Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2023

Lê Nguyễn: Cách dạy và học Sử cần được thay đổi sâu sắc trên tinh thần phi chính trị hóa.

Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện với ông Lê Nguyễn, nhà báo, nhà nghiên cứu lịch Sử độc lập, cựu Phụ tá Tỉnh trưởng đặc trách Phát triển Kinh tế dưới chế độ VNCH, hiện đang cư ngụ tại Sài Gòn.

DĐTK: Thưa anh, trưởng thành ở Miền Nam trước năm 1975, với những kinh nghiệm bản thân về nền giáo dục VNCH, anh có thể nêu lên những nhận xét, đánh giá khái quát của anh về cách dạy và học môn Sử hồi đó ở bậc tiểu học, trung học, đại học. Và xin anh so sánh với bây giờ, từ chương trình học và thi cử, thái độ tiếp thu của học sinh, yếu tố chính trị trong chương trình…?


Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn:

Với tư cách một người được rèn luyện trong nền giáo dục miền Nam trước năm 1975, đồng thời là người quan sát thường xuyên nền giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN) từ gần 50 năm qua, tôi xin trả lời về tình trạng dạy và học môn Sử tại miền Nam trước 1975 và tại Việt Nam hiện nay.


Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Thấy gì qua đề thi Văn tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023?

Giang Công Thế: Từ “Canh gà Thọ Xương” đến “Vợ nhặt”


Trên mạng đang chia sẻ đề thi ngữ văn phổ thông trung học với đủ cung bậc khen chê.

Tôi không theo dõi đề thi của các năm trước nên không rõ, nhưng đề thi năm nay, thì theo tôi, chỉ dành cho những thí sinh giỏi văn, nhất là sau này muốn thành nhà văn/thơ vì thí sinh phải phân tích thơ, loại thơ gì, bài học cho cuộc sống...

Phần Làm văn khá hơn chút là thí sinh viết đoạn văn 200 từ, nhưng đoạn sau lại trích một đoạn trong “Vợ nhặt”, yêu cầu thí sinh phân tích và từ đó, nhận xét cách nhìn cuộc sống của Kim Lân.

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2023

Lê Nguyễn: Cuộc trò chuyện thẳng thắn giữa hai người yêu Sử

 Lời tác giả: Cuộc nói chuyện đã diễn ra cách đây mấy năm, song nhiều vấn đề vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, nhất là trong việc dạy và học sử tại Việt Nam hiện nay. Facebooker AT nay không còn giữ nickname này, mặt khác do không còn liên lạc được với chị, nên tác giả xin dùng chữ tắt cho nick cũ của chị

***

AT.-
Rất vui khi biết ông là người “sống được” nhờ nghề viết báo, càng vui hơn khi biết rằng những bài viết của ông hầu như liên quan đến lịch sử. Gắn nghiệp với Sử học đã đem đến cho ông những niềm vui gì, và có điều gì chưa thoả, thưa ông?
LÊ NGUYỄN -

Như bạn thấy đó, lịch sử Việt Nam, nhất là lịch sử thời Nguyễn, rất phong phú, vì có được nguồn tư liệu khổng lồ là các hồi ký, du ký, biên khảo do nhiều thương nhân, giáo sĩ, du khách phương Tây soạn thảo mà đến nay chúng ta chưa khai thác được bao nhiêu. Chúng có một hấp lực rất lớn đối với những người thích tìm tòi, học hỏi những cái mới lạ trong lịch sử. Tôi tìm đến sử học theo cách ấy. 


Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2023

Lê Nguyễn: Đôi nét về giáo dục Miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa (Phần 3)

IV. VIỆC THI CỬ

TRƯỚC KỲ THI

Đơn vị chính trong các kỳ thi trên toàn miền Nam trước 1975 là cấp Tỉnh. Trường trung học công lập chính thức của tỉnh là nơi trực tiếp thực hiện những thủ tục cần thiết dưới sự sắp xếp của Nha Khảo thí và các cơ quan liên hệ của Bộ Giáo dục như Nha Trung học, Nha Tiểu học, đoàn Thanh tra.

