Kỷ niệm 100 năm Hàn Mặc Tử
(22.9.1912 -
22.9.2012)
Đây thôn Vỹ Giạ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ,
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên ?
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây ;
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa ;
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Đặng Tiến
Đây thôn Vỹ Giạ trong phong trào thơ mới 1932-1945 có lẽ là một trong vài bài thơ phổ biến nhất, đã được đem ra giảng dạy tại
nhà trường dưới nhiều chế độ khác nhau, có thể vì nhiều lý do khác nhau. Bài
này chỉ nêu lên giá trị nghệ thuật, trên nhiều địa tầng khác nhau.
Bài thơ làm khoảng
nửa sau năm 1939, khi tác giả đã bị bệnh phong hủi nặng, đang điều dưỡng tại
Quy Nhơn. Thơ làm khi nghĩ tới, hay để gửi cho người tình trong mộng là Hoàng
Cúc sau khi nhận được một tấm bưu ảnh bà gửi từ Huế.
Tiểu truyện kể lại
rằng, trước đó, 1932, chàng 20 tuổi, nhà nghèo, làm ở sở đạc điền Quy Nhơn.
Nàng mười tám, mười chín, gia đình khuê các, thân phụ là cấp trên của Hàn. Hai
người có lúc cùng ở chung đường. Tình
thơ mộng, đơn phương của tuổi hoa niên. Chàng đã từng làm nhiều thơ ca
ngợi :
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương
Sau đó, 1934, chàng bỏ việc vào Sài Gòn viết văn làm báo.
Khi sức khỏe suy yếu, có thể biết mình bị chứng nan y, 1936, Hàn về lại Quy
Nhơn. Nàng rời Quy Nhơn theo gia đình về Huế. Sau đây là lời Hoàng Cúc, tên
thật là Hoàng thị Kim Cúc, trong một lá thư gửi cho Quách Tấn ngày 15-10-1971.
(Sau khi được tin
Hàn bị bệnh nặng) « thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa
bằng cái carte visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái
chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước.
Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian,
tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và một bài khác nữa do Ngâm gửi về… ».
(Hoàng Tùng Ngâm, bạn thân của Hàn, là em con chú với bà Kim Cúc).
Chứng từ giúp ta
hiểu thêm hoàn cảnh sáng tác, nhưng bài thơ không phải là minh họa cho tấm bưu
ảnh. Điều đặc biệt là không khí trong sáng, dịu dàng của tác phẩm hoàn toàn
tương phản với căn bệnh ngặt nghèo đang
vào thời kỳ cuối của tác giả, lúc đó. Theo hồi ký của Nguyễn Bá Tín, em ruột:
« Những năm
1938-1939, nhất là năm 1939, anh đau dữ dội hơn hết. Tâm trạng anh biến đổi
nhiều qua thơ anh. Giai đoạn này anh sống nửa mơ nửa thực, thường hay xuất thần
không biết gì (tr.90).
Trích dẫn hai khổ thơ
đầu, ông Tín cho thông tin: « Hai loại thơ nói trên được sáng tác trong
cùng một giai đoạn, trong cùng một hoàn cảnh bệnh tật. Cùng trong túp lều tranh
xơ xác, dưới cây phượng vĩ tàn tạ, bên bờ biển hoang vắng mà hai trạng thái tâm
hồn hoàn toàn khác biệt nhau tùy theo cảm hứng. Tâm trí anh từ ngày đau nặng,
vẫn mơ ước thoát khỏi thân tàn ma dại, khỏi không gian và thời gian… ».
Trong một hồi ký vừa được in thành sách mới đây, 2010, Bùi Tuân, bạn thân Hàn
Mạc Tử đã xác nhận đời sống cơ cực này, tại một xóm nghèo cạnh Quy Nhơn.
Như vậy, chúng ta
đă có cái khung về hoàn cảnh sáng tạo bài thơ, giữa 1939. Nhưng văn bản xuất
hiện lần đầu, ở đâu, thì chúng tôi không biết, chỉ dựa theo văn bản trong sách
Trần Thanh Mại, 1941. Ông xếp bài thơ vào thi tập Xuân như ý, dưới tên Đây
Thôn Vỹ Giạ (tr.223), chúng tôi tôn trọng chính tả này. Ấn bản sau đó,
1942, Hoàng Trọng Miên xếp vào tập Đau Thương, dưới chính tả Vỹ Dạ,
thịnh hành ngày nay, và dưới tên Hàn Mặc Tử.
