ngày từng giờ, trước mắt toàn nhân loại. Cái lý tưởng nhân quyền đã khai sinh ra từ thời đại ông cho đến nay gần 200 năm, vẫn chưa thấm đến được ở những phần đất nói trên. Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên không phải là một hang động bí hiểm nào ở xứ Nam Cực hay Bắc Cực, mà nó ở một vùng giữa châu Á đông dân cư và sôi động nhất thế giới, mà người cầm trên tay tờ giấy “Tuyên ngôn nhân quyền” có thể bị bỏ tù, bởi chính những người nhân danh lý tưởng của ông. Ông nói về một chế độ trước mắt mà ông muốn đánh đổ ở ngay thời đại của ông, nó lại tái hiện nguyên hình đằng sau tư tưởng của ông ở vào thế kỷ sau!

Nhưng bằng cách nào nó vẫn tiếp tục tồn tại trong khi bản thân nó là sự bi thảm?

Chính ông đã nói: “Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi thảm là vì nó tự buộc cho mình một nỗi hãnh tiến vô vọng”.

Nó tồn tại, bởi sự hãnh tiến cao đến mức che lấp sự vô vọng, và không nhìn ra nỗi bi thảm, một sự hãnh tiến vô cùng nông nổi, một sự tự tin không hề có bằng chứng, và không nhận thấy đất sụt dưới chân mình. Bằng sự dối trá, họ tin vào lý tưởng mà ông nêu ra. Họ hiểu và biến khái niệm giai cấp của ông thành ra một sức mạnh cơ bắp, họ tin vào bạo lực mà ông đã truyền dạy. Cái bi thảm mà ông nói, trước hết nó đến với đám đông bị cai trị, sau đó, nửa đời hay trọn một đời, mới đến phiên họ, và kéo theo nhiều thế hệ trong cùng một dạng bi thảm ấy. Cái năng lượng đấu tranh giai cấp của ông tự biến tướng làm hai luồng. Một, hy sinh để đánh đổ giai cấp thống trị. Hai, cái còn lại thay thế vai trò thống trị tàn khốc hơn. Ông đã tạo nên đồng thời một loại “thánh” bất đắc dĩ, và một loại quỷ dữ. Mà ý của ông chỉ muốn phục hồi con người, một loại người mà ông muốn biến đổi gien, gọi là Vô sản, lại không phải là một thứ người có thật ở cõi người ta (terre des hommes). Nhưng rốt cuộc, người nhân danh “vô sản” lại hữu sản hơn cái giai cấp hữu sản mà họ đánh đổ. Cái hữu sản của giai cấp tư bản mà ông nói, là tạo nên bởi sự bóc lột sức lao động của người bị trị, nay cũng thế và ở một trình độ khốc liệt hơn, bao gồm hàng loạt triệu sinh mạng tập thể. Sự thật đã diễn ra như thế gần một thế kỷ ở một nửa trái đất, chứ không phải là lý luận hay suy diễn từ đâu cả. Cái nhìn giai cấp của ông có lợi chỉ một, cái hại gấp trăm ngàn lần, cộng lại thành số âm to tướng. Ông làm cho cõi ta bà này nhiễu nhương thêm lên.

Ông truyền cái duy vật lịch sử (lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp) vào những não bộ của những con người chưa trưởng thành, kích thích bản năng và biến họ thành một thứ chiến binh hung hăng, chỉ biết “tiến mà không lui”, bằng cách tự đặt ra cho mình những thách đố vô nghĩa “ai thắng ai”, và cuối cùng dù thắng hay không, cũng không để làm gì cả, ngoài việc tạo nên vô vàn những nghĩa trang cho loại “thánh bất đắc dĩ”, trong khi những con ngưởi này, chỉ một lòng muốn sống như một con người bình thường và bình đẳng.

Ông lên án các loại tôn giáo, chỉ vì khía cạnh tiêu cực của nó, rồi đánh đổ nó toàn diện, để tạo nên một thứ dị giáo quái đản mới, cũng gọi là “đức tin” đấy! (1). Ông tiêm chủng chủ nghĩa duy vật, là nâng cao, là tuyệt đối hóa khía cạnh sinh vật và vật lý, vào con người để tước bỏ tính người của họ, làm cho họ không còn mộng mơ tơ tưởng gì ráo vào đời sống tinh thần, chỉ biết găm miệng mình và ghìm miệng tha nhân vào vật chất, ăn ngay vào xác sống con người, không giống như bầy kênh kênh chỉ ăn vào xác chết mà thôi. Đệ tử của ông đã cai trị thế gian theo cách đó. Và dĩ nhiên, đệ tử của ông cũng phải sống với trạng huống bi thảm tận cùng nội tạng, với thủ đoạn và thái độ chùng lén nhưng rất hãnh tiến mà ông từng mô tả: “Chúng ca len lén bài ca nửa thú vật, nửa thiên thần.

Tiếng ca ấy đang rên rỉ khắp nơi bằng bài ca “Đúng quy trình!”.

Ông nêu tiếp trong đoạn văn nói trên:
Hễ cái chế độ này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì tự bản chất của nó là một lỗi lầm của lịch sử…

Ý kiến của ông là không sai. Đúng như thế, mà nó vẫn ngoan cố đấy, và nó vẫn nhân danh điều ông nói, và nó cứ để cho cái lỗi lầm ấy cứ diễn ra trong lịch sử. Họ chống nạnh lên và nói: Thì sao nào? Lịch sử bỗng dưng phải lao ra chịu trách nhiệm! Chẳng có ý nghĩa gì cả! Lịch sử là cái nó diễn ra, chứ chẳng có thứ gì là chủ thể của cái từ lịch sử để quy là lỗi lầm của nó! Thà nói rằng đó là sự dắt dẫn bởi vô minh (bản năng u tối - Phật), cũng như nói đó là sự trừng phạt của Thượng Đế (Chúa) thì vẫn còn có thể hữu ích hơn, hoặc dễ chịu hơn là cách nói của một thứ dị giáo quái đản kia.

Vâng, nó vẫn đang tiếp tục ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, và vẫn kiên trì nhân danh ông đấy thôi!