Mấy tháng trước ngày thi, các trường tư thục trong tỉnh phải nộp học bạ của tất cả thí sinh thuộc trường mình cho trường Trung học công lập tỉnh kiểm nhận, và chỉ khi nào học bạ được kiểm nhận hợp lệ, học sinh liên hệ mới được cấp số báo danh để dự kỳ thi sắp tới. Cũng mấy tháng trước kỷ thi, các giáo sư công lập đang dạy chính môn nào thì được Nha khảo thí yêu cầu đề xuất một số đề thi thuộc môn đó (thường từ 3 đến 5 đề thi). Những đề thi này chỉ có tính tham khảo, xác suất được chọn rất nhỏ so với số đề thi đề xuất trên cả nước.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2023

Lê Nguyễn: Đôi nét về giáo dục Miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa (Phần 2)

III. GIÁO CHỨC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA

ĐÔI NÉT VỀ NGẠCH TRẬT VÀ CHẾ ĐỘ LƯƠNG BỔNG CỦA CÔNG CHỨC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA

Trước khi đề cập đến thành phần giáo chức thời Đệ nhất Cộng hòa, xin trình bày sơ lược về chế độ ngạch trật và lương bổng dành cho các thành phần công chức nói chung.

A - VẤN ĐỀ NGẠCH TRẬT

Vào những năm 1954–1963 (và cho đến hết thời Đệ nhị Cộng hòa) tại miền Nam, chế độ lương bổng dành cho các tầng lớp công chức khá ổn định và hài hòa ở hầu hết các ngành nghề, các lãnh vực khác nhau. Công chức thời ấy có hai thành phần chính: chính ngạch và ngoại ngạch.

* Công chức chính ngạch –Thường là những người được đào tạo ở các trường chính quy và được chia làm ba hạng chính:

- Hạng A – Dành cho những người tốt nghiệp Đại học trở lên

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2023

Lê Nguyễn: Đôi nét về giáo dục Miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa (Phần 1)

Thế hệ những người sinh vào thập niên 1940 tại miền Nam nay còn không ít, cũng không nhiều. Số người không còn phần vì tuổi tác, bệnh tật, phần vì đã trải qua nhiều thăng trầm dâu bể của những năm trước và sau 30.4.1975: chiến trận, tù đày, những cuộc vượt biển kinh hoàng …, số người còn trụ lại kẻ thì sống tha hương trên xứ người, người ở lại Việt Nam thì phần đông cũng lang thang bên lề cuộc sống, tuổi tác chất chồng, sống bằng ký ức hơn là những dự phóng tương lai. Các bài viết này là một vài “ký ức vụn”, không mang ý nghĩa một biên khảo, mà chỉ nhằm giúp người đọc có chút ý niệm tổng quát về một nền học đã mai một từ hơn nửa thế kỷ đã qua.

I. SƠ LƯỢC VIỆC HỌC TẠI MIỀN NAM TRƯỚC THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA

       

Những năm trước năm 1954, không thấy có chương trình giáo dục mầm non dành cho lứa tuổi dưới 6, thường một đứa bé đến 6 tuổi, thậm chí 7–8 tuổi hay hơn nữa, mới được cha mẹ cho đi học lớp đầu đời là lớp năm bậc tiểu học. Trước thời Đệ nhất Cộng hòa (1954–1963), hệ thống giáo dục tại Việt Nam cũng có 3 bậc học chính là Tiểu học, Trung học và Đại học, song ở 2 bậc học đầu, mỗi bậc lại chia thành 2 cấp. Ở bậc Tiểu học, lớp khởi đầu là lớp Năm hay lớp Đồng ấu (Cours Enfantin), kế đến là lớp Tư hay lớp Dự bị (Cours Préparatoire), lớp Ba hay lớp Sơ đẳng (Cours Elémentaire). Cả ba lớp này thuộc cấp Sơ học, học xong, học sinh thi lấy bằng Sơ học Yếu lược (Primaire Elémentaire).
     