Ngày nay, bài thơ
được đưa vào chương trình giảng dạy cấp ba, nhiều soạn giả, như Hà Minh Đức,
xếp bài thơ vào thời điểm sáng tác 1937, trong đặc san Nắng Xuân, là không đúng.
* *
*
Sao anh không về
chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng
cau, nắng mới lên…
Là một trong dăm ba
câu thơ đẹp và trong sáng nhất trên nền trời thơ Việt Nam. Thần diệu trong đơn
giản, câu thơ gợi lên một không gian đơn sơ nhưng tuyệt vời – và không gian ngoại
thành Huế ấy cũng là phong cảnh quê hương chung của chúng ta, mà có lần Văn Cao đã khắc
họa trong bài hát «bóng cau với con thuyền, một dòng sông ».
(Ghi chú ngoài lề :
Văn Cao «khám phá» thơ Hàn Mạc Tử trong
chuyến thăm chơi Huế, 1941.)
Đây Thôn Vỹ Giạ gồm 3 đoạn đều cấu trúc trên nhiều câu hỏi, mở đầu bằng chữ Sao.
Chữ sao, nghi vấn và biểu cảm, khơi nguồn một bài thơ, sẽ là một đặc sắc
của thơ mới :
Sao buổi đầu xuân êm ái thế… (Xuân Diệu)
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong… (Thâm Tâm)
Nhạc điệu tân kỳ :
câu thất ngôn Việt Nam nhịp 3/4 ; câu thơ đường luật nhịp 4/3. Câu thơ Hàn
Mạc Tử khác lạ, khoan thai, tự nhiên 2/3/2
Sao
anh / không về chơi / thôn Vỹ
Sáu âm bằng liên
tiếp, nhịp những bước chân đều, dừng lại ở âm trắc cuối câu. Mãi sau này ta mới
gặp âm điệu ấy ở Nguyễn Đình Thi:
Ngôi
sao trong đêm không bao giờ tắt
Hay trong Bên
kia Sông Đuống của Hoàng Cầm:
Anh đưa em về sông Đuống…
…Ai về bên kia sông Đuống
…Bao giờ về bên kia sông Đuống
Độ dài ngắn từng
câu có phần xê xích, nhưng âm hao thì gợi nhớ câu thơ Hàn Mạc Tử.
Địa danh sông Đuống
đưa âm trắc bất thường về cuối câu, nhắc đến tên thôn Vỹ.
Trần Thanh Mại
là người uyên bác và đã dày công đưa ra
chuyên luận đầu tiên về một nhà thơ đương đại, và đề cao Hàn Mạc Tử, từng ca ngợi
bài thơ này như một « viên ngọc vô ngần quý giá (tr.60),
nhưng lại chê câu đầu là một « sơ suất » : câu ấy là một câu
nói thường chứ không thể là một câu thơ, « Vỹ » cũng không vần với
« lên » với « điền » hay với « ngọc » được (tr.224).
Hàn Mạc Tử hoàn
toàn theo đúng âm luật khi dùng vần trắc như thế, như ông đã làm nhiều
lần : « trăng nằm sóng soải trên cành liễu », và như Huy
Cận viết « sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp ». Chỗ
này, ngược lại, là một « sơ suất » của chính Trần Thanh Mại, có lẽ vì
chủ quan và viết vội. Còn nói rằng, đây « là một câu nói thường, không
thể là một câu thơ » là một lỗi thẩm âm. Thơ hay, là khi câu thơ đi
gần tới văn xuôi mà không phải văn xuôi ; văn xuôi hay là khi câu văn đi gần
tới thơ nhưng không là thơ. Ví dụ từ Xuân Diệu:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Câu trước văn vẻ,
trau chuốt, hay cái hay thông thường của văn chương ; câu sau hồn nhiên,
hay cái hay kỳ diệu của chất thơ, một nghệ thuật vượt qua kỹ thuật. Câu thơ hay
thường khi là ngôi sao sáng một mình, mà Roman Jakobson gọi là hiện tượng câu
thơ mồ côi, không phải trường hợp câu « sao anh không về chơi thôn Vỹ »,
vì âm điệu mà ông Mại cho là « trái tai », đã chuẩn bị cho một câu khác,
ở phần sau, cũng ngoại luật :
Mơ khách đường xa khách đường xa
Bình thường, theo âm
luật, thì trong câu thơ thất ngôn, chữ thứ hai và thứ sáu phải cùng một thanh,
hoặc bằng, hoặc trắc.