Ông đã khẳng định:
Chế độ này là vở hài kịch to lớn của thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước và sẽ không bỏ sót một ai…

Điều này quả thật là tôi tin tưởng, nhưng ông nói về đối tượng thời đại của ông, tôi tin tưởng vào thực thể của thời đại tôi. Cái vở hài kịch của thế giới mà ông đề cập quả đã chấm dứt, nhưng ông lại không dự đoán được rằng, chính ông mở ra một vở hài kịch mới, là cái vở hài kịch mà con người đang chứng kiến nó cố giằng co chưa chịu chấm dứt. Những anh hùng của nó đều bị khai tử, khai tử trên thực thể xã hội và trong tâm trí mọi người, những hình tượng của nó đã bị chôn vùi hoặc đang bị đập vỡ ra từng mảnh; nhưng lại có những kẻ đang cố nhón gót để làm anh hùng…, rồi cũng sẽ bị khai tử không sót một ai, cho dù ở vùng đất trũng này bước tiến của lịch sử quá chậm chạp.

Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp.

Tôi lại tán thành một lần nữa về câu nói trên. Chung cuộc, là cái cuộc dâu bể cuối cùng chứ không phải ai hết, sẽ vứt bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Và đó đúng là vở bi hài kịch khủng khiếp. Cái khủng khiếp sau thì hơn cái khủng khiếp trước mà ông đã nhìn thấy, lại dính dáng đến ông một cách khá nghiêm trọng. Nhưng để có cái cuối cùng thì cần chôn luôn một lần vào nghĩa trang chính cái chủ thuyết của ông, mà sau này người ta ăn có/ăn hôi, và gọi bằng nhiều thứ tên, theo cách ghép thêm đuôi vào.

Các học giả vừa bênh vực ông, lại vừa chống đối ông, đã tốn rất nhiều bút mực, giấy in và chỗ để, cả công sức để nghiên cứu tư tưởng ông. Cái tích cực trong tư tưởng ông là phát ra những tư duy mới mẻ góp phần tiến bộ cho nhân loại, nhưng phần tiêu cực lại quá lớn, đó là sự thúc đẩy về bạo lực.

Đoạn văn trên của ông thật kích động và thôi thúc một sự tiến lên và phá hủy, đầy rẫy sự căm hận bản năng mênh mông: bi thảm, thảm trạng, ngoan cố, bi hài kịch, nghĩa trang, khai tử không sót một ai… nhưng kết cuộc thì là gì? Cái não trạng bạo lực ấy càng dâng cao. Cái đối tượng mà ông chỉ ra là hãnh tiến, nay nó vượt lên thành kiêu ngạo, sự kiêu ngạo cộng sản. Họ nêu cao khẩu hiệu “thế lực thù địch” để nhân danh sứ mạng “chống” thế lực thù địch, nhằm củng cố vai trò bạo lực của mình. Những khó khăn bất cứ loại nào xuất hiện, họ đều gọi là sự “thách thức”, nhưng chẳng ai thách gì cả. Họ tạo nên căm thù, lấy đó làm động lực, và muốn “đấu tố’ luôn cả lịch sử của dân tộc họ.

Cái sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa bước qua quả là một vở bi hài khủng khiếp”. Nhưng vở kịch bi hài khủng khiếp ấy chưa phải là cuối cùng như ông mong muốn, vì lịch sử đã vừa bước lại, và nó tái hiện khủng khiếp hơn, mà lần này người ta nhân danh ông là đạo diễn. Cái bi hài đó càng bi hài hơn.



Suốt quá trình hình thành, phát triển và tàn lụi, nó chưa từng đóng góp được một phát kiến tí teo nào về khoa học cho đời sống văn minh vật chất, cũng chưa từng có một đóng góp nào có giá trị cho đời sống tinh thần con người, nếu không nói là kéo lùi lại tình trạng thô thiển hơn trong tư duy, đơn cử như cái định nghĩa hết sức thối nát: “Con người là tổng hòa mối quan hệ xã hội”, đã biến con người thành một hỗn hợp không có bản thể, một sản phẩm không thể có tên gọi, trở thành vô danh trong đống xà bần mà xã hội đã biến thành, dưới sự cai trị của những người nhân danh học thuyết của ông. Nếu có một chút giá trị gì chăng, đó là quá trình thực nghiệm theo phương pháp loại suy, nó nằm trong trường hợp mà nhân loại phải loại trừ, không lặp lại phương án thực nghiệm khốn cùng ấy nữa.

Nhiều người rất thương mến ông, vì những phát kiến tiến bộ, nhưng họ nghĩ không có ông thì vẫn hơn, hơn rất nhiều, vì cái ảo vọng về vai trò cực kỳ tào lao của cái gọi là “giai cấp” đã quá nhiều tàn hại. Người ta mong đừng có một người nào giống kiểu như ông xuất hiện lần nữa. Đã có Chúa và Phật, và các thứ, là quá đủ cho cái hành tinh khá nhốn nháo này, cho con người còn có cớ để mơ mộng, tròng trành giữa Địa ngục với Thiên đàng hay Niết bàn, thay vì cái dị giáo toàn bạo lực mà tín đồ của ông đang hoành hành, với não trạng ấu trĩ hơn cả sự hãnh tiến.

Ông đã đẩy lịch sử tiến lên một bước, nhưng rất đáng tiếc, nó quá đà. Giá như ông có thể sống dậy, để mà xem!

Và tín đồ của ông cần nghiền ngẫm câu nói của Mandela:
Khi tôi bước đến với tự do, tôi biết rằng nếu không bỏ lại nỗi đau và sự căm thù lại phía sau, tôi sẽ vẫn ở trong tù
Hay cố làm những con “mèo béo”? (2).

Ngày nhân quyền 10-12-2013
H. Đ. N.