Thứ Ba, 6 tháng 12, 2022

Facebook Lê Nguyễn: Nghĩ về ngôn ngữ sách giáo khoa

Facebook Lê Nguyễn

Có lẽ ở hầu hết các dân tộc trên thế giới, ngôn ngữ bao giờ cũng có trước văn tự. Ở nước ta cũng thế, ngay từ khi lập quốc, người Việt đã có ngôn ngữ riêng, mãi đến thế kỷ 1314, dưới thời Trần, mới có một văn tự riêng là chữ Nôm để diễn tả ngôn ngữ của mình. Nhờ thế mà thế hệ chúng ta ngày nay mới có Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, truyện Hoa Tiên, truyện Kiều … để ngâm ngợi.

Cách đây gần 370 năm, giáo sĩ Alexandre de Rhodes là một trong những người đầu tiên nghĩ ra cách diễn đạt ngôn ngữ Việt bằng chữ la tinh, và thứ văn tự này được cải tiến dần thành chữ quốc ngữ chúng ta sử dụng ngày nay. Khi làm công việc trọng đại này, de Rhodes đã ở Đàng Ngoài 3 năm và Đàng Trong 8 năm (nhiều đợt), nhờ vậy, ông nắm hiểu được nhiều phương ngữ khác nhau. Dù cách ký âm trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của de Rhodes còn phôi thai, song nhờ sự trải nghiệm qua nhiều vùng miền, ông viết “con trâu” theo cách đọc của người Đàng Trong, chứ không viết “con châu” theo cách đọc của người Đàng Ngoài. Soạn từ điển, de Rhodes đã ý thức được tính đa dạng của ngôn ngữ Việt và áp dụng nhận thức đó trong biên soạn.


Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2022

Tạ Duy Anh: Lịch sử và môn học Lịch sử

Tôi phải nói thật là mình không thuộc lịch sử cho lắm. Suốt thời học phổ thông, chúng tôi chỉ được học rất sơ sài, do những ông thầy không hề có tí hứng thú nào với chính môn mình dạy. Tôi không bao giờ dám hỏi các thầy để biết lý do vì sao.

Nhưng rồi thì tôi cũng sớm nhận ra, phần lớn kiến thức lịch sử mình được học trong nhà trường, đều rất khác với những gì tôi tự tìm hiểu sau này. Ví dụ điển hình có thể dẫn ra là những kiến thức về Nhà Nguyễn. Chúng tôi được học đơn giản và mang tính đóng đinh rằng, Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến thối nát, mang tội bán nước.

Nhưng rồi không chỉ Nhà Nguyễn, còn rất nhiều sự kiện khác, nhất là những sự kiện thời cận đại, hiện đại, thậm chí chỉ ngay mới đây… đều có những nhận thức trái ngược giữa chính thống và “ngoài luồng”. Tự lực Văn đoàn với chúng tôi suốt một thời là cải lương, vọng ngoại, suy đồi. Rồi hàng loạt các sự kiện chính trị khác nữa. Ví dụ sự kiện tại phố “Ôn Như Hầu” năm 1946; sự kiện Chính phủ Trần Trọng Kim; sự kiện Cải cách ruộng đất; sự kiện Nhân văn giai phẩm; sự kiện “Nhóm xét lại”…

Ngoài ra, nhiều nhân vật lịch sử, rất khó để kể hết, cũng nằm trong tình trạng tương tự. Tiêu biểu trong số này là Trương Vĩnh Kí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Tận lúc lớn chúng tôi vẫn đinh ninh rằng đó là những kẻ ôm chân thực dân, đế quốc, làm hại giống nòi!

Sau này khi được tiếp xúc với giáo sư Trần Quốc Vượng, tôi sáng ra nhiều điều để có thể tự lý giải cho mình một số băn khoăn. Và tôi nhận ra rằng, những kiến thức lịch sử ít ỏi mình có, phần nhiều đều phải chỉnh sửa lại.