Bài Đây thôn Vỹ Giạ là một trong ba bài Trần Thanh Mại đưa ra để
chứng minh rằng « hầu hết thơ bảy chữ của Hàn Mạc Tử không kể
bài thơ dài ngắn, đều đã theo luật bằng trắc của Đường thi (…) âm điệu hiển
nhiên, bất di bất dịch, không còn bác bẻ được nữa » (tr.222). Nhưng…
Hàn đã bác bẻ : bài thơ thôn Vỹ gồm ba đoạn mà cả hai đoạn đầu … không
niêm. Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính… không bao giờ làm thơ « thất
niêm » như vậy.
Ngoài ra, trong thơ bảy chữ của Hàn, đây đó,
nhiều câu lạc vận.
Nêu lên vấn đề này,
không phải để đôi co với Trần Thanh Mại – người tôi cảm phục – mà chỉ để nói rằng, trên câu thơ mở đầu một
bài thơ được truyền tụng vẫn có đôi điều
cần thưa đi gửi lại.
Ngay từ Sao
khơi nguồn bài thơ đã là một từ ý nhị và tế nhị. Bình thường nó là từ nghi vấn.
Nhưng khi viết « Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung » thì Huy
Cận không hỏi ai điều gì.
Trong truyện Kiều,
Nguyễn Du dùng chữ sao 73 lần, có khi trong 4 câu liên tiếp : « khi
sao…, giờ sao… mặt sao… thân sao…», nhưng thường dùng trong chức năng biểu
cảm.
Từ sao đầu
bài thơ dào dạt nhiều tâm tình, chủ yếu là lòng chờ đợi, mà ta đã gặp trong những
bài thơ đầu tay của Hàn như trong Tình Quê :
…Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lóng nghe…
Hai khổ thơ sau
cũng cấu trúc trên thể nghi vấn, « thuyền ai… có chở… ai biết »,
nhưng không để hỏi, dù là tự hỏi, mà chỉ thể hiện lời đối thoại nội tâm, như
những vòng sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ. Những trầm tư hòa điệu kỷ niệm với ước
mơ, những tiếc nuối mông lung, nhớ nhung bàng bạc, những tình cảm không tên, có
khi đã man mác trôi qua hay chập chờn chưa hình thành. Những dự phóng, hồi
quang dang dở. So đo, đem từng câu thơ ra diễn giảng một cách duy lý là không
thể. Dịch ra tiếng nước ngoài cũng khó.
* *
*
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Thanh điệu làm nổi
bật chữ « về », dấu huyền, giữa câu, đáng lẽ phải là âm trắc
theo quy luật Gió theo lối gió, mây đường mây. Chữ « về »,
đắc địa và đắc ý, là một từ rất Huế. Người Việt dùng chữ về để diễn tả sự trở
lại : về nhà, về làng, về nước, về nguồn… ; người Huế, đi đến nhà
bạn, ở xa, cũng dùng chữ « về », thân ái, tâm tình. Mỗi tình
bạn là một quê hương, một đợi chờ, « một cõi đi về » như tên
bài hát người Huế Trịnh Công Sơn. Lại mang máng nhớ thêm : « Sao
em không về…Trong cơn đau vùi…Làm sao có nhau… ». Phạm Duy, không phải
người Huế, cũng viết Về Miền Trung, và đã tế nhị lập lại nhiều lần động
từ về trong nghĩa tâm tình đó. Mà về, thôn Vỹ xa xuôi, chỉ
để « nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên ».
Tiếng Việt phân
biệt nắng với mặt trời. Thấy nắng trước khi thấy mặt trời ; câu thơ diễn
tả niềm vui, có khi là hạnh phúc, khi bắt gặp tia nắng trên đọt cau, rồi mới ý
thức được ánh sáng ngoại giới, êm ả như cảnh Nắng trong vườn của Thạch
Lam. Nắng đẹp thường là nắng mới, và nắng sớm ; và đẹp nhờ thiên nhiên
phản chiếu. Cây cau đẹp vì thân mảnh mai cao vút, cắt những tàu lá nhọn rủ
xuống trên nền trời ; lá trúc cũng vậy. Tàu cau, cành trúc giúp ta
yêu một màu trời, nâng tầm nhìn và tầm suy nghĩ lên cao để yêu một khóm mây,
một làn gió, một tia nắng quái, một mảnh trăng non.