(1) “Le marxisme n'est pas mort, il continuera à exister […] ce n'est pas une science mais une croyance” (Chủ nghĩa Mác không chết, học thuyết này tiếp tục tồn tại, đó không phải là một môn khoa học mà là đức tin.). Jeannine Verdès-Leroux, La foi des vaincus (Đức tin của những người thất bại). Paris: Éditions Fayard, 2005.
(2) Lời của Mandela, trong dịp tranh cử Tổng Thống 1994, “Chúng ta sẽ không sống như những con mèo béo”. Tôi hiểu ý là lẩn trốn trách nhiệm và chuyên ăn vụng.
Nguồn: Bauxite Việt Nam



Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

Hạ Đình Nguyên - Trung Quốc và sự suy thái 8 triều đại Việt Nam


Hạ Đình Nguyên

Một quốc gia suy thoái, không chỉ là suy thoái theo nghĩa thoáng qua một cách bình thường. Một cơ thể bị suy thoái là kéo theo cả lục phủ ngủ tạng trong quy trình Sinh-Thành-Hoại-Diệt. Sự suy thoái của một triều đại, thông thường là không gượng nổi, kéo theo sự sụp đổ triều đại đó, bởi một lực lượng mới, hoặc bởi một thế lực ngoại xâm, mà Việt Nam thì luôn nằm cạnh nanh vuốt của loài hổ báo. Chịu khó lướt qua lịch sử để thấy tầm vóc hiểm nguy của hai từ “suy thoái”.


1-Nhà Đinh (968-980) . Đinh Bộ Lĩnh đấu tranh với 12 sứ quân, rồi chiến thắng và thống nhất dân tộc, lập nên Nhà Đinh, ( Đinh Tiên Hoàng), hiệu nước là Đại Cồ Việt. Việt Nam khai quốc chính danh từ đây. Đinh Tiên Hoàng mất sớm, vua con lên ngôi mới 6 tuổi, Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, triều đại đi vào suy thoái. tt-ct-đđ-ls nhanh chóng. Giặc Tống từ phương Bắc (Tàu) thấy thế tràn sang xâm lược. Vì coi sự tồn vong của dân tộc là trên hết, Thái Hậu và triều đình quyết định truyền ngôi vua cho Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn, để cầm quân đánh giặc.. Nhà Đinh chấm dứt sau 12 năm trị vì.

2-Nhà Tiền Lê-(980-1009). Lê Hoàng lên ngôi, cầm quân đánh tan giặc Tống, giữ được bờ cỏi. Nhà Tống nể nang, tôn trọng, quan hệ hòa bình, truyền đến đời thứ 3, là Lê Ngọa Triều thì bệ rạc, suy thoái tt-ct-đđ-ls và chấm dứt năm 1009, trị vì 29 năm.

3-Nhà Lý-(1009-1225). Lý Công Uẩn, quan đầu triều nhà Lê, có trí tuệ uyên bác, đứng ra lật đổ thối nát, chấn hưng quốc gia, lập nên nhà Lý, kéo dài 216 năm, đất nước hưng thịnh, đặt lại tên nước là Đại Việt, hai lần đánh thắng giặc Tống, giữ vững nền độc lập.(1) Đến đời vua Lý Anh Tông bắt đầu suy, kéo dài đến đời Lý Cao Tông (1210) thì suy thoái hoàn toàn về…tt-ct-đđ-ls. Sách chép : “Chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ ấy suy”. “Lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong”. Từ 1210 đến 1225 triều chính nằm trong tay đại thần Trần Thủ Độ, nhà Lý chỉ còn cô con gái nhỏ Lý Chiêu Hoàng đứng danh nghĩa. Triều đại nhà Lý cũng đến đây là chấm dứt.

4-Nhà Trần.(1225-1400). Trần Thủ Độ, quan đầu triều, là một người mưu lược, độc ác, thanh toán các thế lực, giành ngôi và đứng ra chấn hưng đất nước. Để danh chính ngôn thuận, đưa cháu là Trần Cảnh, chồng tảo hôn với Lý Chiêu Hoàng, lên làm vua, lập nên Nhà Trần. Là một triều đại hùng mạnh kéo dài 175 năm, 3 lần lẫy lừng chống quân Nguyên Mông, để lại một trang sử vẻ vang của dân tộc Việt.(2) Nhưng đến đời vua cha của Trần Dụ Tông thì bắt đầu ăn chơi và triều đại suy thoái, đến khi Dụ Tông lên ngôi (1357) thì suy thoái càng thêm trầm trọng về… tt-ct-đđ-ls. Sách nói : “ham mê tửu sắc, bỏ bê triều chính, gian thần lộng hành, sưu cao thuế nặng”. Chí sĩ Chu Văn An dâng “Thất Điểu Trần” bị bỏ ngoài tai. (Vua trước lấy gái làng chơi, đã sẳn có bầu, đem về sinh ra Dụ Tông nên ăn chơi là cũng phải !). Suy thoái kéo dài, việc triều chính nằm trong tay đại thần Hồ Quý Ly. Đến 1400, nhà Trần chấm dứt vì Hồ Quý Ly cướp ngôi, cải tổ triều chính, nhiều sáng kiến chấn hưng, nhưng không kịp. 1406, nhà Minh tuy không hưng thịnh, nhưng thấy thế, liền kéo quân sang xâm lược, do Mộc Thạnh, Trương Phụ cầm đầu. Quý Ly chống không nổi, vì lòng dân không ủng hộ, bị giặc bắt cả vua cả tướng đem về Tàu. Giặc Minh biến Đại Việt thành Quận Giao Chỉ, (tổng cộng 21 năm), chúng thực hiện các biện pháp cai trị tàn ác, tìm mọi cách đồng hóa để xóa bỏ VN, triệt tiêu văn hóa, phong tục tập quán, xóa chữ viết, có cả việc đục văn bia( như Bắc Kinh đã sai làm vừa qua ở các chiến địa biên giới phía Bắc, sau trận xâm lăng thất bại năm 1979). Nhưng tinh thần Việt không khuất phục, ngay tử 1407 Trần Ngỗi nỗi lên cầm đầu cuộc kháng chiến, được 5 năm (1412) thì bị dập tắt, tiếp đến là cuộc chiến đấu của Lê Lợi.

