Hiển thị các bài đăng có nhãn H. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn H. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

Nhát Sĩ Tô Hải - Nhật ký mở sau ngày bế mạc “Hội Nghị Cán Bộ Toàn Quốc của Đảng”

Nhát Sĩ Tô Hải - 

XIN LỖI! QUẦN CHÚNG ĐÂU CÓ NGU! 

TỪ ĐẠI HỘI TRUNG ƯƠNG 4
     Ngay từ khi bế mạc cái đại hội TW 4 của các ông ấy với cái nghị quyết về chỉnh đốn cái “số không nhỏ” đảng viên  của các ông ấy bị “suy thoái trầm trọng về tư tưởng, sa sút nghiêm trọng về đạo đức lối sống” đã có hàng vạn ý kiến của các đảng viên, quần chúng, các báo đài trong và ngoài nước phát đi những bài bình luận sâu sắc bầy tỏ không tin ở những gì các ông nói và chờ xem cái gì các ông ấy làm…

Ảnh: cdhanghaivn.org.vn

Riêng mình thì mình đã tỏ thái độ hoàn toàn không tin tưởng sau khi nghe bài diễn văn bế mạc của ông TBT nó nhẹ hều về biện pháp tiến hành, mà ở biện pháp “cốt lõi” được nhấn mạnh thì mình đếm  được tới 10 chữ “TỰ”!

Qua trải nghiệm  những lần “sửa sai sau cải cách ruộng đất chấn chỉnh tổ chức”, và “đổi mới lại như cũ” sau khi tịch thu mọi nhà máy, tư liệu sản xuất,  cửa hàng… thì “Chẳng chết một con ma nào ngoài chết dân thôi!” Nguyên do cũng chỉ vì các ông ấy cho phép “đóng cửa bảo nhau” và nếu có thí một vài con tốt thì nhiều lắm cũng chỉ là … “thôi giữ chức” hoặc “khiển trách phê bình”! 

         Và quả là đúng như thế !

       - Những vụ nước sôi lửa bỏng như vụ Đoàn văn Vươn mà nhiều bậc lão thành (“cộng sản bố” theo cách nói khá sáng tạo của chính ông TBT) khuyên: “hãy bắt đầu chỉnh Đảng từ ngay vụ Hải Phòng Tiên Lãng”  thì ngay tới Đại Hội Cán Bộ Toàn Quốc triển khai nghị quyết TW4, cũng không một ông nào dám hé môi nửa lời. Vậy thì làm sao? Thế nào? và bằng con đường nào các ông ấy dám chỉnh những cái đốn mạt to tổ đùng như vụ Vinashin, Vinalines, Currency, Vụ đất đai ở An Giang, Bình Phước, Đại Lộ Đông Tây…? 

       TẤT CẢ ĐỀU CHỈ LÀ: NÓI NHƯ RỒNG LEO LÀM THUA MÈO MỬA !

CHO ĐẾN ĐẠI HỘI CÁN BỘ TOÀN QUỐC 

    Với bài diễn văn mở màn đầy tự tin, tự tại, và tự… sướng, ngài TBT đã báo cho hơn 1000 đại biểu (chắc vẫn có cán bộ thành ủy Hải Phòng mà mình căng mắt tìm mãi không ra) là nghị quyết TW4 đã được “hàng trăm bài báo, hàng trăm bức thư, hàng nghìn ý kiến tâm huyết gửi về trung ương bầy tỏ tình cảm và sự tâm đắc, phấn khởi, kỳ vọng của mình…”

    Có lẽ bị cung cấp qua nhiều tài liệu bởi bộ phận giúp việc hoặc bị góp ý quá nhiều ý kiến nên TBT đã sa đà vào một rừng chữ nghĩa, danh từ, cụm từ mới để… đọc xong chẳng hiểu ngài định nói cái gì hoặc làm nội dung câu sau xổ toẹt nội dung câu trước. Đơn cử: 
   Ngài viện dẫn ra nhà triết học Ludwwig Andreas von Feuerbach với câu trích giời ơi “Người sống ở trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh” ra để giáo dục ai? nhằm mục đích gì?

Chỉ biết là khi ngài nói “Đa số đảng viên của ta là tốt vì nếu không tốt sao có ngày hôm nay” thì cái câu trên nó như mỉa mai cả cuộc đời thực tế đang diễn ra, mỉa mai cả  người  đúc kết ra nó trong hoàn cảnh đi hai chân giữa Marx va Hegel! Và, muốn hay không muốn, ngài đã tự mỉa mai chính mình!

Chả thế mà chính Marx đã tổng kết ngắn gọn về Feuerbach là: một nhà triết học mà “nửa dưới là vật chất, nửa trên là… duy tâm!” Chẳng hiểu câu này áp dụng có trúng với trường hợp TBT, người lãnh đạo cao nhất đầu tiên ở VN đã trích dẫn L. A. v. Feuerbach không biết?   

Liền sau đó, ngài lại ghép ngay mấy cái “tội” mới nhưng không có “danh” ai là… “sám hối”, trở cờ” (?) và ghép họ vào bọn “suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vì đã dám … “công khai bày tỏ ý kiến trái với cương lĩnh, điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc sinh hoạt Đảng …”
Vậy thì ai là người đã nghĩ và làm theo kiểu “ở lâu đài”? ai đã nghĩ và làm theo kiểu “ở nhà tranh”?
Cứ làm như những bọn ăn cắp, chiếm đoạt hàng tỷ đô-la, hàng ngàn mẫu ruộng không có nguy hiểm bằng cái bọn “sám hối”, “trở cờ”, “cơ hội chính trị bất mãn” bọn làm cho “cộng sản tự diệt công sản”, “cộng sản con diệt cộng sản bố” ấy! 

      Túm lại, nghe xong, đọc kỹ lại thì thấy toát ra mấy ý chính là:
       1- Đảng ta khẳng định “một tấc không đi, một ly không rời khỏi con đường XHCN mà hai ông tổ Mác-Lê-Nin đã vạch ra (dù  phải đi vòng vo, loanh quanh, nhưng “Tất yếu khách quan”…thế nào cũng đến!)…

       2- Mọi sự cần chỉnh trong đảng bây giờ là …TỰ TỰ TỰ!

Lấy phương châm phê bình và  tự phê bình để “tự nhìn lại mình”, “tự điều chỉnh mình” “tự  gột rửa những cái xấu” và tiến hành  thì… phải“lâu dài, bình tĩnh, khách quan, không nóng vội, làm từng bước vững chắc”, ”Không lợi dụng chỉnh đảng để đấu đá, hạ bệ nhau” !....

Nghĩa là phải giữ vững lập trường “hữu ái giai cấp” (giai cấp ở nhà lầu hay ở nhà tranh đây chưa rõ), “tự rửa mặt, đánh răng” cho sạch rồi tiếp tục lãnh đạo toàn dân tiến lên! 

      3- Cái bọn gây nguy cơ tồn vong cho Đảng và cho Đất Nước hiện nay chính là lũ “suy thoái về tư tưởng”, lũ “sám hối”, “trở cờ”, lũ “bất mãn cơ hội”, lũ “viết đơn, thư, tài liệu”,…lũ “trước khi còn giữ cương vị nói một đàng , nay thôi giữ chức nói  một nẻo”….   …” lợi dụng các diễn đàn, các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình”…

      Nghĩa là nhiều lũ không tên lắm đến nỗi những vụ đáng đưa ra “tiêm thuốc…bổ”, lần này bỗng tụt xuống hàng…không mấy quan trọng!

      Không những thế, chỉ thị của Bộ Chính Trị của các ông ấy còn khuyến khích “những trường hợp có vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích cực sửa chữa, khắc phục sẽ được xem xét, giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật!”(trích phần II mục 2.3)

     Túm lại: Sẽ y hệt thời kỳ Sửa Sai sau “Cải cách ruộng đất chấn chỉnh tổ chức”, hàng vạn mạng người chết oan, hàng ngàn đảng viên bị đuổi ra khỏi đảng do bị “tố láo” là “quốc dân đảng”, là “phản động” do có ý kiến khác với “Đoàn ủy”, với các ông “Đội cải cách đại lưu manh” nhưng cuối cùng…. chỉ có một mình Hồ Viết Thắng biến mất khỏi chính trường và Trường Chinh “xuống” làm… Tổng Bí Thư… Còn lại mọi tên cơ hội lưu manh nông thôn, mượn danh bần cố nông, những tên Đội, Đoàn Cải Cách vẫn tiếp tục sinh hoạt Đảng với những đồng chí “được” sửa sai…gây nên một mối nghi kỵ nhau, ai trung kiên? ai cơ hội? thậm chí thanh toán nhau ngay tại chi bộ,  mãi tới nhiều năm sau, ..khi cả một thế hệ đã qua đời, đoàn kết trong đảng vẫn chỉ là điều phải “chỉnh đi chỉnh lại quá nhiều lần tới mức không nhớ nổi”! (Trần Lâm)

VÀ VIỆC BAN HÀNH 19 ĐIỀU CẤM ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM !

     Phải nói ngay rằng toàn bộ 19 điều chỉ có 6 điều là “dành riêng” để có thể truy cứu hoặc đem ra phê và tự phê đảng viên mà thôi. Còn lại tất cả 13 điều đều có thể phạm vào, không một thì hai, điều luật hình sự của nước XHCN Việt Nam này!?

Trừ trường hợp các người soạn thảo ra 19 điều cấm kia cũng đã có ý khẳng định là “Chẳng có cái đứa quần chúng nào có điều kiện để phạm vào 13 điều còn lại!” Đơn giản chỉ là: mọi chức vụ để có thể phạm tội đều được giao cho mấy ông, bà, đảng viên từ thôn xã đến Trung Ương cả!

Ngay cái điều 19, nó được ra đời không phải không có lý do: Đảng viên, cơ quan T.Ư, bộ bị ban biếc... nay cúng kiếng quá trời, khuyến khích mê tín dị đoan, cho dân uống quá nhiều “thuốc độc” quá cỡ thợ mộc! (Lê Nin nói về tôn giáo)… Cho nên bổ xung thêm điều 19 chắc để dành riêng cho đảng viên là đúng lúc và cần thiết?

     Chẳng biết suốt mấy ngày 650 ý kiến của 40 tổ thảo luận, cán bộ phát biểu có gì hay ho, đột phá, mới mẻ (chắc bí mật quốc gia này khó có thể bị lộ) nhưng cán bộ không được triệu tập thì mấy hôm liền phát biểu, góp ý, phản biện, thậm chí chê bai thẳng thắn quá trời cả trên diễn đàn trong và ngoài nước, cả trên báo chí lề phải cũng như lề trái!

Thử nghe vài ý kiến nặng cân nhất:
      - “Vẫn duy ý chí, duy tâm, chủ quan trong các phương pháp chỉnh đốn Đảng” 
       - “Phớt lờ vai trò lịch sử của Nhân Dân”… 
       - “Cuộc đại Hội vừa qua như là một cuộc liên hoan nghệ thuật chỉnh đốn Đảng” (Phạm viết Đào) 
     Hoặc : 
       - Đảng như con cá ngúc ngoắc trong ao cạn! (Vũ Tú Nam):
     - “Thực trạng suy thoái trong Đảng đã nặng lắm rồi! như căn bệnh ung thư vậy!” (Lê Khả Phiêu)
        - Lòng tin của Nhân Dân vào Đảng lung lay từ lâu chứ đâu có phải hôm nay mới lung lay! Mất lòng tin vào Đảng, mất lòng tin vào đảng viên, chính đảng viên cũng không tin ở lãnh đạo (Trần Lâm).

     Và còn nhiều điều mà các đảng viên tiếp tục phạm vào các điều cấm chẳng coi những gì TBT  có một gram đe nẹt nào!

     Cụ thể hôm nay đây (3/3/2012) báo Tuổi Trẻ đăng chềnh ềnh cả một trang 3 một sự “lợi dụng diễn đàn” để “tán phát những luận điệu  phản đối đường lối chính sách của Đảng”.

Đó là sự phanh phui các báo  cáo láo khoét về kho tàng “dự trữ khoáng sản của nước VN, không hề được thế giới xếp vào loại giầu có”,nhưng đã được dựng đứng lên để tự sướng, tự hào, và tự do bán non, bằng những con số phóng đại bị sai số tới….80%! (Táo tợn thật!).

     Đó là sự phanh phui không e dè về cái giá được hưởng từ việc thi nhau bán tài nguyên đất nước của nhiều địa phương với cái giá từ 2 tỉ thăm dò, leo lên đến 30 tỉ đến khi được cấp giấy phép (!) qua đủ mọi kiểu “bôi trơn”! Vì thế mà Bình Thuận, một tỉnh nhỏ đã phóng tay cấp tới 200 giấy phép! 
Vậy mà, người dân Bình Thuận nghèo vẫn hoàn nghèo! Tiền vào túi ai? Câu trả lời được khẳng định: Những nhóm lợi ích! Chỉ có điều: Có thật là chỉ có “nhóm” ở địa phương hay là “cả một hệ thống lợi ích” thì không ai có thể và “dám” trả lời !?