Quá trình này hóa ra không chỉ khó, mà còn bi hài ngoài sức tưởng tượng. Xóa bỏ kí ức (kiến thức, với thời gian đủ dài, cũng thành một thứ kí ức) không hề đơn giản chút nào. Cho dù đã nỗ lực vượt bậc, tôi phải thành thật nhận rằng, mình vẫn thuộc loại “mù” lịch sử. Bởi khi tờ giấy đã bị bôi lem nhem, thì ta có thể thay nó bằng tờ giấy trắng tinh, rồi viết lại lên đó những chữ ngay ngắn, những hình vẽ tử tế. Nhưng kí ức thì không thể làm thế. Chúng chống lại mọi sự thanh tẩy một cách ngoan cố, vượt ra ngoài mọi khả năng của lý trí.

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2021

Chu Mộng Long: Hoang tưởng và áp đặt về 5 phẩm chất và 10 năng lực cốt lõi cho học sinh

Nhiều bạn thắc mắc về khái niệm "phẩm chất" và "năng lực" mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Chương trình Giáo dục Phổ thông 2018. Tôi thì cho rằng, mọi khái niệm đều có tính quy ước, không nhất thiết phải tranh luận về nghĩa của khái niệm. Cứ xem như "phẩm chất" gồm có 5 tiêu chuẩn: Yêu nước, trách nhiệm, trung thực, chăm chỉ, nhân ái. Và "năng lực" gồm có 10 tiêu chuẩn: tự chủ và tự học, thể chất, thẩm mỹ, tin học, công nghệ, khoa học, toán học, ngôn ngữ, giải quyết vấn đề và sáng tạo, giao tiếp và hợp tác. Các tiêu chuẩn đó coi như đã là định nghĩa cho khái niệm. (Hình dưới)


Nên nhớ, đó là các tiêu chuẩn "chủ yếu" và "cốt lõi" buộc học sinh phải đạt được và từ đó phát triển cao hơn, rộng hơn, theo lời giải thích của một trong những chủ biên chương trình.

Về phẩm chất, đối với học sinh phổ thông mà đạt cả 5 đã là... hơn cả thánh. Tôi càng thắc mắc, nếu không nói là hoảng hốt, về cái gọi là "năng lực chuyên môn". Đã gọi là "chuyên môn" thì chỉ có một. Trong xã hội hiện đại, khi sự phân công lao động đã được chuyên môn hoá, thì không thể nào có một cá nhân có đến 7 chuyên môn (trong 10 năng lực) khác nhau. Ngay trong huyền thoại, thần thánh ở trên trời cũng chỉ có một chuyên môn: thần chiến tranh, thần thợ rèn, thần nghệ thuật, thi ca... Các vị thần tối cao như Zeus, Thượng Đế, gọi là toàn năng nhưng xét đến cùng cũng chỉ có sức mạnh của kẻ độc tài. Nếu toàn năng thật thì đã không cần các thần thánh khác.

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2021

Bùi Văn Phú: Nên cho học sinh chọn nhiều ngoại ngữ khác nhau

Khi có thông tin về việc lãnh đạo giáo dục đưa thêm ngoại ngữ gồm tiếng Hàn và tiếng Đức vào chương trình học từ lớp 3 đến lớp 12, tôi không ngạc nhiên với đề nghị này, vì Việt Nam đang trên đường phát triển và hội nhập với thế giới nên việc học sinh học thêm ngoại ngữ của những quốc gia tiến bộ là điều cần thiết trong mô hình giáo dục của một quốc gia phát triển.

Một lớp học Việt ngữ cuối tuần ở California (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Lãnh đạo giáo dục Việt Nam muốn quân bình Đông Tây trong chương trình dạy ngoại ngữ cho học sinh Việt Nam, dù tiếng Anh đang được dạy tại nhiều trường ngay từ cấp Một. Vấn đề là nếu muốn đem vào chương trình học những ngoại ngữ khác, hiện đã có giáo viên đủ trình độ để giảng dạy hay không và trên đại học có khoa sư phạm để huấn luyện thày cô cho những ngoại ngữ này chưa.