5-Nhà Hậu Lê. (1418) Lê Lợi là bậc hào kiệt, cùng Nguyễn Trãi là bậc chí sĩ đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, 10 năm kháng chiến, từ 1418 đến 1427, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cỏi, khôi phục giang sơn, lên ngôi Hoàng Đế, chấn hưng đất nước, kéo dài thời hưng thịnh gần một trăm năm, đến đời vua thứ 5, Lê Uy Mục (1527) thì …suy thoái tt-ct-đđ-ls, sinh nội loạn. Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn, chiếm ngôi nhà Lê, chấn hưng nhiều mặt, thực hiện nhiều chính sách cởi mở, có được một thời ngắn yên ổn, nhưng dưới sức ép mạnh mẽ của nhà Minh, xét thế cuộc còn chênh lệch không chọi nổi, lại vì chính nghĩa chưa tỏ rõ, lòng dânchưa thuận theo, nên Mạc Đăng Dung tự trói mình, lên cửa ải xin hàng nhà Minh,nhận tấn phong của Minh Triều chức An Nam Đô Thống, để mong giữ yên bờ cỏi. Như thế, Việt Nam không còn là một quốc gia độc lập. Hành động đối ngoại nầy của Mạc Đăng Dung còn để lại sự bàn cãi hai chiều của lịch sử.

6-Giai đoạnTrịnh -Nguyễn phân tranh.

Chúa Trịnh. Sự suy thoái cuối triều Lê, dẫn đến thời Mạc trở thành lệ thuộc nhà Minh trong quan hệ bang giao, nhà Lê còn tồn tại một thế lực tiếp tục chống Mạc, do võ tướng Nguyễn Kim phò tá. Kim chết, rể là Trịnh Kiểm lên thay, dần hồi tiếm quyền, một mặt mưu ám hại con cái Nguyễn Kim, một mặt lợi dụng danh nghĩa phò Lê, diệt Mạc.Trịnh diệt được Mạc, lập nên Phủ Chúa, điều khiển quốc gia dưới danh ảo Vua Lê.
Chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng, con Nguyễn Kim, sợ anh rễ ám hại, lập kế xin trấn giữ phương Nam, dần hồi thoát được sự kèm chế của Trịnh, lập nên chính quyền phương Nam. Từ đó đất nước chia hai miền Nam, Bắc. Chúa Nguyễn trong Nam, chúa Trịnh phía bắc. Phía Nam có công mở mang bờ cỏi. Phía Bắc, dù vẫn suy thoái nhưng giữ được biên cương, chưa bị xâm lăng, vì lúc nầy Nhà Minh (Tàu) đang suy thoái, bị chìm đắm trong nội chiến, bởi bộ tộc Mãn nổi lên chống phá, nên sức chưa đủ mạnh để dòm ngó phương Nam.
Hai miền Đại Việt phân tranh. Năm 1627 hai bên lấy sông Gianh làm giới tuyến, kéo dài hơn 200 năm. Nhân dân Việt Nam với tấm lòng bao dung và coi Tổ Quốc là trên hết, không tán thành sự hận thù chia rẽ bởi chính quyền Nam hay Bắc, với một tâm thức tinh tế, gọi chính quyền phía Nam là Đàng Trong, gọi chính quyền phía Bắc là Đàng Ngoài, thể hiện ý chí duy trì một Quốc gia duy nhất.. Cuộc giằng co đôi bên chẳng đem lại sự hưng thịnh nào cho đất nước, con dân trong tình cảnh bèo dạt mây trôi. Năm 1771, ở vùng núi non miền Trung hoang vu, thuộc tỉnh Bình Định, xuất hiện một lực lượng mới, do anh em hào kiệt Nguyễn Huệ cầm đầu, vung gươm mấy trận, dẹp sạch Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, cả vua Lê chúa Trịnh đều cho về vườn, lên ngôi Hoàng Đế, trực tiếp cầm quân chống giặc Mãn Thanh (Tàu), lúc nầy đã thanh toán xong nhà Minh, lập nên nhà Thanh, thế đang mạnh, hùng dũng tràn quân sang xâm lược VN. Nguyễn Huệ đánh quân Thanh một trận tan tành, gò Đống Đa còn ghi dấu tích. Trong Nam, quân Xiêm La kéo sang ăn có, chỉ một trận, nhận chìm cả đoàn quân viễn chinh ở sông Rạch Gầm. Giang sơn bắt đầu thu về một mối, khởi sự cuộc chấn hưng. Nhưng vận nước còn xui, người anh hùng bỗng dưng đột tử, mọi việc trở nên dở dang.

7-Nhà Nguyễn. Hậu duệ của chúa Nguyễn (Đàng Trong)- Nguyễn Ánh- chiếm lại giang sơn, thống nhất nước nhà từ Nam đến Bắc, dưng lên Nhà Nguyễn, kéo dài thịnh trị mấy trăm năm. Đến đời vua Tư Đức, thời đại thế giới đã chuyển mình, phương Tây phát triển khoa học kỹ thuật,, tạo nên một nền văn minh mới. Trong khi đó, Việt Nam cũng như Tàu và cả phương Đông đang chìm trong lạc hậu với hệ tư tưởng phong kiến cũ kỷ, bị các nước phương Tây xâm chiếm và đô hô, Pháp chiếm Việt Nam, có thể lấy mốc lịch sử từ năm ký Hiệp Ước 1874, bắt đầu nhận chịu sự bảo hộ của Pháp.. Đại thần Phan Thanh Giảng tuẩn tiết khi mất 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Từng bước, VN rơi vào cảnh mất nước và lầm than, nhưng lực lượng kháng chiến trong nhân dân không bao giờ ngừng. Các đời vua sau cùng của Nhà Nguyễn trong chế độ bảo hộ, liên tục bị thực dân Pháp bức hại trong bóng tối, bị bắt, bị giết, bị lưu đày. Đời vua bù nhìn cuối cùng là Bảo Đại lưu vong sang Pháp, đến cuối đời chết ở đấy. Nhà Nguyễn đã hoàn toàn chấm dứt từ 1945. (1874-1945=81 năm lệ thuộc Pháp). Hẳn nhiên trong bối cảnh trượt dài trong suy thoái không gượng nổi về ..tt-ct-đđ-ls của các thế hệ cầm quyền phong kiến nhà Nguyễn. Sự suy thoái lần nầy cực kỳ trầm trọng trong so sánh với sự biến chuyển mới của thời đại. Nhà Nguyễn có nhìn mà không thấy được thời đại mới, bỏ qua một cơ hội chuyển mình của dân tộc.