      Dù sao cũng cảm ơn các vị Lại Hồng Thanh, Nguyễn Khắc Vinh, Phạm Quang Tú, Phạm Thành Sơn  ở trên cái “tọa độ chính trị” của các vị đã dám vạch trần cái sự Bộ Công Thương đã “dối trên lừa dưới” bằng con số trữ lượng “đất hiếm” rất là… hiếm! Con số thực chỉ là 1 triệu tấn đã được tạo thành con số 21 triệu ! (ghê quá, Bộ với Bị!)…

        Cuối cùng các vị này đã kiến nghị “ĐÌNH CHỈ NGAY XUẤT KHẨU KHOÁNG SẢN  “có tiềm năng đủ điều kiện để tổ chức khai  thác, chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài” mà đứng đầu các khoáng sản cần cấm chính là….BÔ-XIT, TITAN, ZIRCON, ĐẤT HIẾM, THAN…

     Mình chẳng biết mấy vị này có bị ràng buộc bởi 19 điều cấm? Họ là đảng viên hay là quần chúng?

  - Nếu là đảng viên thì… càng mừng vì các vị này tuy không công bố ồn ào nhưng chẳng  cần hướng dẫn tiến hành “phê và tự phê”, không thể chờ “làm dần dần, bình tĩnh, thận trọng…” đã tự tách mình ra khỏi nghị quyết của TW, để làm ngay tút xuỵt những điều trái với hàng loạt  điều cấm mà không sợ bị chụp mũ là “sám hối”, “trở cờ”! Và biết đâu, chính lúc này đây là lúc họ đang phải suy tính: Nên hay không nên tách khỏi cái số hơn 3 triệu con người đang bị quần chúng bỏ “chung một rọ” với cái lũ “không nhỏ” kia, mà trở về đứng vào hàng ngũ của hơn 80 triệu người Việt Nam, mà đa số chẳng có một chút gì đặc quyền, đặc lợi? Còn hơn là bị Đảng khai trừ thì quần chúng cũng chẳng thèm tiếp nhận họ nữa, dù họ có xin được làm quần chúng “có vấn đề” hạng… bét trong xã hội!

     - Nếu là ngoài Đảng thì càng chứng tỏ, hơn 80 triệu người Việt Nam ngoài Đảng của các ông đâu có ngu, đâu có sợ, đâu có hèn trước sự đe nẹt chỉ dành riêng cho “một số không nhỏ” của các ông  đã và đang phá hoại tanh bành đất nước này!

        Bình luận về cái sự “không hề ngu” của một “quần chúng già 86 tuổi” nhưng đã kinh qua sống và phấn đấu liên tục suốt từ ngày đầu cách mạng tháng 8 đến nay, chắc còn nhiều điều chưa đến nơi đến chốn. Mong được sự đóng góp, com-mèn thêm của triệu triệu quần chúng trong  nước và nước ngoài bổ xung!


Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Việt Hà - Liệu sẽ có một Ô Khảm ở Việt Nam?

Việt Hà, phóng viên RFA   


Vào ngày 1 tháng 2 vừa qua, những người dân làng Ô khảm thuộc tỉnh Quảng Đông, ở Trung Quốc lần đầu tiên háo hức tham gia vào cuộc bầu cử trực tiếp chọn ra những người lãnh đạo cho mình.


Dân làng Ô Khảm bỏ phiếu bầu chọn 7 thành viên vào Ủy Ban Nhân Dân
của làng hôm 01 tháng 02 năm 2012. - AFP PHOTO

Dân làng được bầu cử trực tiếp?

Đây là một trường hợp hiếm hoi xảy ra ở Trung Quốc nơi đảng cộng sản luôn cố gắng tìm mọi cách duy trì quyền lực của mình ở mọi cấp. Sự việc này làm người ta không khỏi nghĩ tới Việt Nam, nước anh em láng giềng của Trung Quốc, vốn cũng có chế độ cộng sản độc quyền tương tự. Liệu Việt Nam sẽ sớm theo bước người anh em Trung Quốc, cho phép các cuộc bầu cử trực tiếp như vậy ở cấp địa phương? Việt Hà có bài tường trình sau đây:
Sự việc hàng ngàn người dân làng Ô Khảm, tỉnh Quảng Đông nổi dậy phản đối hành động lấy đất và tham nhũng của chính quyền địa phương vào hồi cuối năm ngoái đã khiến cho rất nhiều người Việt quan tâm. Nhưng có lẽ điều khiến nhiều người quan tâm hơn nữa là những diễn biến gần đây liên quan đến việc chính phủ Trung Quốc nhượng bộ, cho phép người dân làng Ô Khảm được bầu cử trực tiếp, chọn lãnh đạo cho mình. Trong số những ứng cử viên có cả những người không phải là đảng viên đảng cộng sản.

So sánh này không phải không có căn cứ. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều do đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo, và những năm gần đây tình hình tranh chấp đất đai, tham nhũng ở địa phương đã khiến nhiều người dân chở nên bất bình. Cũng giống như Ô Khảm, tại Việt Nam, từ năm 1997 đã có vụ hàng ngàn nông dân Thái Bình biểu tình, nổi dậy, bắt giữ bí thư đảng ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân xã, công an, đòi xử lý cán bộ tham nhũng tiêu cực. Sự kiện kéo dài nhiều tuần đã khiến cho họat động của tổ chức, đảng và chính quyền ở địa phương bị tê liệt hoàn toàn.

Gần đây nhất là vụ lãnh đạo huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, cưỡng chế đất trái phép của gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn khiến người dân phải nổ súng chống cự. Sự kiện đã gây bức xúc trong dư luận suốt 2 tháng qua. Tiếp theo vụ Tiên Lãng, trong nhiều ngày nay, hàng trăm người dân ở Văn Giang, Hưng Yên và Dương Nội, Hà Đông đã tập trung về văn phòng quốc hội để yêu cầu các cấp trung ương phải giải quyết những khiếu kiện đất đai giữa người dân và giới chức địa phương kéo dài từ nhiều năm nay. Nhìn chung, những người dân tham gia các cuộc biểu tình, khiếu kiện đất đai tại trung ương đều phản đối những lãnh đạo ở địa phương, ở xã, huyện đã tham nhũng, câu kết, bè phái, thu hồi đất trái phép hoặc đền bù không thỏa đáng cho người dân. Điều này cho thấy một thực trạng là những lãnh đạo tại địa phương, các xã, các huyện, đã không thực sự làm tròn trách nhiệm là người đại diện cho dân.


Lực lượng cưỡng chế thu hồi đất nhà anh Vươn hôm 05/1/2012.
Photo courtesy of phapluat.vn

Nói về vụ Tiên Lãng, Hải Phòng, nguyên ủy viên thường vụ thường trực bộ chính trị Phạm Thế Duyệt nhận định trong trang blog của blogger Nguyễn Quang Vinh rằng ‘lãnh đạo Hải Phòng đã không đủ tầm, không đủ sức, và không đúng’.

Điều này đặt ra sự nghi ngờ về thực trạng bầu cử những lãnh đạo các xã, huyện ở Việt Nam. Thầy giáo Đỗ Việt Khoa, một người dân ở Hà Nội từng nhiều lần lên tiếng chống tham nhũng tại địa phương nhận xét:
“Qua 45 tuổi đầu, tôi chứng kiến bầu cử lãnh đạo ở Việt Nam thì tôi rất thất vọng, việc sắp xếp cán bộ của họ đều mang tính vụ lợi. Họ vẫn rêu rao là họ là đại diện của dân, họ vẫn bảo là họ là đầy tớ của dân nhưng những đầy tớ này kiểu gì thì chỉ có xứ sở Việt Nam mới có. Cá nhân tôi đã tìm cách gặp chủ tịch huyện hay ông bí thư huyện nhưng chả bao giờ gặp họ cả.”

Tự do ứng cử?

Từ trước đến nay, việc bầu chọn lãnh đạo hội đồng nhân dân địa phương đều do đảng chỉ đạo. Luật bầu cử hội đồng nhân dân năm 2003 của Việt Nam nói rõ tất cả mọi công dân Việt Nam không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng hay trình độ văn hóa, nghề nghiệp và đủ 21 tuổi trở lên thì đều có thể tham gia ứng cử. Cũng theo luật này, thì những người muốn ứng cử phải được ủy ban mặt trận tổ quốc chọn lọc và giới thiệu. Và đây chính là chỗ để đảng kiểm soát việc chọn lựa người lãnh đạo, nói như lời của ông Lê Hiếu Đằng, nguyên phó chủ tịch mặt trận tổ quốc Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh:
“Tất nhiên đảng lãnh đạo mặt trận tổ quốc, nên danh sách là phải được duyệt hết, đó là thực tế.”

Thầy giáo Đỗ Việt Khoa cho rằng việc sắp xếp này đã tạo điều kiện cho những lãnh đạo địa phương được đảng lựa chọn, có điều kiện tham nhũng, làm trái pháp luật.

“Họ sắp xếp, sự sắp xếp dẫn đến mua quan bán chức. Ông lãnh đạo ở trên thì sắp xếp cho vợ con, gia đình mình chiếm dần các chức vụ bất chấp sai phạm bao nhiêu. Hay trong bè đó có một số sai phạm thì họ bảo kê nhau, bảo kê tuyệt đối, dứt khoát, không chịu nhận lỗi, ví dụ như ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Cũng do tính bè phái như vậy mà mọi tố cáo tiêu cực đều rơi vào im lặng.”



Đại diện dân làng Ô Khảm phát biểu nhân cuộc biểu tình tố cáo
các viên chức địa phương trưng dụng đất của họ mà không đền bồi thỏa đáng,
ngày 21 tháng 12 năm 2011. AFP PHOTO.


Sự xuống cấp của đội ngũ lãnh đạo tại địa phương đã làm nảy sinh nhu cầu phải có bầu cử trực tiếp, nơi người dân tự ứng cử mà không qua sự chọn lựa của đảng, và các cử tri được quyền bầu chọn những người đại diện xứng đáng cho mình. Nguyên đại biểu quốc hội các khóa 11 và 12, Lê Văn Cuông nói:
“Tôi thấy vấn đề này trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết đối với chính quyền cơ sở. Cho nên chắc chắn sắp tới đảng, nhà nước và quốc hội cũng nghiên cứu để đưa vào quy định pháp luật vấn đề cử tri bầu trực tiếp chủ tịch xã để thứ nhất phát huy quyền dân chủ của người dân, thứ hai là đề cao trách nhiệm của người lãnh đạo với vấn đề quyền lợi, chế độ, chính sách, đảm bảo tất cả các mặt kinh tế xã hội của cơ sở với chính quyền, tạo điều kiện cho chính quyền gần dân, gắn bó với dân theo đúng quan điểm nhà nước của dân, do dân và vì dân.”

Đề án thí điểm bầu cử trực tiếp chủ tịch xã đã từng được chính phủ đưa ra từ khoảng năm 2008 nhưng đã không được thông qua tại quốc hội lúc đó. Bí thư thành ủy Đà nẵng gần đây cũng đã có đề xuất cho phép thí điểm bầu cử trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên cho đến giờ, tất cả những phương án này đều chưa được chấp nhận. Ông Lê Hiếu Đằng giải thích lý do:
“Có lẽ các vị lo là bầu trực tiếp như vậy thì đảng sẽ lãnh đạo như thế nào? Tôi nghĩ cái lo đó không chính đáng mà cái lo đó sẽ ngăn trở quyền làm chủ của người dân.”

Chuyên gia Đông Nam Á, Carl Thayer thuộc học viện quốc phòng Úc đã từng nói rằng đảng cộng sản Việt Nam luôn học theo rất tỉ mỉ những chính sách của các nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc. Liệu những dấu hiệu tiến bộ tại làng Ô Khảm, Trung Quốc gần đây và những diễn biến phức tạp về tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay có khiến chính phủ Việt Nam sớm phải xem xét lại đề án thí điểm bầu cử trực tiếp? Thầy giáo Đỗ Việt Khoa nhận xét:
“Không có đâu, ở Việt Nam có sự cấu kết chặt chẽ lắm, sự đàn áp cũng rất dữ dội, cho nên ở Việt Nam rất khó được như Ô Khảm của Trung Quốc vì tình hình dân trí còn thấp, mà lâu nay giáo dục của ta đã làm cho người ta hèn nhát rồi, nên không có chuyện như Ô Khảm đâu.”

Ông Lê Hiếu Đằng thì bày tỏ sự nghi ngờ về dấu hiệu dân chủ ở Ô Khảm vì cho rằng chính phủ độc đảng ở Trung Quốc sẽ không bao giờ chịu chia sẻ quyền lực. Việc cho phép bầu cử trực tiếp ở Ô Khảm chỉ là chiến thuật mà thôi. Tuy nhiên ông lại tin là người dân Việt Nam có thể tạo được áp lực cho những cuộc bầu cử tự do như vậy trong tương lai. Vấn đề chỉ còn chờ thời gian, bởi nếu không có thay đổi dân chủ từ địa phương thì rất có thể một Thái Bình thứ hai hay một Ô khảm của Việt Nam sẽ xảy ra. Và đến lúc đó tình hình sẽ không còn như Thái Bình 15 năm về trước.