Người Huế, chính
xác hơn là người Vỹ Dạ, Bửu Ý đã có lời ca ngợi tàu cau trong bóng nắng chiều
thậm hay : « Ở làng quê, cây mau cao nên chiều mau xuống (…). Tàu cau
nhễu bớt bụi sáng xuống nụ tầm xuân. Chị ru em bằng tiếng hát bèo trôi »
.
Nắng mới lên
thoạt tiên trên những đọt cau có khi còn lóng lánh sương đêm, rồi mới xuống dần,
xuống dần, theo từng đốt thân cau, cao và thẳng đứng, xuống dần đến mảnh vườn xanh
như ngọc.
Vườn ai mướt quá…
Từ « ai »
đã từng gây hiểu lầm. Nó là từ phiếm định, không chỉ riêng vườn của một chủ
nhân nào cụ thể, mà có nghĩa là một mảnh vườn nào đó, của ai đó, như chữ ai
trong câu cuối tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh « đèn nhà
ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đang mờ
dần… ». Vì tính cách phiếm định đó mà trong các bản dịch ra tiếng Pháp
của nhà xuất bản Ngoại văn, Hà Nội (1975, tr. 438), hay Gallimard-Unesco, Paris
(1981, tr. 149), người dịch đã sử dụng số nhiều « les jardins », thậm
chí « mặt chữ điền » cũng số nhiều. Bản Peras và Vũ thị Bích,
Paris (2001, tr.161) dịch vườn ai thành « un jardin » cũng trong thể
phiếm chỉ.
Sở dĩ phải dài dòng
như vậy, vì gần đây, Nguyễn Bá Tín giải thích « vườn ai » là ám
chỉ vườn bà Kim Cúc, mà ông có đến viếng, khiến bà đã bất bình ; vì vườn
bà, không trồng cau, là loại cây « bình dân », « và cũng
không ai trồng cau ở Vỹ Dạ » .
Gần đây, người trong gia đình bà Kim Cúc cho tôi biết, khu vườn Hàn Mạc Tử đã
đến 1936, và nơi ông Tín đến, 1985, cùng thuộc Vỹ Dạ, là hai chốn khác nhau, và
bà không nói những câu ông Tín nêu lên.
* *
*
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Vườn. Ôi vườn xưa trong những bóng trưa ! Người xưa tượng trưng hạnh
phúc địa đàng trong một khu vườn. Tôi mường tượng là một khu vườn thôn Vỹ, đơn
sơ như lời tả của Bửu Ý, bạn tôi : bụi hóp sống chung với hàng chè tàu,
vườn trước thì nở tằn tiện một hai khóm hoa đủ làm vui mắt người đi đường.
Đã có người gọi đồng bằng sông Cửu Long là văn minh Miệt Vườn, cũng có người
gọi văn hóa Huế là văn hóa Vườn, mà Lê quý Đôn đã từng ca ngợi. Vườn ai mướt
quá… Âm hao mềm mại, óng ả, lưu luyến nhờ những nguyên âm đôi, làm nổi bật
chữ ai dịu dàng, tình tứ, rất Huế : ai ngồi ai câu, ai sầu ai
thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai mong… thuyền ai thấp thoáng trên sông.
Lá trúc che
ngang… Lá trúc ở đây, là rào dậu, phân định ranh giới
của vườn. Không rào dậu thì không thành vườn.Vườn là một địa phận môi giới,
giữa cõi trong và cõi ngoài, chưa phải là cõi riêng nhưng không còn là của
chung. Là trung gian giữa thiên nhiên và văn hóa. Là nhân loại chuyển mình từ
đời sống du mục sang đời sống định cư, là giấc mơ đoàn tụ giữa Chức Nữ với Ngưu
Lang, lời tình tự lứa đôi, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ…( Huy Cận). Là
hạnh phúc có khi đang thực tại, có khi trong ước mơ hay niềm tiếc nuối một
thiên đường đã mất. Thiên đường xanh những mối tình thơ dại, chẳng hạn, như
thơ Baudelaire, một trong những bậc thầy Hàn Mạc Tử.
Hãy trả lại cho Hàn
Mạc Tử hàng cau thôn Vỹ trong những vườn trăng: « ai nói
vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách
lạ đi giữa nguồn trong trẻo. »
Câu văn này, mở đầu
lời Tựa tập Thơ Điên, tình cờ thôi, như cô đọng cả bài thơ Thôn Vỹ, một
dòng suối tuôn ào ra khỏi tâm tư. Nó là một tâm cảnh, một thực thể duy nhất, cần
được nhìn và cảm nhận như một tổng hòa toàn bích, và cảm nhận bằng trực quan
thẩm mỹ.