Xét qua các triều đại, mỗi lần suy thoái dẫn đến kết thúc một triều đại đều để lại nhiều bài học đáng giá, bộc lộ khả năng, đức độ của tập đoàn cầm quyền về phương diện nội trị và đối ngoại..Và có thể kết luận, bộ máy Nhà Nước có thể mất, thế lực cầm quyền có thể đầu hàng, ngu trung có thể không nhìn thấy, nhưng dân tộc không bao giờ mất, nhân dân không bao giờ đầu hàng, bậc trung quân ái quốc thì luôn nhìn thấy.

8-Triều Đại Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam. Từ đây, cuộc kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục, dưới sự lãnh đạo của Đảng LĐVN, với chủ thuyết XHCN, 1945-1975=30 năm chiến đấu (chống Pháp 9 năm, chống Mỹ 21 năm) với cường độ khốc liệt, một giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng cho dân tộc, bởi sức ép trong bối cảnh hệ tư tưởng của thời đại chia thế giới chia thành hai cực. Hiểm độc hơn nữa, lồng vào tình thế đó, là cuộc xâm lăng khi âm thầm, khi trắng trợn của TQ, dưới vỏ bọc cùng phe, cùng hệ tư tưởng XHCN. Sắp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ, năm 1974, chúng chớp thời cơ, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.. Năm 1975, kết thúc cuộc chiến với Mỹ, liền sau đó, 1977, chúng bắt đầu cho quân Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam, để tiến công qua, bị quân ta đập tan. Năm1979, chúng tiến hành công khai cuộc xâm lược, cho đại quân ào vào biên giới phía Bắc. TBT Lê Duẫn tiếp tục lãnh đạo quân dân chống xâm lăng, làm chúng thất bại nặng nề, buộc phải rút quân về nước, mộng bành trướng bị chận đứng. Nhưng sau đó,cuộc chiến đấu vẫn âm thầm tiếp tục ở quy mô nhỏ dọc biên giới. Năm 1988, chọn lúc bất ngờ, chúng tiến chiếm thêm 7 đảo đá ở Trường Sa. Từ 1975-2012 là 37 năm chưa lúc nào yên với phương bắc. Chúng không bao giờ muốn Việt Nam độc lập, luôn muốn kìm kẹp Việt Nam trong thế suy yếu. TBT Lê Duẫn, trước khi mất, căm giận không nguôi, khẳng định : “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.

Đến tháng 3-1990 thì Lãnh đạo Đảng Việt Nam sang Tàu xin hòa hoãn, tái ban giao với biên bản ký kết 16 chữ vàng ở Hội nghị Thành Đô (TQ). Quá khứ đau thương còn nóng hổi được gác lại một cách tế nhị, và được đưa vào vùng “nhạy cảm”, không được nhắc tới. Từ đó sự suy thoái ngày càng diễn tiến phức tạp.
Dưới tấm màn xảo trá 16 chữ vàng, bọn chúng âm thầm tiến hành sách lược xâm lăng theo kế sách “sức mạnh mềm” với 5 bộc lộ mà người dân bình thường cũng thấy rõ :
 1* Lấy chất kết dính là CNXH để lung lạc lập trường của Lãnh đạo VN.
2* Lấy sự tồn vong của “hai” Đảng làm bản lề để gây ảnh hưởng chính trị vào chính trường VN.
3* Trói buộc vừa phá hoại nền kinh tế VN với nhiều mưu độc dưới dạng hợp tác thân thiện, hữu nghị.
4* Kèm chế quan hệ Việt Nam-Mỹ, xúi dục VN đối đầu với Mỹ bằng phương châm “diễn biến hòa bình” hòng kéo VN vào thế lệ thuộc chúng, đem khẩu hiệu nầy truyền bá, hòng làm lạc hướng nhận thức của cán bộ và nhân dân.
5* Tham vọng nuốt Biển Đông. Thập niên đầu thế kỷ 21, kinh tế TQ phát triển nhanh, quân sự được hiện đại hóa, chúng cho rằng thế và lực đủ mạnh, sự suy thoái của VN – bàn đạp quan trọng để tiến vào Đông Nam Á –đã chín mùi trong thế kẹp toàn diện của 16 chữ vàng, chúng trắng trợn thách thức thế giới, tiến hành chiến dịch thôn tính toàn Biển Đông, tuyên bố bừa rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của chúng, công khai đe nẹt VN phải đi theo con đường “đại cuộc siêu cường” của chiến lược bành trướng, nếu không, thì bị trả thù !

 Nhân dân Việt Nam đã đi suốt con đường đấu tranh không ngừng nghỉ 150 năm (81+30+37), nói riêng dưới triều đại Đảng CS và Chủ Nghĩa Xã Hội là 67 năm, để giành lại giang sơn và giữ giang sơn một cách bi tráng với tất cả phức tạp của tình hình thế giới, với tốc độ dồn dập những khoảnh khắc lóe sáng rồi chập tối của lịch sử cận đại quay cuồng mà dân tộc Việt nam phải đối phó, với những kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều lần liên tiếp thay nhau, bạn thù tráo trở, trào lưu xoay vần : xong Pháp,Tàu, Mỹ, thì lập tức lại là Trung Quốc.
Trong tình hình mới hiện nay, Hệ tư tưởng đối lập mang tính toàn cầu chia đôi thế giới của thời chiến tranh lạnh, ngày nay không còn nữa, thay vào đó là sự khác biệt về hai cơ chế quản lý và điều hành xã hôi, một mang tên là cơ chế “dân chủ”,và một, mang tên là cơ chế “dân chủ gấp triệu lần”(lời bà PCT Nước, GS-TS Nguyễn Thị Doan)! Đó là bối cảnh tư tưởng cực kỳ hủ bại, lạc nhịp của một bên..Tại thời điểm hôm nay, và cả thế kỷ 21, tai họa lớn nhất đối với nền hòa bình thế giới là chủ nghĩa bành trướng hiếu chiến Bắc Kinh, đồng thời là kẻ thù trực diện, nham hiểm nhất đối với Việt Nam. Chúng bảo Việt Nam: “Muốn ổn định phải đổi đất”. (báo Hoàn Cầu). Ý chúng dọa nạt ai, và điều gì ? Đổi đất, tức là cắt giang sơn và để yên các Đảo và Biển Đông cho chúng, và ổn định là ổn định vai trò cầm quyền độc tôn của Đảng CSVN nếu theo chúng ?
Tuy nhiên, giang sơn không thể cắt bớt. Đất liền, biển, đảo đã được giữ gìn qua bao triều đại. Lại càng không có sự “ổn định” nào có giá trị hơn Độc Lập, Tự Do, không có sự “tồn tại” có giá trị của bất cứ đảng phái nào, khi không giữ được toàn vẹn lãnh thổ.