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

Vũ Thụy Hoàng - Chọn Ðề Tài


Vũ Thụy Hoàng

Trước khi có ý định cầm bút viết, hẳn bạn đã định đề tài để viết, cũng như chủ đích để viết. Tức là bạn biết sẽ viết về vấn đề gì, viết để làm gì? Ðể gửi cho bạn bè? Ðể đăng báo? Hay để viết sách? Thường khi chọn đề tài, bạn cũng chọn ngay loại viết: giả tưởng hay không giả tưởng. Viết truyện ngắn, truyện dài để giải trí người đọc. Hay viết theo sự kiện, theo tài liệu, nghiên cứu nhằm cung cấp tin tức và hiểu biết cho người đọc. Hoặc phân tích, nhận định để bày tỏ ý kiến, phê bình.


Ðề tài mà bạn chọn lựa có thể được nhen nhúm trong đầu từ lâu, hoặc ám ảnh tâm trí làm bạn thao thức, khiến bạn hăm hở muốn viết. Ðề tài có thể thoáng hiện đến trong đầu như một ánh chớp, được bạn chụp lấy, suy nghĩ thêm, tìm tòi, nghiên cứu rồi khai triển ra. Ðề tài có thể nảy ra do óc sáng tạo của bạn, hoặc phát xuất tự trong lòng bạn, dựa trên một số sự việc xảy ra ở một hay nhiều chỗ khác nhau. Nhờ thu lượm và chắp nối nhiều mẩu chuyện vụn vặt, bạn có thể biến đổi để viết thành truyện mới.

Bạn có thể tìm thấy đề tài do trí nhớ hồi tưởng từ thuở xa xưa, hoặc do kinh nghiệm sống của bạn. Ðây là loại hồi ký, từ những cuộc tình lãng mạn hoặc sóng gió của cá nhân, cho tới những hoạt động sôi nổi ở chính trường, hay ngoài trận địa. Những vụ di tản vất vả, những cuộc vượt biển gian truân, những ngày chiến trận nguy hiểm, những ngỡ ngàng trong đời sống mới lạ ở nước ngoài, những cách nuôi dạy con cái, những lối giữ gìn sức khỏe, tập thể dục, nấu ăn, làm vườn, đều là những đề tài có thể khai thác.

Ðề tài còn đến do sự quan sát và tìm biết sự việc của bạn. Bạn có thể nghe người khác kể chuyện lại, thấy việc họ làm, nghe họ bày tỏ những xúc cảm, những nhận định và suy nghĩ của họ. Từ đó bạn tìm tòi thêm, xem có trường hợp nào tương tự, xem có thấy chiều hướng gia tăng và lan rộng trong những lớp người khác không? Ðây là lối nhà báo thường tìm đề tài để tường thuật sự việc, trình bày biến cố và viết phóng sự.
Tin tức nghe được của đài phát thanh, đài truyền hình, hay đọc báo hàng ngày, có thể giúp bạn nảy ra ý. Hoặc những câu chuyện với thân nhân, bạn bè, những thắc mắc hay quan tâm của họ cũng gợi ý cho bạn.
Tóm lại, đề tài để viết có rất nhiều ở quanh mình. Ðời sống con người trong một xã hội đa tạp thường xen lẫn nhiều thay đổi, rắc rối, thăng trầm với vui, buồn, sướng, khổ, an bình và gian nan, thành công và thất bại, nên có nhiều chuyện để kể, nhiều đề tài để viết. Quanh mình có nhiều chuyện xảy ra hàng ngày mà mình không để ý vì cho là tầm thường, nhưng nếu bạn tò mò một chút, để ý hỏi han, tìm hiểu, bạn có thể khám phá ra đó là chuyện hay, chuyện lạ.

Tò mò là một yếu tố quan trọng của người viết văn, nhất là viết báo. Vì tò mò muốn biết thêm, muốn tìm hiểu rõ hơn, muốn những thắc mắc được giải tỏa, những câu hỏi được trả lời, người viết mới đi thăm hỏi, sục sạo, truy lùng, tìm kiếm chất liệu và mới có đề tài, có chi tiết để viết. Người viết nên luôn luôn tỉnh táo, trông chừng những việc xảy ra quanh mình và trong xã hội. Hãy chú tâm đến những gì khác thường, những bất trắc, những trái khoáy mà mình chưa biết.

Nếu thấy điều gì khơi động tò mò mà bạn muốn biết, nhiều người khác hẳn cũng muốn biết. Chính tò mò là yếu tố quan trọng ràng buộc người viết với người đọc, theo James B. Stewart, từng là chủ biên trang nhất của báo Wall Street Journal và là tác giả quyển Follow The Story: How To Write Successfully Non-Fiction. Người viết vì tò mò mới đi lùng kiếm chất liệu. Ðề tài khích động óc tò mò của người đọc mới lôi cuốn được họ. Người đọc muốn biết để thỏa mãn tính tò mò của họ, để mở rộng kiến thức, và để có đề tài nói chuyện với bạn bè, với đồng nghiệp, với người khác. Nếu người đọc không vì tò mò thúc đẩy, họ không đọc, vì họ còn bận bịu nhiều chuyện khác trong cuộc sống thường ngày của họ.

Tiêu chuẩn chọn đề tài

Hay, lạ, chưa mấy ai biết, đó là những yếu tố để chọn đề tài. Những chuyện hay thường có những mới lạ, những khám phá bất ngờ, những tranh chấp sôi nổi, những chi tiết hấp dẫn, thích thú, cộng thêm những đối thoại ý nhị, vui cười.

Muốn biết đề tài bạn định viết có mới lạ không, cần xem đề tài đã có nhiều người viết chưa. Khi định chọn đề tài, bạn nên dành một ngày đến thư viện lớn ở trong vùng, lướt qua danh mục có liên hệ đến đề tài, để xem đã có những sách nào, tạp chí nào viết về vấn đề này. Xem đề tài được viết mới đây, hay viết lâu rồi. Bạn cũng có thể ghé qua những tiệm sách lớn, đảo một vòng xem có sách về loại bạn định viết không. Hoặc hỏi bạn bè trong giới viết văn, viết báo. Nếu chưa có sách báo nào viết về đề tài này, đó là dấu hiệu tốt để bạn khai thác. Toni Morrisson, tiểu thuyết gia được giải Nobel năm 1993, nói nếu có đề tài nào bạn muốn đọc mà không thấy có sách, đó là đề tài để bạn viết.

Nếu thấy có sách báo đã viết về đề tài bạn định chọn lựa, đừng lo. Ðề tài tuy giống nhau, bạn vẫn có thể viết được nếu viết khác, nhằm vào khía cạnh khác, chiều hướng khác, hoặc lớp người khác. Những yếu tố khác này làm truyện của mình càng thêm độc đáo. Truyện càng độc đáo càng được ưa thích vì ít có người viết. Truyện tình lứa đôi là một đề tài đã có biết bao sách báo viết qua bao thời đại mà vẫn có nhiều người say mê đọc, vì mỗi truyện mỗi khác, với những khía cạnh khác, hoàn cảnh khác, nhân vật khác. Chiến tranh Việt Nam cũng vậy. Ðã có biết bao sách báo viết về cuộc chiến, nhưng nhiều người vẫn có thể viết về đề tài này theo kinh nghiệm của mình, hoàn cảnh của mình và dưới cái nhìn của mình. Ðừng sợ khi thấy có sách báo viết rồi. “Ðiều bí mật của viết giỏi là viết lại điều cũ theo lối mới, hoặc viết điều mới theo lối cũ,” như lời của tiểu thuyết gia và nhà báo Richard Harding Davis (1864-1916.)

Có lạ, có hay, đề tài còn cần được người khác quan tâm. Mối quan tâm của người đọc thường khác biệt tùy theo tầng lớp xã hội, trình độ học vấn, xu hướng chính trị, tôn giáo. Khi chọn đề tài, bạn có thể thăm dò phản ứng của người đọc bằng cách nói chuyện với những người khác về đề tài định viết, xem có bao nhiêu người tỏ vẻ chú ý, bao nhiêu người thích thú, bao nhiêu người lơ là. Nếu đề tài được nhiều người lưu ý, bài viết mới có đông người đọc. Mỗi loại sách, báo đều cần có độc giả để trang trải chi phí biên tập, ấn loát và phân phối. Thị trường quá nhỏ thì không đủ trả sở phí.

Truyện càng có tính đại chúng, càng liên hệ đến con người, đến cuộc sống của các giới trong xã hội, càng dễ lôi kéo được độc giả. Những truyện về tình yêu, gia đình, những xúc động tình cảm như yêu, ghét, giận, hờn, vui, buồn, hoặc những cuộc phấn đấu, vật lộn, tranh chấp trong cuộc sống như đâm chém, giết chóc, thủ đoạn làm ăn, tranh dành quyền thế, vẫn là những đề tài dễ khai thác trong mọi thời đại. Truyện hư cấu để giải trí có thể thu hút độc giả thuộc nhiều giới, nhưng phải cạnh tranh với nhiều loại giải trí khác như phim ảnh, kịch trường, vô tuyến truyền hình, phát thanh, các bộ môn thể thao, những hoạt động ngoài trời... Còn những sách không hư cấu thường nhắm vào một số độc giả riêng biệt, những người quan tâm đến vấn đề mà họ muốn biết, muốn tìm hiểu. Vì vậy đề tài sách không hư cấu nên hạn định vào vấn đề riêng biệt, hoặc một khía cạnh thu hẹp. Xin nhớ đề tài nào cũng chỉ được một số người quan tâm. Không có đề tài hay bài viết nào được mọi người chú ý. Lại càng không bao giờ được hết mọi người ưa thích.

Muốn độc giả quan tâm đến đề tài, trước tiên bạn phải là người lưu tâm và thích thú với đề tài định viết. Có thích, bạn mới hăm hở, hăng say làm việc, tập trung tư tưởng, sưu tầm tài liệu và quyết chí hoàn thành tác phẩm. Nếu bạn cảm thấy lơ là, hờ hững với đề tài, bạn dễ rơi vào tình trạng viết cũng được, không viết cũng được, và rất có thể bạn không đi tới cùng mà bỏ cuộc giữa đường. Vậy khi chọn đề tài, bạn nên xem đề tài có gây hào hứng, thích thú đối với bạn không.

Thêm vào thích thú, bạn cần có kinh nghiệm hoặc hiểu biết chuyên môn về vấn đề định viết, nhất là với loại viết không giả tưởng. Chuyên môn không có nghĩa là bạn phải ở trong nghề, hoặc có bằng cấp về lãnh vực đó. Nếu có càng tốt, không có cũng chẳng sao. Ðiều quan trọng là bạn đã ở trong cuộc, đã trải qua những kinh nghiệm để biết vấn đề này, hoặc chú tâm nghiên cứu vấn đề. Có kinh nghiệm, hoặc có kiến thức hiểu biết về vấn đề, bạn mới dễ viết, mới trình bày rõ ràng và mạch lạc để độc giả hiểu. Chẳng hạn muốn viết về thể thao, bạn không cần phải là cầu thủ của đội bóng đá nổi tiếng, nhưng nếu bạn đã từng chơi đá bóng, hoặc hiểu biết về môn này, bạn có thể viết bài tường thuật về những trận giao đấu. Nếu bạn giỏi nấu ăn, bạn có thể viết sách về nấu nướng theo kinh nghiệm của bạn. Tương tự, bạn có thể viết về chiến tranh Việt Nam theo kinh nghiệm của chính mình là một quân nhân từng xông pha ngoài chiến trận, hoặc một thường dân trải qua những cảnh khói lửa của chiến tranh.

Chú trọng về một khía cạnh chuyên biệt, tức là nhìn vấn đề ở phạm vi thu hẹp, nhỏ bé thay vì rộng lớn. Tìm khía cạnh chuyên biệt dễ làm tác phẩm của bạn độc đáo, trong lúc viết những đề tài rộng lớn dễ bị trùng hợp với nhiều sách khác và phải cạnh tranh vất vả. Trong thí dụ về nấu ăn đề cập ở trên, thay vì dạy nấu ăn tổng quát, bạn có thể viết chuyên về nấu món ăn miền Nam, hay miền Trung, miền Bắc, hoặc riêng về những món nổi tiếng của một tỉnh. Về chiến tranh, bạn có thể viết về một trận đánh đặc biệt nào mà bạn tham dự, hoặc một trận chiến nào mà bạn thấy quan trọng, gay go, hấp dẫn. Chính vì biết khai thác những khía cạnh đặc biệt, biết đào sâu về một sự kiện nào đó mà báo chí vẫn có độc giả và vẫn tồn tại, dù những biến cố xảy ra đã được các đài phát thanh và truyền hình loan báo trước rồi.

Thời gian tính cũng là yếu tố cần cứu xét khi chọn đề tài. Có tin tức cần được loan báo mau lẹ, có bài viết hoặc truyện cần đưa cho độc giả đọc càng sớm càng tốt. Ðây là trường hợp những vấn đề thời sự nóng bỏng. Truyện mới xảy ra người ta thích đọc hơn. Chỉ những bài hoặc truyện không sợ mất thời gian tính mới có thể giữ chậm lại. Càng để lâu mà không có gì mới thêm vào, tính tò mò, háo hức của độc giả càng nguội dần, truyện mất hấp dẫn và bị những biến chuyển khác làm mai một đi.