Một tác phẩm nghệ
thuật, bản nhạc, bài thơ, bức tranh, là sáng tác của một cá nhân nghệ sĩ, trong
một khoảnh khắc, một địa phương nhất định, nhưng đồng thời nó cô đúc rung cảm
của nhân loại từ muôn nơi, muôn thuở. Câu thơ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Không khỏi gợi nhớ
một câu của Trương Nhược
Hư (đời Đường, đầu thế kỷ 8) trong Xuân giang hoa nguyệt dạ (Đêm hoa trăng trên sông xuân, nguyên là tên
một điệu hát xưa) :
Thùy gia kim dạ thiên chu tử
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu.
(Nhà ai đêm nay dong thuyền nhỏ
Chốn nào tương tư lầu sáng
trăng)
Không cần dịch khó
khăn, tôi bê nguyên si câu thơ Hàn Mạc Tử vào :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
(Trăng sáng lầu ai thương nhớ ai)
Xem đại ý, thậm chí lấy từng chữ ra mà so,
cũng không xê xích bao nhiêu. Mà cũng chưa chắc Hàn Mạc Tử đã biết Trương Nhược Hư. Nghệ thuật quả
là một thế giới đồng cảm kỳ diệu.
Thuyền ai đậu bến sông trăng…
Còn nhắc câu thơ
Tản Đà dịch Phong kiều dạ bạc của Trương Kế đời Đường :
Thuyền ai đậu bến Cô Tô…
Câu này thì Hàn
chắc biết.
Sau đó:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Là một câu thơ khó
hiểu. Ai mơ, chủ từ của động ngữ là gì ? Người dịch ra tiếng nước ngoài,
để tạo mạch lạc với câu tiếp theo, thường cho khách đường xa làm chủ từ.
Đây là một trong nhiều cách tiếp cận ; nhưng câu thơ có thể không duy lý,
mà chỉ là lời lẩm bẩm trong một giấc mơ thức tỉnh, và cả đoạn thơ chập chờn như
một giấc mơ, gợi nhớ đến bài Mon rêve familier (Giấc mơ thân thuộc) của
Verlaine, thậm chí bài Nắng mới của Lưu Trọng Lư « chập chờn
sống lại những ngày không », dĩ nhiên là nội dung khác biệt.
Khách đường xa có thể là hồi âm câu đầu sao không về, qua một không gian đã trùng
trùng xa cách.
Áo em trắng quá : trắng màu trinh nguyên, ngây thơ, vô nhiễm, linh hiện trong
giấc mơ vô tội. Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong… (Huy Cận) lung linh, huyền
huyền ảo ảo, mờ sương mờ khói.
Sương khói ở đây là thời gian xa cách, che lấp và bôi nhòe, tan biến. Như ý một
câu thơ cổ, trong Hoa Tiên :
đã sương đã khói đã vài năm nay. Nhân
ảnh là từ hán việt duy nhất trong bài thơ, một từ uyên bác trong cõi nôm na,
tạo thêm nét cổ kính, trang trọng cho một lời tâm sự đơn giản. Có lẽ tác giả đã
mượn ở Cung oán ngâm khúc một hình ảnh vô cùng hợp tình hợp cảnh : Ai
đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. Trong bài thơ thôn Vỹ, chữ nhân ảnh
có nghĩa là hình bóng người xưa, một chút nghĩa cũ càng đang mờ dần nhạt dần với thời gian. Nhưng
hiểu rộng ra, trong kinh Phật, nó còn diễn tả kiếp sống mong manh, có có không
không. Các cụ sẽ xem câu thơ đây là điềm dữ cho tác giả, một câu thơ
« trệ », báo hiệu việc không
may. Như cái chết sắp đến.
Hiểu như vậy là lìa
xa văn bản, nhưng xích gần lại định mệnh thảm khốc của nhà thơ.
Vì chỉ khoảng một
năm sau khi sáng tác Đây thôn Vỹ Giạ, Hàn Mạc Tử qua đời, đi vào Vườn
trăng Vĩnh viễn.
Đặng Tiến
Orleans,
21.2.2012
Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, tr.94. Nxb Tin, 1990, Paris
Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941,
nxb. Võ Doãn Mại, tái bản 1942, Sài Gòn.