Trong 20 năm qua, từ hội nghị Thành Đô đến nay, ĐCS VN đã suy thoái và đang tiếp tục suy thoái, như Nghị Quyết 5 đã nêu: “ Sự suy thoái về Tư Tưởng, Chính Trị, Đạo Đức, Lối Sống” lên tới đỉnh điểm, chạm với “sự tồn vong” của Đảng. Nhưng đáng nói hơn, và đúng hơn, chính là sự tồn vong của đất nước. Chúng ta biết rằng, sự suy thoái không bắt đầu trong một đêm và không thể chấm dứt trong một ngày. Nó có nguyên nhân cốt lõi và kéo dài không chỉ 20 năm, mà có thể đến mấy đời vua, hay cả nửa thế kỷ, như lịch sử đã cho thấy. Sự suy thoái là quá trình tự hủy hoại nhiều mặt. Chúng ta biết lối sống là biểu hiện của nền tảng đạo đức và giáo dục. Suy đồi đạo đức là biều hiện của một nền cai trị không tốt. Cái gốc vấn đề chính là tư tưởng-chính trị, nó luôn ở vai trò nguyên nhân chủ đạo, mà tư tưởng là cốt lõi, vì tư tưởng có nhìn ra được trào lưu của thời đại hay không ? thấy rõ loại nào là đề án phát triển dân tộc nhắm đến văn minh, nhân bản, dân chủ, tiến bộ; và loại nào là đề án kìm hãm dân tộc trong độc tài, dã man, tụt hậu; để từ đó xác định hướng đi và chỉ rõ kẻ thù ? Nhân dân Việt Nam thấy rõ ai đang chỉa súng, lưỡi lê, giáo mác vào ta , ai đang trừng mắt và sĩ nhục dân ta mỗi ngày ở đất liền, ở biển Đông ? Suy thoái lần nầy phải chăng có gắn liền với đặc điểm kiệt quệ về sức sống , thiếu vắng niềm tự tin của dân tộc, hay kiệt quệ về khả năng tư duy của cả dân tộc ? và đặc biệt của lãnh đạo đương thời ?

Lướt qua bối cảnh suy thoái gắn liền với ngoại xâm của 7 triều đại và triều đại hôm nay, chúng ta thấy rõ sự suy thoái hay hưng thịnh của một chế độ, là vai trò của kẻ làm quan của triều đại đó, đặc biệt là các Quan Đại Thần, về chính sách nội trị đối với nhân dân, và khả năng tư duy về thời đại, tư duy về học thuyết .Trong bối cảnh đó, ta nghĩ về tác hại của tư tưởng Ngu Trung .

Theo NLG, rút từ SỰ “SUY THOÁI” TRONG LỊCH SỬ VÀ HAI CHỮ “NGU TRUNG”, đầu đề của QC.


Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Hạ Đình Nguyên - Ngài Tổng bí thư và sự “khốn cùng” của “đúc kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận”


Hạ Đình Nguyên

Có lẽ nhiều người bị chứng trầm cảm sau khi đọc “bài nói chuyện quan trọng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Cubav ừa rồi.


Sự quan trọng của bài nói chuyện quan trọng là sự mất phương hướng quan trọng. Vì điểm xuất phát thì không rõ ràng, mà đích đến lại mơ hồ. Người ta bỗng nhớ đến, vào cùng một thời điểm, cuộc phóng tên lửa của Triều Tiên. Tên lửa không đi tới đâu, nửa chừng nổ tung, rơi xuống biển. Không đến được đích đến, mà đích đến là đâu, cũng mơ hồ không kém bài nói chuyện quan trọng. Tuy nhiên, hai sự kiện đều mang khí thế tự tin và tính kiên cường tương đương nhau. Một bên là khoe sức mạnh vũ khí, một bên là biểu thị sức mạnh tinh thần với đường gươm tư tưởng sắc bén. Ánh hào quang lý luận xã hội chủ nghĩa lóe sáng rực giữa trời đêm bao trùm lên chủ nghĩa tư bản đang suy thoái. Ở thế kỷ này, rất hiếm hoi để có một người hùng đứng lên, nói cho cả thế giới biết về tính “ưu việt” của Chủ nghĩa xã hội, và chỉ rõ sự khủng hoảng “không cưỡng nổi” của Chủ nghĩa tư bản. Kim Jung Un ít nhất làm cho nhân loại ở một nửa quả đất lên cơn sốt. Bài nói chuyện quan trọng gây ngạc nhiên cho nửa quả đất còn lại. Dù nửa chừng rơi xuống biển, hoặc nửa chuyến đi lại quay về, thì tiếng vọng vẫn còn đó, ít nhất cũng nằm trong một chuỗi chứng tích của lịch sử. Ai dám chê ý chí và bản lãnh của Kim Jung Un? Ai dám hoài nghi sự vững vàng kiên định về chính trị – tư tưởng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?

Nhưng có người bảo, Cuba không phải là nơi đến để nói đùa!