Tóm lại, khi chọn lựa đề tài, bạn cần cứu xét các yếu tố sau:
    • mới lạ, độc đáo
    • được nhiều người quan tâm
    • đề tài được bạn ưa thích
    • bạn có kinh nghiệm hoặc hiểu biết về đề tài
    • hợp thời
Phân loại viết

Khi chọn đề tài, bạn thường định ngay ở trong đầu thể loại để viết, hư cấu hay không hư cấu. Tùy theo đề tài và thể loại định viết, bạn phỏng định được mức độ dài ngắn của bài, và trù tính bài gửi đăng ở nhật báo, tạp chí, hay biến thành sách. Có nhiều loại viết khác nhau:
Truyện là lối viết thông dụng nhất, kể chuyện của chính người viết hoặc của người khác. Truyện có thể kể theo thứ tự thời gian, theo diễn biến của những sự việc, nhưng không nhất thiết phải tuân thủ đúng theo thứ tự đó. Truyện có thể mở đầu bằng pha gay cấn, hấp dẫn nhất, xẩy ra ở phần sau, rồi quay trở lại kể tiếp từ đầu. Lối kể chuyện được dùng nhiều trong những tiểu thuyết, bằng cách chọn cốt truyện có nhân vật, có bối cảnh, có những màn diễn tiến, có đối thoại. Loại kể chuyện thường làm người đọc ưa thích vì dễ nhận, dễ hiểu và dễ nhớ.

Loại tường thuật: là loại viết thịnh hành của báo chí, tường thuật những sự việc xảy ra theo những gì quan sát, chứng kiến và nhận biết. Tai nạn xe cộ, thiên tai, bão lụt, chiến tranh...thường là những đề tài cho loại tường thuật.

Loại điều tra: là loại viết tìm tòi, sưu khảo kỹ lưỡng một vấn đề để đào sâu thêm chi tiết, hoặc tìm biết nguyên nhân sự việc xảy ra.

Loại phân tích, giải thích: là loại viết tìm cách giải đáp những thắc mắc khi đề tài nêu ra nhiều câu hỏi, nhiều nghi vấn. Có những sự việc xảy ra làm người đọc ngạc nhiên, khó tin, khó hiểu, với nhiều thắc mắc cần được giải đáp. Nằm trong trường hợp này là những tai nạn khả nghi, những vụ giết người bí hiểm, những vấn đề chính trị rắc rối, những thủ đoạn kinh doanh mờ ám...Loại viết này thường dựa vào những sự kiện để phân tích và giải đáp những thắc mắc nêu lên.

Loại tiểu sử: là truyện viết về cuộc đời hay một phần cuộc đời của một người, nhất là những người quen biết, nổi tiếng. Những ca sĩ, tài tử, lực sĩ, chính trị gia, viên chức trong chính quyền thường là đề tài cho sách tiểu sử, hồi ký, tự truyện, hoặc một bài báo sơ lược về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của họ. Những nhân vật này càng trở thành đề tài hấp dẫn, nếu có dính dáng đến những vấn đề thời sự.

Loại quan điểm: người viết bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình qua những bài viết để bênh vực hay phản đối một vấn đề.

Tuy có những loại viết phân biệt như trên, nhưng người viết có thể phối hợp nhiều loại viết khác nhau để trình bày vấn đề. Bài viết hoặc sách có thể phối hợp các loại kể chuyện, tường thuật, điều tra và tiểu sử. Sách báo thường hay phối hợp nhiều loại như vậy để hấp dẫn hơn, khỏi bị buồn tẻ.

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Nguyễn Mạnh Hùng - Ổn định nông thôn và dân chủ cơ sở

Nguyễn Mạnh Hùng   


procontra - Sai lầm cục bộ hay sai lầm hệ thống? Câu hỏi đó luôn đặt ra cho bất kì một hệ thống nào. Tác giả bài viết sau đây – GSTS Nguyễn Mạnh Hùng, Khoa Kinh tế, Đại học Laval, Canada – hướng cái nhìn vào việc thực thi dân chủ ở các cấp chính quyền địa phương, sau sự cố Tiên Lãng.


Làm sao nhích thêm một bước hướng đến mục tiêu ổn định đời sống ở nông thôn chao đảo nhiều nơi từ khá lâu. Mười lăm năm trước, GS Tương Lai giải trình biến động Thái Bình, năm năm sau đó ông đã kể10 cái nhất của nông dân, và đầu Xuân Nhâm Thìn, ông nhắc lời cụ Lê Quí Đôn rằng “phi nông bất ổn”. Với vụ cưỡng chế đất ở Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, được ông Đoàn Văn Vươn đối phó bằng súng hoa cải, tình trạng bất ổn tiềm ẩn khả năng bạo loạn lan rộng. Theo lời cụ Lê Hiền Đức, “thế thiên hành đạo”, vấn đề nông dân bị cướp đất, ức chế, bạo hành… trải từ Nam chí Bắc, và nói như ông cha ta, con giun xéo lắm cũng quằn. Xéo chân trên đất, nông dân oằn người, có kẻ đành chống cưỡng chế bằng cách tự thiêu như ông Nguyễn Văn Đương ở xã Đại Hưng, Khoái Châu, Hưng Yên.

Đọc tin đưa lên cộng đồng mạng như đã dẫn, ta thấy:
Trong vụ Tiên Lãng, chính quyền từ cấp xã trở lên (ít là đến huyện) thông đồng với nhau, làm không đúng luật, và từ 3, 4 năm nay cố tình cưỡng chiếm đất đai, tài sản một cá nhân đã gầy dựng. Chưa thấy khu vực tư pháp lên tiếng mạnh mồm, hẳn trong trường hợp chưa ngã ngũ, im lặng là vàng. Chỉ có Mặt trận Tổ quốc các cấp, tuy dè dặt, nhưng không kín miệng.

Trong vụ Hưng Yên, bất chấp chính quyền cơ sở (cấp xã), các cơ quan điều hành tư pháp (các Tòa án Nhân dân) từ cấp huyện đến cấp tỉnh đều làm lơ mọi dữ kiện, thực tế, và cứ thế cho phép cưỡng chế, hẳn cũng phải thông qua được sự đồng tình của chính quyền cấp huyện, tỉnh. Tự thiêu để phản kháng là hành động cuối cùng đến từ tuyệt vọng. Và chẳng có cái chết nào lại tích cực, và củng cố chính danh, cho toàn chế độ.

Mới đây, Chính phủ đã ban bố những hành xử đáng cổ vũ trong vụ việc hai anh em ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng. Thời gian tới, Quốc hội sẽ tiến hành những cải cách cần thiết của Luật Đất đai, vốn là đầu dây mối nhợ của những bất ổn ở nông thôn. Bất chấp luật pháp, những người cầm quyền cấp xã, cấp huyện thu hồi đất công để rồi giao lại, làm giầu trên mồ hôi nước mắt người dân có thể đi đến manh động khi bị dồn vào con đường cùng. Phải chăng thời ta đang sống là thời càn, vơ vét, xong là tháo chạy? Tháo chạy vì loạn, loạn to. Xã hội ta đã ngột ngạt trong cái bầu khán khí đầy nhũng nhiễu và bất cập, từ quản lý kinh tế vĩ mô tới vi mô, bị lấn đất mất biển, phải bán như cho không tài nguyên, đạo lý xã hội rệu rã, cướp đêm cướp ngày bất chấp pháp luật.

Dĩ nhiên, kiện toàn Luật Đất đai là cần nhưng chưa đủ. Về điều kiện đủ, những người trong chính quyền có trách vụ điều hành và quản lý việc làng việc xã còn phải có tinh thần thượng tôn pháp luật. Trong hiện trạng, dẫu mong ước, ta khó thấy điều này là khả thi và rộng khắp. Lý do thì nhiều, nhưng theo thiển ý, chủ yếu là vì chính quyền địa phương ở cấp cơ sở không phải là do dân. Chính vậy mà chính quyền đó không vì dân, và chắc chắn không phải là của dân, mà của Đảng. Vụ Tiên Lãng, ai cũng thấy loại cán bộ tham lam vơ vét dùng bạo quyền áp đảo người thấp cổ bé miệng đã gây tiếng xấu cho Đảng, và làm mất lòng tin của nhiều tầng lớp nhân dân.

Để tránh loạn, để ổn định đời sống nông thôn và yên lòng người, giải pháp căn bản và triệt để là trả lại làng xã chính quyền vì dân, của dân, và do dân. Thể thức tiến hành thiết lập chính quyền này chẳng có gì là lạ. Những cương vị chính quyền không nên chỉ Đảng cử, mà cho phép dân đề nghị, rồi dân bầu, dân giám sát một cách thực sự dân chủ. Có phải ta gọi thế là “dân chủ cơ sở” không nhỉ? Đừng để loạn Ô Khảm lây lan đến đất nước ta, hậu quả sẽ thật khó lường.
_________________
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng thường dùng bút danh Nam Dao trong các tác phẩm văn học. Xem trang Nam Dao trên Ăn mày Văn chươngtại đây.

© 2012 pro&contra

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Phạm Thị Hoài – Đừng lo cho Thái Nguyên


Phạm Thị Hoài  


Tính nghiêm trọng và quy mô của vụ Tiên Lãng, Hải Phòng, hẳn là chưa đạt mức của vụ Thái Bình 1997, nên tròn một tháng sau khi xảy ra sự việc, tất cả vẫn còn chờ cuộc họp chỉ đạo của Thủ tướng, đồng thời là đại biểu Quốc hội của Hải Phòng, dự kiến vào tuần tới.

Trong khi chờ chỉ đạo, mặc cho dư luận bùng nổ, báo Nhân dân và trang Thông tấn xã Việt Nam vẫn hoàn toàn im lặng về Tiên Lãng, dành chỗ cho tin về các hoạt động “Mừng Đảng, mừng Xuân”, chúc Tết, trồng cây, đi cày, tán chuyện cá Rồng, chính khách tiếp thi nhân, dâng hương, thắp hương, mừng sinh nhật, úy lạo cán bộ hưu trí… Những tờ báo hạt nhân cứng của hệ thống: Công an Nhân dân, Hà Nội Mới, Sài Gòn Giải phóng đều đồng im lặng về Tiên Lãng. Quân đội Nhân dân cũng thế, nhưng chỉ vì phải tập trung chống diễn biến và tự diễn biến hòa bình.

Thế nên tôi mới giật mình khi đọc giữa rừng tin vui và tin vui vui trên trang Thông tấn xã hàng tít “Thái Nguyên cần đẩy mạnh việc xây dựng Đảng”. Xây dựng Đảng là chiến lược toàn quốc gia, chỗ nào mà chẳng đẩy mạnh và đẩy mạnh hơn nữa, hà cớ gì chỉ riêng Thái Nguyên được chiếu cố? Ngôn ngữ chính trị phổ biến tại Việt Nam gần ba phần tư thế kỉ nay rèn cho người đọc một số kĩ năng rất hữu ích để sống còn trong một số tình huống đặc biệt, trong đó có kĩ năng đo nhiệt độ, dò mìn và tìm mộ giữa những con chữ. Giữa mùa chỉnh đốn, sau cái mệnh lệnh thức “cần đẩy mạnh” nói trên là đồng chí Thái Nguyên nào đây?

Đọc vào bài, tôi mới thấy mình lo thừa. Tuy ông Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Đảng – có “lưu ý tỉnh (Thái Nguyên) đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, nhưng ông cũng làm điều đó tại Hà Tĩnh chẳng hạn, chỉ có điều cái tít “Hà Tĩnh nâng cao hơn chất lượng xây dựng Đảng” không gợi nên tiếng rụng của đầu ai. Phương Nam vẫn yên tĩnh.

Cuối năm ngoái, một bản tin ngắn trên trang Thông tấn xã cho biết, Ủy ban Kiểm tra Trung ương vừa đề nghị Ban Bí thư “tăng hình thức kỉ luật từ cách hết các chức vụ trong Đảng lên khai trừ ra khỏi Đảng một trường hợp, giữ nguyên hình thức kỉ luật cảnh cáo hai trường hợp, giữ nguyên hình thức khai trừ ra khỏi Đảng một trường hợp”. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ vào cuộc ở những trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban bí thư. Bốn đảng viên bị đề nghị kỉ luật nêu trên phải là những người từng nắm các cương vị cao trong chính quyền. Họ là ai? Đã sai phạm gì? Công luận không được biết và không đặt câu hỏi. Họ không có tên tuổi. Họ có hình thù của những “trường hợp”. Chỉnh đốn trong Đảng có hình thù của những chiến dịch sương mù.
Gần hai năm trước, trong một sự kiện chấn động dư luận không kém vụ Tiên Lãng hôm nay, vụ án Sầm Đức Xương, ông Chủ tịch Hà Giang Nguyễn Trường Tô bị cách chức và xử lí kỉ luật Đảng vì “gây bất bình trong Đảng và xã hội do nếp sống buông thả, không lành mạnh”. Từ đó mọi nghi vấn và cáo buộc nghiêm trọng hơn câu chuyện nếp sống nằm im trong hồ sơ đã khép lại. Phương Nam vẫn yên tĩnh, như sau PMU 18 và Vinashin.
Ở vụ Thái Bình 1997, hơn hai tháng sau, khi mọi chuyện đã êm ắng, báo Nhân dân ra loạt phóng sự khép hồ sơ và định hướng dư luận. Một số quan chức cấp xã, huyện ở Thái Bình bị cách chức hoặc xử lí kỉ luật Đảng, tức khiển trách, cảnh cáo, cách chức nếu có chức vụ, hay cao nhất là khai trừ. Những người tổ chức vụ nông dân nổi dậy quy mô lớn nhất trong lịch sử của chế độ do công nông làm chủ ấy bị tuyên án lên đến 11 năm tù. Theo lời nhà văn Dương Thu Hương, chính quyền Việt Nam đã thực hiện một vụ Thiên An Môn trong bóng tối với những người tham gia. Kịch bản nào do Giáo sư Tương Lai đưa ra trong “Báo cáo sơ bộ về cuộc khảo sát xã hội học tại Thái Bình”, thực hiện theo chỉ thị của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ ba ngày sau khi nổ ra sự kiện, đã xảy ra?