Ở Mỹ dạy học từ lớp 1 đến lớp 12 giáo viên phải có bằng sư phạm, ít nhất là 4 năm đại học. Dạy cấp Một cần bằng sư phạm tổng quát, lên cấp Hai và cấp Ba là bằng sư phạm chuyên cho môn học muốn dạy.

Ngoại ngữ chưa được dạy nhiều ở cấp Một tại Hoa Kỳ, chỉ chưa đến 30% các trường và đa số trong khu vực khá giả. Lên đến cấp Hai cũng chưa có nhiều, chừng 50% các trường có dạy ngoại ngữ. Cấp Ba thì hầu như trường nào cũng dạy ngoại ngữ, vì học sinh tốt nghiệp phổ thông nếu muốn được nhận vào các đại học 4 năm thì rất nhiều trường đòi điều kiện học sinh đã có học một ngoại ngữ ít nhất hai năm và được điểm C hay cao hơn.

Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2021

Lâm Vĩnh Thế: Giáo Dục Và Huấn Luyện

Lời Tòa soạn.- Dưới đây là chương “Giáo Dục và Huấn Luyện”, chương đầu tiên trích từ cuốn hồi ký mới xuất bản có nhan đề Tròn Nhiệm Vụ của tác giả Lâm Vĩnh Thế, một “quản thủ thư viện gốc Việt” tại Canada. Diễn Đàn Thế Kỷ xin cám ơn tác giả Lâm Vĩnh Thế đã cho phép chúng tôi đăng lại. Mời bạn đọc thưởng thức.

NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH

Ông Nội làm việc tại tòa soan nhựt
báo 
Lục Tỉnh Tân Văn (1923-1944)

Hoàn toàn không có một điều gì báo trước là tôi sẽ trở thành một quản thủ thư viện. Ông nội tôi, cụ Lâm Văn Ngọ (1882-1960), là một hậu duệ đời thứ ba của một gia đình người Minh Hương [1] giàu có lớn ở Chợ Lớn (khu người Hoa của thành phố Sài Gòn), đã làm việc trong nhiều năm với tư cách là Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút cho tờ nhựt báo tiếng Việt Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) cho đến khi tờ báo đình bản vào năm 1944. Ba tôi, ông Lâm Đình Thâm (1901-1948), làm Phụ tá cho Ông Nội tôi tại tòa soạn của tờ báo này.

Ông Ngoại tôi, cụ Nguyễn Ngọc Bích (?-?), là Cai Tổng của Tổng An Điền bao gồm 9 xã, trong đó có xã Linh Đông là quận lỵ của Quận Thủ Đức, thuộc tỉnh Gia Định, ngay bên cạnh thành phố Sài Gòn. Trước khi trở thành Cai Tổng, Ông Ngoại tôi là một thương gia giàu có, chủ một vựa cá lớn phục vụ cho vùng Thủ Đức – Dĩ An. Mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Ất (1904-1979), được Ông Ngoại tôi cho đi học đến hết lớp Ba bậc Tiểu học. Do đó, Mẹ tôi biết đọc, biết viết, biết làm 4 phép toán, và cũng biết được một ít tiếng Pháp. Và nhờ vậy, Mẹ tôi đã có thể giúp cho Bà Ngoại tôi lo việc sổ sách cho vựa cá của gia đình cho đến khi Mẹ tôi lập gia đình với Ba tôi.
Ông Ngoại trong vườn sau nhà

Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2020

Lâm Vĩnh-Thế (Nguyên Giáo-sư và Quản-Thủ Thư-Viện Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức): Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức - Một Đường Lối và Phương Pháp Giáo Dục Tân Tiến của Việt Nam Cộng Hòa