Trước đây, ông cựu Chủ tịch nước Việt Nam sang Cuba  nói về chuyện: hai bên thay phiên nhau, chia thành hai ca thức-ngủ, để canh hòa bình thế giới, là câu nói thuộc hàng quý hiếm, để đời. Năm nay, bài nói chuyện quan trọng, với nét tư tưởng hoành tráng, có tính chất dẫn đầu thời đại, xuất phát từ bệ phóng Việt Nam, một xứ sở đang đứng ở điểm cao của “Đỉnh Gió Hú”, không còn là “ Đồi Thịt Băm”, một xứ sở rất thần tiên xhcn, được nhân danh trong tương lai! Và theo đó, Nhân dân Việt Nam dưới sự dắt dẫn của Đảng Cộng sản Việt Nam, với 80 năm của nhiều thế hệ kế tiếp nhau chết trẻ, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, rất vẻ vang và kiên cường, nay sẽ tiếp tục phấn đấu nữa, hy sinh nhiều thế hệ nữa để giữ vững lý tưởng xhcn, một học thuyết “đỉnh” của loài người… Ngoài lý do “bạn đã từng khuyên ta… phải kiên trì!”, còn có một niềm tin vững chắc khác, đó là sự xác tín, chắc như đinh ghim bánh xe, sau những “đúc kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận” rất đáng tự tin, tự hào của Đảng Cộng sản Việt Nam mà ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư, đồng thời là nhà lý luận tự thấy là tầm cỡ:
“Chúng tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn từng bước đi…” (điều này nói lên hàm lượng chất xám rất cao nhé!), Chủ nghĩa xã hội… “là sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp (sự nghiệp là bể khổ vậy), “vì nó phải tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên tất cả các lãnh vực đời sống” (gần như làm lại con người), và cuối cùng thì phải, “trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi” (tương đương với nhiều kiếp?).

Nghe đoạn lý luận cốt lõi quan trọng trên đây, ai mà không hãi hùng, sốt cả bốn vó?

Thời gian quả là một đại lượng vĩnh hằng.

Trăn trở cũng là trạng thái vô định.

Bước đi thì nằm trong phạm trù khoa học lượng tử.

Nó cao hơn Tôn giáo, siêu hơn Tôn giáo, mơ hồ khó hiểu hơn Tôn giáo, ở chỗ nó chỉ do những con người, mà ta thấy hằng ngày rất tầm thường, lãnh đạo, miễn sao thực hiện đúng giáo điều. Cái luận lý cùa nó tiếp theo phải được hiểu là: Nhân dân Việt Nam (kể cả Cuba anh em nữa nhé), gồm cả nam phụ lão ấu và những trẻ chưa sinh, đều phài nín thở mà theo dõi, lắng nghe, với sự tôn quý và kỷ luật, về những “trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, chọn lựa của… chúng tôi,” (gồm ông Nguyễn Phú Trọng và XYZ nào đó?), vì sự trăn trở này có giá trị lãnh đạo cho “sự nghiệp lâu dài vô cùng khó khăn và phức tạp” của nhiều kiếp người.

Chính vì rất lâu dài và nhiều bước đi, nên không mấy ai ngạc nhiên thấy các thái tử đỏ, công chúa đỏ, vội vàng được đưa vào đội hình kế thừa lãnh đạo, như ở Trung Quốc, và ở Triều Tiên… và tất nhiên, các thế hệ thanh niên lành và rách phải trở thành đội vệ binh đỏ để thực hiện cuộc thánh chiến kiên trì này.

Nhưng còn một khái niệm nữa, vừa bí hiểm vừa nguy hiểm: “Phải tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên tất cả các lãnh vực đời sống”. Ai? Ai có thể làm được điều này? Và dám làm điều này? Trong lịch sử nhân loại từng có những kẻ ngông cuồng. Triết gia Nietzsche đã từng có cuồng vọng đòi làm mới nhân loại, tên thợ sơn Hitler đã một lần dám thực hiện. Polpot cũng đã một lần làm nên đỉnh cao cho cuộc “biến đổi sâu sắc trên tất cả các lãnh vực đời sống” của nhân dân Campuchia, biến xứ sở này thành những cánh đồng chết. Ở Triều Tiên, Đảng và ba đời kế thừa lãnh tụ vĩ đại đã đưa nhân dân Triều Tiên đến chỗ cực kỳ trật tự và ngăn nắp, bình đẳng và không ai bóc lột ai, đã biến đổi sâu sắc, toàn diện “trên tất cả các lãnh vực đời sống” theo cách duy nhất, tuyệt đối mà Đảng và Lãnh tụ muốn. Chắc chắn là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không có tham vọng về một sự biến đổi sâu sắc theo kiểu này. Ông nói về những mong muốn thay đổi theo cách tốt đẹp, hơn cả nằm mơ, bao gồm một mớ từ ngữ phổ thông, giá rất rẻ và ai cũng biết. Có khác chăng là hàm lượng chất gia vị trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn… gia giảm ít nhiều mà thôi. Có một vị Tổng Bí thư (Đông Âu?) nói một câu rất dễ nhớ: “Người Cộng sản không phải là kẻ lừa dối chúng ta, nhưng họ đã không làm được điều mà họ nói.” Thế nhưng ngày nay, những người Cộng sản kế thừa, biết chắc chắn không làm được mà vẫn nói, nói mãi, nói kiên trì, thì nên gọi họ là kẻ gì?

Bài nói chuyện quan trọng ở nước bạn Cuba với tinh thần rất hào sảng và hoành tráng, nhưng trong nước, trước khi đi, ông Tổng Bí thư đã kêu gào chấn chỉnh Đảng, về tình trạng tham nhũng, thoái hóa đạo đức trong suy nghĩ, trong lối sống của đảng cầm quyền, và cảnh báo về vai trò lãnh đạo của Đảng đang rất bấp bênh và chao đảo, một bộ máy cầm quyền thối nát với rất nhiều sự bất mãn và phản ứng của nhân dân, tình trạng đàn áp, bắt bớ và chống đối xảy ra liên tục… trong bối cảnh một xã hội xuống cấp mọi mặt.

Hóa ra, bài nói chuyện quan trọng, chẳng phải đứng từ điểm cao nào cả, không phải “đỉnh gió hú”, hay “đồi thịt băm”, mà từ một trũng thấp vô danh của sự mơ mộng, mơ màng, bay bổng do cái “tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận” hoành tráng theo cách tự ám thị tạo ra. Đây quả đúng là sự khốn cùng, và cũng mong là cuối cùng, của đỉnh cao lý luận xã hội chủ nghĩa ở đất nước này.