Vài tuần nữa, khi một số quan chức cấp xã, huyện ở Hải Phòng có thể đã bị cách chức hay xử lí kỉ luật Đảng, ông Đoàn Văn Vươn và gia đình đã bị tuyên án đúng người đúng tội giết người, báo Nhân dân sẽ có phóng sự khép hồ sơ và định hướng dư luận. Một vài blogger nào đó sẽ tiếp tục dự báo Cách mạng Hoa cải từ tiếng súng Tiên Lãng, nhưng phương Nam sẽ lại hoàn toàn yên tĩnh.
Đừng lo cho Thái Nguyên.
© 2012 pro&contra


Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Hoàng Hưng - Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật

Hoàng Hưng
 
(Kỉ niệm 15 năm ngày mất của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí 20.6.1993 - 20.6.2008)

 

Tôi làm sơn mài từ khi nó mới có, nên tuổi của tôi cùng tuổi với sơn mài. Tôi sống với nó như cá sống với nước nên không biết mình sống nữa”. Đó là lời họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói với họa sĩ trẻ Nguyễn Xuân Việt, người mà ông nhận làm đệ tử vào những năm cuối đời. [1]

Đã 90 năm từ ngày cậu Trí ra đời trong một làng quê vùng đá ong Bắc Bộ (làng An Tràng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông). Giấy CMND của ông sau này ghi ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, nhưng ông Trí cùng mọi người thân đều khẳng định ông sinh năm 1908 (Kỷ Dậu). Không có tài liệu nói rõ về gia thế ông. Sinh thời ông Trí chỉ kể sơ với vợ con: cụ tổ Nguyễn Gia Phúc là người chuyên thêu y phục triều đình, đến đời ông thân sinh là Nguyễn Gia Cư còn làm công việc ấy. Chỉ riêng một việc: ba anh em ruột Nguyễn Gia Tường là giáo sư nổi tiếng của Collège Bưởi, Nguyễn Gia Trí học Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ngành hội hoạ (theo hoạ sĩ Hoàng Tích Chù [2]
thì ông Trí học Collège Bưởi rồi thi ngay vào CĐMT, bà Trí lại cho biết chồng mình có kể rằng ông đã theo học trường Y một thời gian rồi mới bỏ đi học vẽ), Nguyễn Gia Đức học CĐMT ngành Kiến trúc (và sau này trở thành một kiến trúc sư hàng đầu), cũng khiến ta hình dung được môi trường văn hoá gia đình rất thuận lợi cho một người đi vào con đường nghệ thuật.

Tài năng của Trí nhanh chóng nổi bật trong trường cùng với tính khí có phần ương bướng của ông. Vào trường năm 1928 nhưng ông bỏ học ở năm thứ hai. Theo HS Hoàng Tích Chù thì hiệu trưởng Victor Tardieu [3]
phục tài người sinh viên này nhưng không ưa anh, những lần có khách vào thăm trường, ông ta thường cố ý đứng che tranh của anh. Vậy mà mấy năm sau, chính ông lại là người chủ động gọi anh về học lại. Ông Trí kể: “Học đến năm thứ hai tôi không chịu được nhà trường nên bỏ. Sau vì có khoa sơn mài nên học lại. Giờ académique (vẽ hàn lâm) buổi sáng là một cực hình. Chỉ mong đến chiều để làm sơn mài.” Vậy là Nguyễn Gia Trí lại trở thành sinh viên khoá 7 Trường CĐMT Đông Dương (1931 - 1938). Và chính trong thời gian này, cùng với một số bạn đồng học, ông đã mở ra con đường đưa “sơn ta” của mỹ nghệ truyền thống trở thành “sơn mài” - chất liệu hội hoạ đặc sắc của Việt Nam.

Có nhiều giai thoại về tài năng của Nguyễn Gia Trí nắm bắt rất nhanh thực tại và thể hiện cái thần của nó trong vài nét bút. HS Hoàng Tích Chù hay kể về chuyến đi ký họa Chợ Bờ. Cả lớp đi từ sáng sớm, riêng Trí thì quá trưa mới tới, ngồi sau xe đạp một người bạn. Anh đảo một vòng rồi đi về. Ông thầy Inguimberty [4]
- người rất yêu quí Trí và Trí thường gọi là "Cụ I" - hỏi bài vẽ đâu, Trí rút trong túi áo ra một mảnh giấy: chỉ vài nét, cảnh Chợ Bờ hiện lên sinh động hơn tất cả các bức vẽ tỉ mỉ của những người khác. Sau này, người ta đón đợi hàng ngày những minh hoạ, hí họa kỳ tài của Nguyễn Gia Trí trên các báo Ngày Nay, Phong Hoá như "Ai mua rươi ra mua", hay chân dung Thống sứ Châtel... Những phác hoạ lá sen tàn sống động đến từng gân lá gãy, những dáng thiếu nữ "tân thời" uyển chuyển đầy gợi cảm... Tất cả đều ở trình độ bậc thầy về tả thực. Điều quí nhất là những hình họa tuyệt vời của Nguyễn Gia Trí sẽ trở thành "than cho Trí dùng quanh năm" như Inguimberty nói đùa [5] , tức là những tài liệu để ông bố cục các tác phẩm sơn mài. Trong những tác phẩm này, mặc dù được thể hiện cách điệu, những lá tre, cành tùng, bông sen, đôi bướm vờn, những dáng người đi, đứng, nằm... không những rất thực mà còn rất sống động trong vẻ tự nhiên tươi mưởi của những ký hoạ trực tiếp. Chính đó là yếu tố đầu tiên khiến cho sơn mài Nguyễn Gia Trí có tư cách hội hoạ nghệ thuật, thoát khỏi thân phận trang trí với các hình hoạ nhạt nhẽo vô hồn.

Song những sáng tạo của ông về chất liệu mới thực sự làm nên cuộc cách mạng sơn mài.

“Tranh không có đề tài. Đề tài chính là chất liệu sơn mài." Câu ấy ông Trí nói sau nửa thế kỷ sống với sơn mài. “Cái lý riêng" của sơn mài ông đã “ngộ" ngay từ buổi sơ duyên. Ông kể: “Khi đi học tôi làm phác thảo sơn mài một tuần không được. Ông thầy hỏi: Cảnh Hòn Gai đấy hả? Vì thấy trời đen đất đen. Lúc ấy tôi cũng tự hỏi: Sao ngói đỏ tường trắng mà trời đen đất đen? Và tôi chợt hiểu ra: Sơn mài có cái lý riêng của nó. Sơn mài khác hẳn sơn dầu.".

Thực tình, ông Trí còn phải trải qua những chiêm nghiệm trong lao động nghệ thuật mới thấm thía đến máu thịt cái chân lý ấy. Nên biết rằng tuy ông không vẽ nhiều sơn dầu, nhưng những tác phẩm chất liệu ấy của ông được đồng nghiệp đánh giá rất cao, và những kỹ năng sớm đạt tới đỉnh về bố cục, tạo không gian ba chiều... trong khi nghiên cứu sơn dầu đã đóng góp không nhỏ vào thành công của ông ở sơn mài.

Một tác giả người Pháp chuyên viết về mỹ thuật Việt Nam đương thời đã nhận xét: Nguyễn Gia Trí có một giai đoạn ngắn dường như cố gắng làm cho sắc độ của con người, cây cối, thú vật, quần áo trong tranh ông đạt được sự chân thực hoàn hảo. Nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ nỗ lực ấy để chỉ chú tâm vào các phương tiện của sơn mài. Và tác giả khẳng định, ý tưởng chủ chốt của Nguyễn Gia Trí: nâng sơn mài lên trình độ của sơn dầu không có nghĩa là vẽ tranh sơn dầu bằng chất liệu sơn mài. [6]


Sơn mài khác hẳn sơn dầu ở chỗ mặt tranh phẳng gần như tuyệt đối. “Con ruồi đậu trên vóc cũng làm vóc lún xuống" (Nguyễn Gia Trí). Không gian của nó lặn vào bên trong rất sâu, đó là “tính âm" của nó, cũng như các màu cơ bản vàng - son - đen (then) theo ông Trí là các màu “ngả về âm” - màu của không gian đình chùa cung điện xưa, và nhịp của nó là nhịp chậm - sơn mài hình thành từ từ qua từng công đọan vẽ, sơn, ủ, mài... Và chính những đặc điểm ấy tạo ra thách đố rất gay gắt đối với những ai đã học kỹ thuật sơn dầu, là thứ chất liệu đòi hỏi sự truyền cảm trực tiếp, bộc phát vào những “touche, tache” (nét, mảng) gồ ghề đầy “tính dương”.

Không riêng một mình Nguyễn Gia Trí đã phát triển bảng màu của sơn mài để nó đủ sức diễn tả thực tại phong phú trước mắt người hoạ sĩ, ông cũng không phải người duy nhất có ý thức dùng sắc độ để tạo nông sâu trên mặt phẳng sơn mài, nhưng ông là người đã đẩy những tìm tòi ấy đến mức tuyệt kỹ để trực truyền mọi cảm xúc, rung động mãnh liệt hay tinh tế đến mức “người với tranh là một không còn phân biệt" và mở ra thế giới rộng lớn qua “cánh cửa rất hẹp”, hẹp đến khe khắt của sơn mài.

Những lời bình luận sau đây của HS Tô Ngọc Vân giúp ta hình dung sức truyền cảm ma quái của “sơn ta” dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí: “Trên những màu hồng nhợt biến hoá, những sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành quí vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn như ta có thể yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét quệt mạnh đập tung, cào cấu"... “Trong những hình sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo, đắm say, nồng nàn còn run rẩy trong bóng tối hoà với máu, một sức sống còn bế tắc, một linh hồn kiên quyết, đam mê, đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ngoài ánh sáng." [7]


Trong các tuyệt kỹ của Nguyễn Gia Trí, nhiều hoạ sĩ sơn mài bái phục tài “luyện vỏ trứng”. Dưới tay ông, vỏ trứng từ một vật cứng trở thành mềm mại và tạo ra đủ sắc thái của màu và ánh sáng trắng. Lúc như một thứ men rạn cổ kính, lúc loé lên trên nền đen như được soi bằng những ánh đuốc đêm hoa đăng, lúc đông đặc như cẩm thạch, lúc kết tinh như kim cương, lúc mỏng mờ như trận mưa các giọt sữa, lúc rờn rợn bóng tối hư ảo trên tường rêu đêm Bồ Tùng Linh... Cho đến nay chưa ai học được bí quyết “mài bạt" vỏ trứng của ông. Đó cũng là một lý do người ta khẳng định không ai có thể làm giả một tác phẩm sơn mài Nguyễn Gia Trí.

Về cuối đời, ông có đôi lần bộc lộ với người đệ tử gần như duy nhất của mình phương châm xử lý vỏ trứng: “Mài đứt, phá hết các tướng cũ của vỏ trứng rồi nối lại. Luôn luôn phá hết các tướng hiện ra, phá tướng, không phải thêm tướng. Bớt nữa, bớt mãi, đứt nữa, đứt mãi để cho vỏ trứng có triển vọng đẹp còn lại."

Phương châm là thế, nhưng thực hiện thế nào đó là điều không thể dạy. Mài đến đâu thì ngừng, đến đâu thì đạt hiệu quả tối ưu, tất cả phụ thuộc cảm nhận tức thời của họa sĩ. Năng lực cảm nhận ấy là quyết định, vì Nguyễn Gia Trí tin rằng “chất liệu sơn mài có nhiều ngẫu nhiên", nó “hiện lên như thiên thành".

Niềm tin nói trên có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm tâm linh của ông về sáng tạo nghệ thuật: “Tìm tòi và sáng tạo với tất cả linh tính. Không phải sáng tạo bằng mắt, bằng tay, mà gần như người mù sờ soạng, mò mẫm trong đêm tối để tìm cái đẹp. Như người mẹ mang thai không thể bắt con mình là gái hay trai, đẹp hay xấu, mà cầu mong ở con người mình, ở chính phúc đức và chính thể chất của mình sẽ sinh ra đứa con lành lặn đẹp đẽ.”