Từ rất nhiều năm nay, tại hải ngoại, khi nhắc lại chuyện giáo dục tai Miền Nam trước 1975, nói đến các trường trung học lớn, đa số mọi người chỉ nói về các trường Petrus Ký, Gia Long, Chu Văn An, Trưng Vương ở Sài Gòn, hay Nguyễn Đình Chiểu, Lê Ngọc Hân ở Mỹ Tho, hay Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ, hay Quốc Học, Đồng Khánh ở Huế, ít thấy ai nhắc đến tên Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức (THKMTĐ), trực thuộc Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ĐHSPSG), mặc dù ngôi trường này đã có mặt từ năm 1965, nghĩa là đã hoạt động được đúng 10 năm, và đã có những cống hiến rất quan trọng cho hệ thống giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Người viết bài này, đã từng phục vụ tại THKMTĐ một thời gian khá dài (1966-1971) với tư cách giáo sư môn Kiến Thức Xã Hội (tên gọi mới của môn Sử Địa tại Trường) và Quản Thủ Thư Viện, cố gắng giới thiệu những nét đặc biệt của trường THKMTĐ khiến nó trở thành biểu tượng của một đường lối và phương pháp giáo dục thật sự tân tiến của VNCH.

Thành Lập Trường THKMTĐ


Hệ thống giáo dục của nước Việt Nam độc lập đã được đặt nền móng vững chắc từ năm 1945 dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim với Bộ Trưởng Giáo Dục đầu tiên là Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Tuy tiếng Việt đã được sử dụng để giảng dạy nhưng toàn bộ hệ thống giáo dục, từ “hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử, và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của chương trình Pháp.” [1] Trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có một hội nghị giáo dục được tổ chức vào năm 1958 mang tên là “Hội Thảo Giáo Dục Toàn Quốc.” [2] Chính cuộc hội thảo giáo dục này, lần đầu tiên, đã tạo ra triết lý giáo dục cho VNCH với ba nguyên tắc chỉ đạo là Dân tộc, Nhân bản, và Khai phóng. Đại hội giáo dục toàn quốc lần thứ hai được tổ chức vào năm 1964 khẳng định lại một lần nữa ba nguyên tắc chỉ đạo vừa nêu trên, với một điều chỉnh nhỏ: nguyên tắc chỉ đạo thứ ba được đổi từ Khai phóng sang Khoa học [3] Chính trong thời gian này đã xuất hiện một số bài viết thảo luận chung quanh đề tài “một nền giáo dục mới” cho VNCH. Trường ĐHSPSG đi một bước xa hơn, không phải chỉ tham gia vào việc thảo luận suông về chuyện giáo dục mới này, mà bằng việc thực hiện một dự án giáo dục cụ thể: thiết lập THKMTĐ. Trong Dự Án Đại Cương cho ngôi trường mới này, đệ trình cho Hội Đồng Khoa của ĐHSPSG vào tháng 3-1965, người thảo dự án, Giáo sư Dương Thiệu Tống, vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường, đã khẳng định:

“Chương trình ấy chỉ có thể thực hiện không phải bằng những cuộc bàn cãi về lý thuyết mà phải là kết quả của các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm.” [4]

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2020

Giáo Sư Đàm Trung Pháp [1]: Tại Sao Nhiều Học Trò Ngoại Quốc Viết Tiếng Anh Quá Kém?

Bài nói chuyện của tôi hôm nay với quý đồng nghiệp bắt nguồn từ bài viết mang tên What teachers need to know about language phổ biến vào mùa hè năm 2000 của Giáo sư Lily Wong Fillmore thuộc University of California at Berkeley và Giáo sư Catherine Snow thuộc Harvard University [2]. Đọc xong bài viết ấy, tôi thấy như nỗi ưu tư của chính tôi (và có lẽ của nhiều nhà giáo dục ngôn ngữ khác nữa) đã được hai tác giả nói dùm lên một cách rất hùng hồn. Bài viết ngắn gọn này của họ là lời cảnh tỉnh cấp kỳ cho nghề nghiệp chúng ta!