Đang ở địa ngục nên mơ thiên đàng, đó vừa là thực tế vừa là tâm bệnh. Đó là sự đánh tráo có ý thức, hoặc là vô thức. Đó cũng là một loại giấc mơ của người muốn được làm kẻ chăn cừu. Đó là sự lẫn lộn giữa nói dối và ngụy tín. Lịch sử không còn một loại hẹn hò nào tương tự như thế nữa, cho những ai mơ mộng, một thời đại đã thật sự qua rồi. Do đó, bài nói chuyện quan trọng nhanh chóng chìm vào quên lãng, như chiếc tên lửa lệch đường đi.

Lịch sử luôn không lắng nghe một lý thuyết nào, hay một vĩ nhân nào. Không một lý thuyết nào hay vĩ nhân nào có thể bắt lịch sử đi theo mình.

Nếu có một khoảnh khắc lịch sử nào, có vẻ đi theo một lý thuyết, một vĩ nhân, thì đó là khoảnh khắc suy đồi và bệnh hoạn, chứa đựng sự nhầm lẫn có tính giao mùa, cái khoảnh khắc mà đại bộ phận trở thành nô lệ, thì không đáng được tán dương

Một lịch sử lành mạnh là lúc mà lịch sử đó vắng bóng sự thống trị nổi bật của ai đó hay lý thuyết nào đó. Lịch sử loài người là lịch sử đi tìm kiếm tự do, trên con đường đi tìm kiếm, nó tự bổ sung và điều chỉnh. Lịch sử mỗi đời người cũng là lịch sử đi tìm tự do, ở hình thái thấp nhất – hữu hình, ở hình thái cao nhất – trừu tượng. Hình thái thấp nhất là thoát sự kìm chế của kẻ khác, hình thái cao nhất là thoát khỏi sự kìm chế của bản năng. Càng tán dương một lý thuyết, một vĩ nhân (hay một nhóm) là càng nói lên sự tồi tệ của đám đông, càng ngợi ca con berger (loại chó giữ cừu), tức là gián tiếp ngợi ca sự thụ động ngoan ngoãn của bầy cừu
Đã xa quá rồi, tư duy của thời đại!

Tai họa đáng tiếc là đem sự độc tài đối lập với khái niệm dân chủ được hiểu như là một trạng thái hỗn độn. Nhưng người ta không nghĩ rằng, hễ dân chủ thì là hỗn độn, là thuộc chủ nghĩa tư bản bóc lột, là nhà nước tư sản, là kẻ xấu, là vũ khí lợi dụng… Tại sao không hiểu rằng thiết chế dân chủ ngày nay là một thiết chế được sàng lọc, được kiểm chứng qua nhiều thử thách, là thành tựu lớn lao của mấy thế kỷ đấu tranh của nhân loại? Chứ nó không phải là sản phẩm do trăn trở của một nhóm người độc tài đồng thuận nào đó tạo nên, sau một số đêm mất ngủ. Mà như ông Tổng Bí thư đã thừa nhận, trong bài nói chuyện quan trọng, ông và nhóm đồng thuận trong Đảng đã nhầm lẫn rằng: “đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản.” (ý nói rằng, vì hiểu nhầm là đồng nhất, nên đã lúng túng một thời gian dài từ chối kinh tế thị trường và từ chối nhà nước pháp quyền, vì xem nó là của chủ nghĩa tư bản và của nhà nước tư sản). Nhưng bây giờ, thôi không nhầm lẫn như thế nữa, thì sao? Hay vẫn cố tiếp tục gượng gạo che lấp, chống đỡ và biến tấu? Cả dân tộc, cả vận mệnh của quốc gia phải đau khổ và trả giá đắt như thế nào, cho sự nhầm lẫn có trăn trở ấu trĩ này? Đã hiểu rằng, kinh tế thị trường không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, Nhà nước pháp quyền không đồng nhất với Nhà nước tư sản, thì cũng nên hiểu tiếp rằng thiết chế dân chủ – thành tựu lớn lao của nhân loại – không nên quá trăn trở để hiểu nhầm thêm lần nữa, rằng nó là của riêng của đế quốc tư bản, của kẻ xấu. Thật ra, hiểu như thế không nhầm đâu! Tuy nhiên, người lương thiện rất khó chịu về một lối lý luận, khi đến bước đường cùng thì thừa nhận sự thật, thừa nhận sai lầm, khi chưa đến đường cùng thì tiếp tục tấu hài ngụy biện. Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, thiết chế dân chủ là hiện thực đang vận hành trên toàn thế giới, việc đi tìm kiếm xác định chúng nó là của ai, không là của ai, để thực hiện hay không thực hiện theo, thì quả là sự mặc cảm khốn cùng của một thứ “tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận” quá đáng thương!

Thêm một chút rò rỉ ở quả đạn pháo: “Thành phần chính trị cơ hội đang hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá…” .Thế thì, định chế xã hội chủ nghĩa lẽ nào luôn luôn ở thế đối lập với một bọn du thủ du thực, đầu trâu mặt ngựa, chực sẵn để hí hửng, xuyên tạc, chống phá? Đối thủ của Chủ nghĩa xã hội phải là điều gì cao cả hơn thế chứ? Hay nó chỉ xứng tầm một đối thủ như vậy? Vì thế, trong đọan văn trên đây, từ “hí hửng” lẽ ra nó không nên có, thật đáng tiếc, từ vị trí của người nói và nơi đứng nói, nhưng nó đã lỡ có, lại làm vui cho cả bài nói chuyện quan trọng! Nhiều người mong rằng chẳng nên có một sự hí hửng nào cả – mà nên có sự nghiêm túc xứng tầm với những trăn trở – suy nghĩ – tìm tòi – lựa chọn – bao gồm cả sự hí hửng về nền kinh tế tư bản, nói đúng hơn là của cả thế giới, đang khủng hoảng. Chỉ có Trung Quốc là một quốc gia có đủ trơ trẽn và hãnh tiến để có thái độ này, cớ chi đến Việt Nam?

“Bài nói chuyện quan trọng”, thật đáng tiếc, giống như quả tên lửa của Triều Tiên, một sự lên gân nông nổi tầm Nguyên Thủ Quốc Gia! Thật đáng tiếc!

H. Đ. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Nguồn: Bauxite Việt Nam