Vì nguyên lý ấy, trong qui trình thực hiện một tấm sơn mài, ông Trí chỉ dùng thợ để lên kín các hình phác thảo của mình và mài phẳng, qua ba đợt, để rồi chính tay ông mài phá, xoá và sửa cả ba lần rồi mới làm lại lần cuối. Bà Trí [8]
kể: Có lần đêm rất khuya thấy ông ngồi trong bóng tối mài tranh, bà hỏi thấy gì mà mài, ông trả lời: “Tôi đâu có vẽ bằng mắt."

Hầu như không bao giờ Nguyễn Gia Trí thoả mãn với bức tranh. Tác phẩm nào ông cũng coi như một thử nghiệm, một "bài tập" để khám phá sơn mài. Đổ bao nhiêu vàng bạc vào tranh, ông không đắn đo, nhưng ông cũng không do dự phá bỏ hết để làm lại. Không chỉ một lần bà Trí phải đem giấu tranh đi để giao cho khách, nếu không ông vẫn đòi sửa tiếp. Có khi tranh bà đã giao đi một tuần rồi ông còn hỏi tranh đâu? Ông Trí nói: “Phải đi qua cái hỏng thì mới đến cái được. Ở chỗ mấp mé." Chỗ mấp mé là chỗ của nghệ thuật, giữa vụng và khéo, giữa đủ và thiếu, giữa xong và chưa xong. Đó cũng là chỗ của người thấm nhuần đạo âm dương, lẽ biến dịch của phương Đông.

Cái mốc đầu tiên đánh dấu việc sơn mài Việt Nam chính thức gia nhập nền hội hoạ là cuộc triển lãm năm 1938 do Trường CĐMT Đông Dương tổ chức. Đứng trước các tác phẩm của Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân đã tự hào khẳng định: Lối sơn ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Ở đó, ở tâm hồn người ấy ra, nó đã được nâng lên mỹ thuật thượng đẳng." [9]


Những năm sau đó là thời kỳ tìm tòi sáng tạo đầy sung mãn của Nguyễn Gia Trí để hoàn thiện kỹ thuật và phong cách riêng của mình. Ông lập xưởng vẽ riêng ở làng Thịnh Hào, Ngã Tư Sở (Một điều thú vị là những thợ mài của Nguyễn Gia Trí lúc ấy sau này đều nổi tiếng trong các ngành nghệ thuật: Kim Lân nhà văn, Nguyễn Trọng Hợp họa sĩ, Nguyễn Đăng Bảy nhà quay phim). 
Tranh Nguyễn Gia Trí (1940)
Tranh Nguyễn Gia Trí (1941)
Những năm 1940 Nguyễn Gia Trí là hoạ sĩ thành công nhất ở Việt Nam. Tác phẩm của ông được tính giá theo tấc và hầu như chỉ dân Tây thượng lưu có khả năng mua. Họ đặt tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo. Hai vợ chồng Công sứ Cresson xắn quần nhấc váy lội nước vào làng Thịnh Hào để lấy tranh. Họ gọi ông là “Génie Asiatique” (Thiên tài châu Á). Họ bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù khi ông bị bắt vì hoạt động chống Tây (Theo HS Hoàng Tích Chù thì ông Trí bị bắt quả tang chứa vũ khí trong xưởng vẽ, những vũ khí chính ông mua bằng tiền bán tranh cho Tây. Theo nhà báo Trần Phong Giao thì ông bị Tây bắt tới ba lần, lần cuối bị đưa vào Nam an trí ở Thủ Dầu Một. Song lúc này ta hãy tạm chưa nói đến Nguyễn Gia Trí nhà chính trị để tập trung nói về Nguyễn Gia Trí con người yêu nước trong nghệ thuật). [10]

Những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Gia Trí từ 1938 đến trước 1945 thường được nhắc đến là: "Chợ Bờ", "Bên Hồ Gươm", "Chùa Thầy", "Đèn Trung thu", "Đêm Bồ Tùng Linh"," Khoả thân", "Cảnh Thiên Thai" (đây là tấm tranh khổ lớn được Toàn quyền Đông Dương Decoux đặt làm sau khi ông Trí ra khỏi trại giam Vụ Bản năm 1943, một số tài liệu nói là hiện vẫn còn trong Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, song nhiều người theo dõi sát về mỹ thuật cho biết là sau 1954, khi ta tiếp quản thủ đô tranh ấy đã biến mất rồi), "Thiếu nữ bên hoa phù dung" (Sau 1954 tranh này thuộc tài sản của nhà sưu tập Đức Minh, một thời gian dài được Phủ Chủ tịch mượn để treo trong phòng khách của Hồ Chủ tịch, hiện nằm trong sưu tập của ông Bùi Quốc Chí, con trai ông Đức Minh đã quá cố, ở TPHCM), "Thiếu nữ trong vườn (tác phẩm cỡ lớn nhất trong cả đời sáng tác của Nguyễn Gia Trí, gồm 6 tấm, tổng cộng 12 m2, bán cho ông bà Drouin, Giám đốc Sở Điện Nước miền Bắc Đông Dương), "Thiếu nữ bên hồ sen", "Giáng sinh"...

Đề tài và tinh thần chủ đạo của các tác phẩm Nguyễn Gia Trí trong giai đoạn này, theo nhận xét của tạp chí
Indochine: [11] “Chúng dìu ta trên cánh mộng qua những truyền thuyết Việt Nam hay vào một không gian đẫm nhục cảm... Hoa, thiếu nữ và thơ, nhạc, ẩn chứa trong một chất liệu lơi lỏng một cách cố ý". Tác giả người Pháp còn cho rằng “những người đàn bà này (nhân vật của Nguyễn Gia Trí) gợi lên vẻ thanh lịch của một Watteau hoạ sĩ Pháp 1684 - 1721), sự nhẹ nhõm của một bức phác hoạ thế kỷ 18 của Pháp, những sức xuân thần kỳ của một Botticelli (hoạ sĩ Ý 1445 - 1510)".

"Thiếu nữ bên hồ sen" là tác phẩm khổ 1,2 m x 2,4 m, được làm vào khoảng năm 1940. Lúc ấy Nhật mới vào Việt Nam, một thời gian khó khăn về nguyên liệu, không có gỗ mít để làm vóc nên tấm tranh này chóng bị nứt. Nó đã vào Sài Gòn từ trước 1945, thuộc tài sản của ông Vũ Văn Hải (sau trở thành Đổng lý Văn phòng của ông Ngô Đình Diệm), và được đích thân HS Nguyễn Gia Trí sữa chữa vào năm 1963 (ông có ký tên xác nhận việc ấy ngay trên tranh). Sau 1975, vợ chồng hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc
vét hết tiền mặt và bán chiếc xe Honda PC, tài sản duy nhất có giá trị trong nhà, để mua lại bức tranh này (tức là tổng cộng khoảng vài chỉ vàng). Tiếc rằng mấy chỗ nứt không khắc phục được, song mặt tranh vẫn giữ được màu sắc và nguyên vẹn các hoạ hình thể hiện tài năng đang hồi sung sức của Nguyễn Gia Trí.

Tác phẩm là minh chứng rõ rệt tinh thần cân bằng, hài hoà mà ông Trí vẫn chủ trương: “Nghệ thuật là sự thăng bằng. Tình cảm thăng bằng, bố cục thăng bằng.”

Trên cái nền sương khói tạo bởi “teng” bạc (bạc oxy hoá qua thời gian, một thứ “thiên thành” như đồ cổ lên nước) hiện lên từng lớp cây lá nhiều vẻ - trong đó những chiếc lá sen tàn được thể hiện thần tình, mỏng tang với những gân mảnh tinh tế đến khó tin. Sau cành lá thưa, một tốp người nữ bố cục thành một nửa vòng: ở tiền diện bên trái là một thiếu phụ tay vịn cành, lả mình để tay kia vươn hái một bông sen, phía bên phải tranh, hơi lui vào là một thiếu phụ ngồi chống một chân, tay cầm quạt, cả hai đều có vẻ mặt và tư thế thanh lịch và thư thái, đàng sau người cầm quạt là hai chị em gái nhỏ tuổi chạy chơi. Tốp này làm thành một vòng tĩnh và nửa động phía ngoài để rồi trung tâm bức tranh cuốn người xem vào ba cô thiếu nữ uyển chuyển ở ba vị trí tạo ra cảm giác xoay vòng ngây ngất: cô thứ nhất ngoảnh 2 phần 3 ra phía trước, cô thứ hai quay nghiêng nửa người và cô thứ ba gần như hoàn thành vòng xoay với gần hết phía sau quay ra ngoài, phần mông nảy tròn và đuôi tóc dài hất lên. Ba cô gái được tôn hẳn lên trên nền đen sâu thẳm của không gian trống - trời và nước. [12]


Những yếu tố căn bản của sơn mài Nguyễn Gia Trí đã thấy rõ trong tác phẩm này: Sự tôn vinh vẻ đẹp hài hoà tinh thần với nhục thể của các thiếu nữ "tân thời" áo dài thon thả phơi phới giữa thiên nhiên dào dạt - đặc biệt vòng “rondo ba cô gái" sẽ trở thành mô-típ tiêu biểu của các bố cục “phụ nữ trong vườn” theo đuổi ông cho đến hết cuộc đời. Một chi tiết nên biết: nguyên mẫu thiếu phụ cầm quạt trong tranh là “Cô Sáu” cũng chính là người mẫu cho HS Tô Ngọc Vân vẽ bức "Thiếu nữ bên hoa Lys". (Không biết cô có quan hệ gì hơn nữa với HS Nguyễn Gia Trí hay không, nhưng HS Hoàng Tích Chù lúc vui chuyện có kể rằng bà mẹ của ông Trí rất nghiêm, một hôm bà bất thần đến xưởng vẽ của con trai, ông Trí cuống quýt giấu cô mẫu của mình vào phòng tắm). Bố cục không gian “hình cầu" chứ không phải không gian dẹp quen thuộc của sơn mài “trước Trí". Kỹ thuật dùng sắc độ, tương quan để diễn tả ánh sáng lung linh trên áo và chất vải, lụa, nhung, diễn tả không khí, không gian nhiều tầng ở đây đã rất điêu luyện. Riêng vỏ trứng thì bức này đang trong bước thử nghiệm, nhưng đã khá mềm mại để tạo màu trắng của mặt, tay người và hoa văn trên áo.

Một tác phẩm độc đáo của ông có đề tài Kitô giáo là bức "Giáng sinh" thực hiện năm 1941 do một “bà đầm" đặt để tặng dòng tu Đa Minh. Bức tranh ba tấm có kích thước tổng cộng 1,3 m x 2, 37 m. Điểm độc đáo nhất của tranh này là Nguyễn Gia Trí đã Việt hoá hoàn toàn quang cảnh và các nhân vật trong
Kinh Thánh. Ba vị thiên thần đứng trên mây là ba cô “tân thời" duyên dáng trong tà áo dài màu lam, lục và trắng - một trong ba cô gảy đàn tì bà! Ông Giuse và Đức Mẹ là hai ông bà nhà quê áo sồi quần gụ. Ba người trong bóng tối góc bên phải đầy tính biểu hiện: ba trạng thái tinh thần của chúng sinh - người thành kính hướng về Chúa Hài đồng là kẻ đã có niềm tin, người thản nhiên nhìn ra ngoài là kẻ bàng quan, người nằm nghiêng gối đầu trên cánh tay say ngủ là kẻ còn chìm đắm trong u mê. Và thay cho máng cỏ chuồng lừa hang đá, ở đây là cái chuồng trâu với một con trâu trắng!

Về mặt nghệ thuật, đáng chú ý là việc sử dụng vàng để tạo ánh sáng huy hoàng, và việc sử dụng màu xanh lam và lục trong sơn mài (đây có thể là một trong những sơn mài đầu tiên bổ sung gam màu xanh vào bảng màu vàng son đen truyền thống).

Tác phẩm này đã chịu kiếp lưu lạc cùng thời cuộc: Năm 1954, trước khi Hà Nội về tay chính phủ kháng chiến, Tu viện Teresa đã đưa nó qua nhà dòng chính quốc ở Lyon. Các vị tu sĩ ở Couvent Le Corbusier chắc là không hiểu giá trị của tấm tranh nên để nó dưới sàn phòng nguyện, quay mặt sau ra làm... bảng viết. Năm 1955, Linh mục Pineau của dòng Đa Minh được cử sang Sài Gòn, biết việc ấy đã xin đưa tấm tranh trở lại Việt Nam. Đến cuối 1959 đầu 1960 mới đưa được về Sài Gòn, và từ đó nó nằm ở Nhà nguyện Dòng Mai Khôi đường Tú Xương cho đến nay. Năm 1990, theo yêu cầu của nhà tu, HS Nguyễn Gia Trí đã cho đệ tử là Nguyễn Xuân Việt gia cố góc trái tấm tranh bị bong do để ẩm. Linh mục Thiện Cẩm, bề trên dòng Mai Khôi, người cung cấp cho tôi lịch sử tấm tranh này, cho biết: trước đây có một vị Khâm sứ Toà thánh Vatican ngỏ ý muốn mua tác phẩm độc đáo này, ông sẵn sàng chịu giá 1 triệu đồng (tiền Sài Gòn cũ).