Hai vị giáo sư nêu trên nhận thấy hình như các học trò mà tiếng mẹ đẻ không phải là Anh ngữ càng ngày càng bị khó khăn trong việc học hỏi ngôn ngữ này. Có những em khi ghi danh học mẫu giáo được xếp loại “khả năng Anh ngữ hạn chế” và “13 năm sau đó” khi tốt nghiệp trung học vẫn thuộc loại “khả năng Anh ngữ hạn chế”! Ngay cả những em rất chăm chỉ học hành, thuộc đủ mọi sắc tộc, bất kể là sản phẩm của giáo dục song ngữ hoặc là của giáo dục ESL, cũng không chinh phục được Anh ngữ

Những dữ kiện từ chương trình ESL của University of California at Irvine mới đây vẽ lên một hình ảnh bi đát: 60% các sinh viên năm thứ nhất đã rớt bài thi luận văn Anh ngữ tại trường này, và 90% của các sinh viên thi rớt này là người Á châu đã từng theo học ở Mỹ tối thiểu là 8 năm. Đó là các em học sinh đã tốt nghiệp trung học với hạng danh dự, đã từng học các lớp Anh ngữ cao cấp (AP English). Nhưng, khổ thay, khả năng viết tiếng Anh của các em cho chúng ta thấy các em không nắm vững được cú pháp thứ tiếng này chút nào! Đó là chuyện ở California. Còn ở Texas thì cách đây ít lâu tôi có nhận được một thư mời viết bằng thứ tiếng Anh thuộc loại vừa tả của một sinh viên gốc người Việt, nguyên văn như sau: “Do you always wanted to know what is the different between the Vietnamese and American culture? Do you always wondering why our parents thinking are so differences than we are? Than come to the Living Two Cultures Conference!” Đọc xong thư mời với những lỗi văn phạm khủng khiếp ấy, tôi chợt rùng mình [3].

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

Vương Trí Nhàn: Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc

Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm.

Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy.

Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.

Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.

Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy ở GDMN một điểm đối chiếu.

Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã hấp thụ.

Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện giáo dục Hà Nội từ 1975 về trước qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.

KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH


Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

Vũ Quí Hạo-Nhiên: Làm toán bằng cách đếm ngón tay

Hình minh họa.
Thường thường các bậc phụ huynh và thầy cô cho rằng các em giỏi toán thì nên tính trong đầu thôi, chứ cộng trừ nhân chia mà cứ xoè bàn tay ra đếm là bị cho là dở, là ngu, này nọ. 

Nhưng từ lâu các nhà nghiên cứu trong ngành thần kinh-tâm lý học, neuropsychology, đã biết là điều đó không phải vậy. Từ lâu họ đã biết là khả năng nhận thức về ngón tay đi liền với khả năng làm toán. 

Năm 1998, một nhóm nghiên cứu ở Pháp (Fayol, Barrouillet, Marinthe) phát hiện ra là trong trẻ em mẫu giáo, khả năng nhận biết các ngón tay là yếu tố chính có thể tiên đoán được khả năng làm toán một năm sau đó, bất kể các yếu tố khác như IQ. Nghiên cứu tiếp theo cho thấy khả năng nhận biết các ngón tay tiên đoán được khả năng làm toán tới cả 3 năm sau. 

Một nhóm khác ở Bỉ (Gracia-Bafalluy, Noël) phát hiện là nếu tập cho các em học sinh lớp 1 phân biệt ngón tay giỏi hơn thì điểm toán các em cũng lên cao luôn, so với các em không được tập. 

Rồi một nhóm ở đại học Northwestern University (Berteletti, Booth) đo não một nhóm trẻ em từ 8 tới 13 tuổi và thấy rằng khi cho các em làm toán, vùng não điều khiển các ngón tay cũng bật lên theo. 