Giai đoạn thứ hai của sự nghiệp Nguyễn Gia Trí kéo dài gần 40 năm sau của đời ông gắn bó với Sài Gòn - TPHCM kể từ năm 1954 đến khi ông qua đời (20/6/1993), song chủ yếu 20 năm 1954 - 1975 là thời kỳ ông có điều kiện thuận lợi nhất để hoàn thiện nghệ thuật sơn mài.

Những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Gia Trí sau 1954: Bộ lịch sử Việt Nam gồm các bức "Địa linh hoán tượng", "Hai Bà Trưng", "Trận Bạch Đằng" (cùng với hai tranh khác do ông Ngô Đình Diệm đặt với “tiền riêng” hơn một triệu đồng vào những năm 1957 - 1958), "Ba Vua" (1960), bộ tranh cho Thư viện Quốc gia gồm ba bức "Hoài niệm xứ Bắc", "Trừu tượng", "Múa dưới trăng" (1968 - 1969), "Vườn xuân" (1970)... và tác phẩm cuối cùng "Vườn xuân Trung Nam Bắc" thực hiện kéo dài trong nhiều năm.

"Ba Vua" là tấm tranh về đề tài Giáng sinh thứ hai của Nguyễn Gia Trí, thoạt tiên thực hiện theo com-măng của ông Diệm làm quà tặng La Mã, nhưng khó chịu vì những “góp ý" của con người quyền thế kia, hoạ sĩ đã thoái thác không giao tranh nữa và... tặng không cho một người bạn vong niên là một bác sĩ (có tài liệu nói người được cho tranh là một nhà văn trẻ, sau đó bức tranh mới về tay ông bác sĩ). Năm 1975, chủ nhân qua Pháp, mang theo bức tranh, nhưng rồi không hiểu vì lý do gì lại gửi nó về cho gia đình ở trong nước. Năm 1996, gia đình ông bán bức tranh, người mua được là một nhà sưu tập có tiếng ở TP HCM.

Tuy chỉ có khuôn khổ khiêm tốn (70 cm x 100 cm), nhưng tác phẩm này là một đỉnh cao toàn diện của tài năng Nguyễn Gia Trí. Một bảng màu cực kỳ phong phú (có người tỉ mẩn đếm được 22 sắc độ) vừa nghiêm trầm với các gam màu rượu chát - củ dền, vừa lộng lẫy với ánh sáng vàng và vỏ trứng, quí giá với màu xanh ngọc, bức tranh có hiệu quả như tấm tranh kính nhà thờ trong ánh hoàng hôn. Tài nghệ dùng sắc độ để diễn tả những nếp mềm mại, những biến đổi ánh sáng trên các tấm áo choàng, đặc biệt là tài xử lý vỏ trứng ở đây đã đến chỗ cực kỳ tinh tế. Cùng một mảng lớn, nhưng vỏ trứng được mài nông sâu uyển chuyển, có khi như trong suốt, để lớp màu nền bên dưới ánh lên khác nhau khiến các vật thể lung linh sống động, và nhất là tạo được sự biểu cảm của các gương mặt như trong những tranh Phục hưng.

Khi nhận làm ba tác phẩm để đặt trong Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM), HS Nguyễn Gia Trí quyết định coi đây là dịp để tổng kết các khả năng của sơn mài cho các thế hệ sau học hỏi về kỹ thuật để tiếp tục phát triển.

Bức "Hoài niệm xứ Bắc" cố tình làm theo phong cách trang trí truyền thống với bốn màu tĩnh tại và chắc chắn: son vàng đen trắng, phối hợp hàng loạt họa tiết vuông thành sắc cạnh thể hiện những sinh hoạt và vật thể văn hoá cổ truyền Việt Nam: ở trung tâm là cảnh hội hè đình chùa, bên trên là cảnh Đền Ngọc Sơn, Ô Quan Chưởng, Văn Miếu, Chùa Một Cột, khung viền xung quanh là các hoạ tiết cầm kỳ thi hoạ, bánh chưng bánh dày, lan tùng cúc thủy tiên, tam đa, trà thuốc lào, hạc rùa ngựa lọng... cùng với mấy câu thơ chữ Nôm “Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non" ("Thề non nước” của Tản Đà).

Bức "Múa dưới trăng" vẫn tiếp tục đề tài thiếu nữ trong vũ điệu mê li và ánh sáng lung linh, có những mảng họa sĩ giát vàng rất mỏng lên trên vỏ trứng để tạo ánh sáng trăng vừa lộng lẫy vừa thanh cao.

Song đáng lưu ý nhất là bức "Trừu tượng". Thể loại trừu tượng ông đã thực nghiệm từ những năm đầu tiên của sự nghiệp mình. HS Hoàng Tích Chù thường nói về một tấm vóc thử màu của ông Trí, được các đồng nghiệp khen là một “trừu tượng đẹp", ông bèn đặt tên là “Bouillabaisse” (Món xúp thập cẩm) và có người mua liền. Sau 1954, ông cũng vẽ một số tranh trừu tượng và nửa trừu tượng, trong đó có bức vẽ cho ông Diệm để làm quà cưới Thái tử Nhật. Nhiều mảng trong các bức tranh có hình của ông nếu tách riêng ra cũng có thể coi như tranh trừu tượng. Ông từng nói, bản thân sơn mài giàu tính trừu tượng: “Bắt đầu vẽ sơn mài là đã vẽ trừu tượng rồi". Lại nói: “Tranh trừu tượng là gần tâm hơn cả vì nó tự do không bị trói buộc". Nhưng ông cũng chỉ ra cái khó của thể loại này: “Tranh trừu tượng như nhốt một đàn thú chung một chuồng. Các hình, nét, màu sắc, chất... thiên sai vạn biệt, chỉ tâm ‘từ’ mới hoà hợp chúng thành nhất phiến."

Bức trừu tượng ở thư viện là bức lớn nhất (1,2 m x 2,4 m) và tiêu biểu nhất. Người ta nhận thấy trước nhất là sự phong phú của nó: Đây là một tập hợp hài hoà của nhiều bức trừu tượng, thống nhất thành một tác phẩm. Các tầng tranh cũng biến đổi, và lượng màu cơ bản rất ít (đều là màu truyền thống) nhưng biến chuyển nhiều sắc độ, có thể theo dõi sự chuyển ấy ngay trên một đoạn nét rất mảnh cũng như trên toàn bộ màu nền. Ở đây nét bút tung hoành phóng khoáng tự do của Nguyễn Gia Trí khiến ta tưởng chúng chạy một hơi trực tiếp theo cơn tùy hứng của tác giả như một “action painting” (hội hoạ động tác) của Jackson Pollock chứ không thể là sự thực hiện qua nhiều công đoạn nguội của sơn mài. Những nét bút mềm mại thoải mái như nét bút lông, mảnh tinh như thoáng mực nho nhưng lại có độ sâu và sự bền chắc chỉ có được ở sơn mài.

Đề tài “Thiếu nữ trong vườn" được Nguyễn Gia Trí thâm canh ngày càng hoàn thiện. Đến bức "Vườn xuân" năm 1970 (năm ấy là năm Tuất, ông Trí có vẽ lẩn trong đám lá hình một con chó) thì đã như trăng đến rằm. Mọi thành tựu kỹ thuật trước đó đều được phát huy hết mức, đặc biệt là thủ pháp để lộ nền son trong những hình người khiến các nhân vật nhẹ lâng lâng như tan được. Việc xử lý vỏ trứng ở đây có những sáng tạo mới: vỏ trứng nhoè mờ, ẩn hiện như thủy mặc, mềm như lụa, ánh vàng kim chiếu ra từ bên trong, từ những kẽ vỏ trứng như một ánh sáng nội tại huy hoàng, và các nét tinh tế màu đen chạy trên mặt vỏ trứng khiến ta nhìn thấy được những đường gió cuốn tà áo dài thiếu nữ. Vẫn là mô-típ ba cô, nhưng có thể thấy sự khác biệt với ba cô tiền chiến ở vẻ mông lung hư ảo nhiều hơn, phần hồn át hẳn phần xác, nhịp chân tíu tít, bước chân tung tẩy như không chạm đất, sự trong trắng phát sáng từ bên trong. Các cô đã rời cõi thế lên tiên giới. Trong khi đó, các nhân vật nữ ở tiền diện thể hiện ý tưởng ba miền Bắc Trung Nam: thiếu phụ mặc áo dài kiểu cổ đánh đàn tỳ bà là người Trung, thiếu phụ người Bắc nằm như trong các tranh tiền chiến (vẫn là nhân vật trong hoài niệm của tác giả sống xa quê hương), bà già Nam bộ đội khăn vẻ mặt ưu tư và cô gái Sài Gòn hồn nhiên trong áo dài lửng cổ Lệ Xuân.

Bức "Vườn xuân" khổ 1,2 m x 1,8 m nói trên là sáng tác theo yêu cầu của một người bạn của họa sĩ, bác sĩ Phạm Văn Hải, ông này muốn có “một tác phẩm để đời" của Nguyễn Gia Trí. Năm 1975, bác sĩ di tản, bức tranh trong nhà ông đã được một vị tướng của chế độ mới bán rẻ như biếu không, người may mắn mua được là hoạ sĩ sơn mài Nguyễn Thanh Liêm. Chính từ cái duyên này, Nguyễn Thanh Liêm đã kết thân được với gia đình lão hoạ sĩ để rồi làm mai cho TPHCM mua tác phẩm lớn cuối cùng của ông với giá 600 triệu đồng vào năm 1991 (tương đương 100.000 đôla), một kỷ lục về giá tranh ở Việt Nam từ trước đến nay. Gần đây chủ nhân cũ của bức "Vườn xuân" 1970 về nước, ông có tìm đến thăm lại báu vật xưa. Ông ngồi thẫn thờ hồi lâu nhưng rồi tự an ủi: “Dù sao tôi cũng vui vì cứ ngỡ cộng sản đã chặt nát mất rồi".

Có thể nói tâm tư về sự thống nhất đất nước thể hiện trong bức tranh trên là nỗi ám ảnh sâu xa nhất trong những năm cuối đời HS Nguyễn Gia Trí. Ngay sau bức "Vườn xuân", ông đã cùng bác sĩ Tín (người sản xuất dầu gió khuynh diệp nổi tiếng ở miền Nam) nhất trí về bức tranh cỡ lớn với đề tài này, bức “Vườn xuân Trung Nam Bắc" [13]
. Bức tranh 9 tấm kích thước tổng cộng 2 m x 5,4 m - bức lớn nhất còn lại của Nguyễn Gia Trí - mà ông làm cho bác sĩ Tín được tiến hành từ đầu những năm 70.

Sau 1975, người đặt tranh đã di tản, trong điều kiện khó khăn của TPHCM một thời kỳ dài, họa sĩ vẫn quyết hoàn thành tác phẩm lớn mà ông biết sẽ là cuối cùng của đời mình. Để nuôi sống gia đình một cách khiêm nhường và đầu tư cho tác phẩm này, ông phải làm những tranh nhỏ để khách mang “chui" ra nước ngoài (vì tranh Nguyễn Gia Trí đã nằm trong danh mục “văn hoá phẩm quí cấm xuất khẩu"). Vậy mà lúc tranh đang làm dở, có người trả 14 lượng vàng ông không chịu bán. Mãi cho đến năm 1990, khi UBND TPHCM quyết định mua tác phẩm, nó vẫn chưa hoàn chỉnh như ý đồ của hoạ sĩ. Một phần vì khó khăn về nguyên liệu (bà Trí phải bán dần vóc và son để mua từng thếp vàng cho tranh). Phần quan trọng là vì hoạ sĩ bắt đầu lâm bệnh: trận tai biến mạch máu não đầu tiên xảy ra vào năm 1988, sau đó còn hai lần nữa trước khi ông qua đời. Do đó khâu làm vàng mặt tranh ông phải giao phó cho học trò là Nguyễn Xuân Việt. 
Nguyễn Gia Trí: "Vườn xuân Trung Nam Bắc"
Tác phẩm "Vườn xuân Trung Nam Bắc" tổng hợp mọi thành tựu trong nửa thế kỷ tìm tòi sáng tạo về sơn mài của Nguyễn Gia Trí với những yếu tố của đề tài “thiếu nữ trong vườn" quen thuộc được bổ sung, đổi mới. Sự cộng hưởng giữa các chất liệu vàng son vỏ trứng trong bố cục phối hợp nhịp nhàng các hình hoạ khiến bức tranh như một bản giao hưởng mà mọi thành phần đều vang lên cùng một lúc, lại như màn vũ kịch trong đó các nhân vật cùng cây lá, nhóm thì tĩnh tại làm nền cho những nhóm chuyển động với các cấp tiết tấu khác nhau. Trung tâm bức tranh là nhóm thiếu nữ Trung Nam Bắc trong trang phục hơi xưa. Cạnh đó là hai đứa bé như trong tranh dân gian cưỡi con kỳ lân huyền thoại chạy chơi. Phía sau là ngôi miếu cổ nhỏ nhưng trang nghiêm. Xen với các nét văn hoá truyền thống đó là không khí hiện đại tạo bởi hai nhóm thiếu nữ áo trắng múa quay tròn. Nếu nhóm bên trái còn giữ mức tiết tấu vừa phải như trong bức "Vườn xuân" 1970 thì ở ba cô gái bên phía tay phải, thần bút Nguyễn Gia Trí đã hiện hình được cái ảo, cái cuộn bay, cảm giác chóng mặt của vũ điệu quay tít có sức quyến rũ ma thuật, nếu nhìn lâu ắt phải “nhập đồng" theo. Khó hình dung họa sĩ làm thế nào giữ được cảm xúc một hơi trên cả tấm tranh lớn như vậy qua một thời gian dài, một sự “xuất thần suốt hai chục năm" như nhận xét của hoạ sĩ Nguyễn Xuân Việt. Xúc cảm ấy bộc lộ rõ trong từng mảng vỏ trứng thể hiện tà áo tung bay, trong từng mảng lá phượng chuyển sắc tinh tế, trong đôi bướm vờn sống động... Với kiệt tác này, thật sự Nguyễn Gia Trí đã đạt được mong muốn của mình: “Vẽ tranh muốn 10 năm như 1 giờ, vóc trăm cân như không còn trọng lượng." (Khi tác phẩm hoàn thành, cụ Trí nói: “Không phụ lòng anh em.")

Trong lúc giúp Thầy mình làm tranh, Nguyễn Xuân Việt có hỏi: “Không biết bức này sẽ nằm ở đâu?", cụ bảo: “Đặt vấn đề ấy là thừa." Bởi cụ thường tâm niệm: “Nghệ thuật là vô cầu. Vì vô cầu nên nó hướng đến một cái gì đó rất cao." Nhưng lịch sử cuối cùng bao giờ cũng công bằng. Tác phẩm tinh túy bậc nhất của người thầy nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã được đặt đúng chỗ: Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM.

Về con người Nguyễn Gia Trí, chúng ta chưa có điều kiện hiểu nhiều và cũng có những điều chưa đến lúc nói ra (chủ yếu vì tôn trọng ý nguyện của gia đình cố hoạ sĩ).

Ông người nhỏ nhắn, gương mặt không có vẻ gì đặc biệt khác với các trí thức nghiêm túc “thời Tây", nhất là với cặp kính cận to đeo thường trực. Một nét trong tính cách ai cũng nhận thấy ở ông là lặng lẽ, ít giao du, ít nói nhưng nói thì lắm lúc khá hài hước. Một người Pháp kể: Khi tiếp khách đến thăm xưởng, Trí có kiểu “làm dáng" là tự làm người ta quên mình đi, nếu có ai đề cập quá thẳng đến tài nghệ của ông thì ông chỉ nói: “Sơn mài đẹp quá!", như thể mình chẳng có vai trò gì trong đó. [14]
HS Hoàng Tích Chù kể, khi báo chí hỏi vì sao đi vào hội họa, Nguyễn Gia Trí đã trả lời: “Nghịch mà vẽ".

Đời ông hầu như chỉ có một đam mê duy nhất là ở bên những tấm vóc sơn mài. Nhà văn Kim Lân nhớ nhất hình ảnh “ông chủ" của mình ngồi sụp xuống đất mài tranh trong xưởng vẽ. Bà Trí cho biết lịch sinh hoạt hàng ngày hầu như bất di bất dịch của ông: 5 giờ sáng ngủ dậy, vệ sinh xong là sang ngay xưởng sắp xếp công việc cho thợ - 7 giờ về ăn sáng rồi sang xưởng làm việc - 11 giờ 30 về ăn cơm, không ngủ trưa đến 1 giờ lại sang xưởng - 6, 7 giờ tối về ăn cơm, nghỉ một chút lại sang xưởng làm việc đến khuya, thường tới 1, 2 giờ sáng. (Sau này ông nói với Nguyễn Xuân Việt: “Sơn mài khác sơn dầu ở công hạnh", “Vẽ sơn mài có lúc như thợ mộc, như nông dân đi cày".) Có khi ông không về, bà sang xưởng thì thấy ông đã ngủ thiếp trên chiếc giường sắt nhà binh mà người cháu đem về từ Biệt điện Bảo Đại trên Đà Lạt. Mời ông đi chơi thật là khó. Lúc nào ông cũng bảo: “Để tôi trông nhà cho". Bán bức tranh "Vườn xuân" cho bác sĩ Hải, mua được chiếc xe hơi La Dalat (hồi đó xe hơi rất đắt), nhưng chẳng bao giờ ông chịu lái chở vợ đi chơi, ông nói: “Nhờ người khác lái, hoặc đi taxi có lợi hơn".

Cũng bởi thế, Nguyễn Gia Trí sống rất giản dị. Tiền ông làm ra không ít, nhưng ngoài việc đầu tư cho sơn mài, hầu như ông không có nhu cầu gì lớn. Trong xưởng vẽ trước kia ở làng Thịnh Hào, đồ đạc của ông cũng chỉ có một chiếc giường cá nhân và một ngăn sách. Giới hoạ sĩ hồi đó thường truyền nhau rằng: “Trí làm ra tiền cho Tứ (nhà văn Đoàn Phú Tứ - bạn thân của ông) tiêu". Sau 1954 thì mọi việc tài chính đều do bà Trí quán xuyến, ông chỉ chuyên tâm vẽ. Sau một thời gian ngắn sống khổ sở ở gần Lò heo Gò Vấp, ông bà Trí thuê rồi mua lại hai căn liền nhà ngói cũ một tầng (trệt) trong ngõ đường Ngô Đình Khôi (sau đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đổi tên là đường Cách Mạng, sau 1975 đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa rồi Nguyễn Văn Trỗi), một bên ở một bên làm xưởng. Nhà ở cũng như xưởng của ông rất tuềnh toàng, mấy chục năm hầu như không sửa chữa gì. Căn xưởng nát, mái trổ vài viên lắp kính để thêm ánh sáng trời, và cũng như ở xưởng Thịnh Hào xưa, có một chiếc thang đôi để ông trèo lên khi cần nhìn toàn cảnh những tranh lớn. Tường sau căn xưởng bị nứt toác, HS Nguyễn Xuân Việt nói lần nào đi qua anh cũng rùng mình vì trông y như cái máy chém rớt xuống lúc nào không biết. Ông gắn bó với ngôi nhà giản dị của mình đến mức sau khi tranh "Vườn xuân Trung Nam Bắc" bán được, trong lúc ông đi bệnh viện thì con ông xây lại nhà mới, khi đón ông về, đến trước cửa nhà ông không chịu vào và kêu lên: “Đây không phải nhà tôi". Khi biết rõ là nhà mình được xây lại, ông “bắt đền" và bảo: “Thế này thì bạn bè làm sao biết là nhà tôi mà đến chơi!"

Chuyện ăn mặc thì ông chẳng quan tâm gì tới. Bà Trí cho biết ông ăn uống rất đơn giản, đúng khẩu vị thanh tao dân Hà Nội xưa, chỉ cần đồ ăn nóng sốt. Ông bảo bà: “Nếu thiếu lắm thì ăn nước mắm chưng cũng được". Ông không biết nhậu nhẹt, hàng tháng bà cứ “nhập" đều đều cho ông 30 chai bia, 1 chai rượu Martell, 10 chai soda để ông uống trong lúc làm việc, còn cà phê thì mỗi ngày đến 4-5 phin. Theo một số hoạ sĩ gần gụi ông cuối đời, ông chẳng để ý là mình đi hai chiếc vớ hai màu khác nhau, cũng như bộ com-lê diện của mình là “mặc thừa" của ông anh là GS Tường.

Thật khó ngờ con người đam mê nghệ thuật và lặng lẽ ấy lại là một nhà cách mạng chống Pháp thực sự đã chịu tù đầy tra tấn vì nghĩa lớn của dân tộc. Sau 1954, có thể ông đã nguội lửa đấu tranh trước những diễn biến phức tạp của lịch sử, nhưng lòng khảng khái trước quyền lực của ông thì còn nguyên. Có nhiều chuyện kể về những lần ông từ chối vẽ tranh cho ông Ngô Đình Diệm cũng như Đại sứ Mỹ Bunker khi họ đòi ông vẽ theo ý họ. Ông cũng từ chối yêu cầu của bà Cố vấn Trần Lệ Xuân đòi dành riêng một buổi cho gia đình bà đến xem trong dịp ông triển lãm tại nhà năm 1959. Và người Sài Gòn thì không quên bức biếm hoạ 6 con chuột khoét ruỗng quả dưa hấu trên báo
Tự do xuân năm Canh Tý, khiến ông phải “đi trốn" một thời gian. Cũng từ thời gian này, ông ngày càng ham mê nghiên cứu Phật giáo và triết học Trung Hoa cổ. Đôi lá thư ông viết cho các bạn văn nghệ trước 75 hay những lời ông dạy đệ tử Nguyễn Xuân Việt sau 75 cho thấy rõ ông ngày càng tâm niệm nghệ thuật gắn làm một với “Tâm", với “Đạo". Những suy nghĩ về nghệ thuật của người mang pháp danh Thiện Chân ngày càng thấm nhuần triết lý thiền: “Phải luôn luôn nhớ: tranh mình chỉ là phương tiện để tu tập mà thôi", “Hội hoạ gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta"... Hai mươi ngày trước khi ông qua đời, Nguyễn Xuân Việt đến thăm, ông không nói được nữa, chỉ ra dấu: khép lại hai mắt, khép lại hai tai, khép lại đôi môi, rồi ngón tay ông chỉ vào giữa trán. Đó chính là vị trí “con mắt thứ ba", “con mắt huệ", ngõ vào duy nhất để tiếp nhận chân lý sự sống cũng như chân lý nghệ thuật.

Một đời tìm tòi sáng tạo để đưa sơn mài Việt Nam lên được địa vị một chất liệu hội hoạ hiện đại, với những kiệt tác hoà quyện cái cổ truyền và cái thời đại, với nhân cách và bản lĩnh sống thật cao thượng đến tận giờ phút cuối cùng, Nguyễn Gia Trí xứng đáng là bậc “đạo sư" của tất cả những ai coi nghệ thuật là thiêng liêng, của những ai thành tâm muốn tìm một lối đi cho văn hoá Việt giữa thời giao lưu toàn cầu này.
SG 5/4/1998

[1]Câu này cũng như tất cả các câu nói về nghệ thuật của HS Nguyễn Gia Trí trích trong bài này đều rút từ cuốn Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo của Nguyễn Xuân Việt, NXB Văn học 1998.
[2]
HS Hoàng Tích Chù sinh năm 1910, học CĐMT Đông Dương sau Nguyễn Gia Trí hai khoá, sau này là một trong các hoạ sĩ sơn mài hàng đầu Việt Nam.
[3]
V. Tardieu, người sáng lập trường CĐMT Đông Dương, sinh 1870 ở Lyon, mất 1937 tại Hà Nội.
[4]
Joseph Inguimberty (1896 - 1971) là người đã khuyến khích các sinh viên CĐMT Đông Dương nghiên cứu sơn mài, ông yêu mến và gíup đỡ Nguyễn Gia Trí nhiều, sau trở thành bạn vong niên, thường liên lạc thư từ với hoạ sĩ sau 1954.
[5]
Ý trong bài "Nguyen Gia Tri, artiste laqueur" của CL.M. trên tạp chí Indochine số 217 (26/ 10/1944)
[6]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn
[7]
HS Tô Ngọc Vân (1906 - 1954) học khoá hai CĐMT Đông Dương. Hai câu trên trích trong những bài viết của Tô Tử - bút danh của Tô Ngọc Vân - ở báo Ngày nay số 146 năm 1939 và Tô Ngọc Vân trên báo Thanh nghị số 77 năm 1944).
[8]
Bà Trí nhũ danh Nguyễn Thị Kim là em họ vợ họa sĩ Lemur Cát Tường, người sáng tạo chiếc áo dài Việt Nam hiện đại. Bà kết hôn với HS Nguyễn Gia Trí năm 1955 tại Sài Gòn. Hai ông bà không có con, nuôi một con trai tên là Tuệ. Bà là người vợ hiền Việt Nam mẫu mực, cả đời chăm lo cho sự nghiệp của chồng.
[9]
Xem chú thích 7
[10]
Ý của Linh mục Trần Thái Hiệp (Báo Công giáo và Dân tộc năm 1991)
[11]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn
[12]
Nhiều điểm phân tích kỹ thuật hội hoạ của Nguyễn Gia Trí trong đoạn viết này cũng như các đoạn sau trong bài, tác giả tiếp nhận từ các hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Xuân Việt.
[13]
Tên tranh mà HS Nguyễn Gia Trí viết trực tiếp trong tranh là “Vũ phiến". Sở dĩ có tên này là do sau 1975, đất nước vừa thống nhất, để tránh có người hiểu lầm là mình xu thời nên hoạ sĩ tạm thời không dùng tên “Vườn xuân Trung Nam Bắc”.
[14]
"Nguyen Gia Tri, artiste laqueur", bài đã dẫn