Thứ Năm, 17 tháng 8, 2017

Mạnh Kim: Tự Do Trong Giáo Dục

Những đứa trẻ được tự do “bò ra đường” vẽ nghịch 
ngay tại Fifth Ave trước Central Park, New York (ảnh: MK)


Việt Nam hệt như Mỹ cách đây hơn một thế kỷ, khi vào năm 1899, nhà giáo dục Mỹ William T. Harris than phiền rằng hệ thống giáo dục Mỹ đã phát triển một “cỗ máy” mà học trò chỉ biết ngồi nghe. Giáo dục là vậy sao? Giáo dục là giúp định hình nhân cách thông qua cung cấp kiến thức và tạo ra một xã hội sáng tạo, hay là chỉ sản xuất những người máy chỉ để phục tùng? Chúng ta nghe nói rất nhiều về chuyện VN còn nghèo nên không thể so với các nước phương Tây. Vấn đề có phải thực là do nghèo, hay đó là cái cớ để biện bạch một hệ thống giáo dục mục ruỗng đầy bức bối và phi tự do? Hãy thử xem một trường hợp để thấy việc đưa lý do “nghèo” chỉ là một sự lấp liếm ngụy biện.

Trường tiểu học José Urbina López nằm cạnh một bãi rác gần biên giới Mỹ-Mexico. Nó dành cho cư dân thành phố nhếch nhác Matamoros với 489.000 cư dân, một trong những điểm nóng của cuộc chiến ma túy Mexico, nơi người dân vốn quen với cảnh giang hồ bắn nhau như cơm bữa, nơi xác người bị vất bên vỉa hè… Để đến trường, học sinh phải đi trên con đường bụi bặm chạy song song với con kênh hôi thối nồng nặc. Dân địa phương gọi ngôi trường của họ là “un lugar de castigo” (nơi của sự trừng phạt). Học sinh trường José Urbina López đều nghèo, chẳng hạn em Paloma Noyola Bueno 12 tuổi, con một gia đình với ông bố làm nghề “móc rác”. Đó cũng là nơi có thầy Sergio Juárez Correa, người cũng trưởng thành cạnh một bãi rác của thành phố này.

Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

Mai An Nguyễn Anh Tuấn: Cần làm gì để chấm dứt những bài học văn trống rỗng, vô vị?


Nhân một năm học mới sắp bắt đầu 
Trước đây, khi còn là một giáo viên văn, tôi đã có dịp dự một số giờ văn ở cấp hai, cấp ba mà sau đó, học sinh không được thêm được một chút gì ngoài những kiến thức chết và mớ từ rỗng; những giờ văn kiểu đó quả đã trở thành một gánh nặng khủng khiếp đối với học trò. Không ngờ, tới hôm nay thực trạng đó đã thành phổ biến trong việc Dạy và Học văn, và đã tới mức thậm SOS!



Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015

TS. Phạm Ngọc Hiền - Việt Nam đứng ở đâu trên bản đồ giáo dục thế giới?

Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt giữa thế giới
và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa (Ảnh: voer.edu.vn)

LTS: TS. Phạm Ngọc Hiền, Giảng viên khoa Xã hội, trường ĐH Sài Gòn băn khoăn rằng không tìm thấy Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới. Bằng sự hiểu biết, ông đã đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này. 
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả. 


Để phát triển nền giáo dục nước nhà, ta cần nhận thức được vị trí của mình trong mối tương quan với các nước khác. Muốn biết rõ hơn Việt Nam hiện nay đang đứng ở đâu trên bản đồ giáo dục thế giới, trước hết, ta hãy nhìn lại những vị thế của giáo dục Việt Nam trong quá khứ. 

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

Vương Trí Nhàn - Thầy bà như thế này thì làm sao có được một nhà trường đúng nghĩa phải có?


Những kẻ loàng xoàng
Một người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình, may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi vừa xì ra một lối thoát:
-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang được mời ở lại trường giảng dạy đấy.  Nếu lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.
-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?
-- Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các xí nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường. Đến lượt con mình có gì là lạ. Ông chẳng hay nhắc lại cái câu của Xuân Diệu "thời nay là thời lý tưởng của bọn mediocre [tầm thường]" là gì?  

Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

Phạm Lê Vương Các - “Em hãy rút hồ sơ và nghỉ học ở trường này đi”


Các bạn có tin đó là câu nói của một thầy Chủ nhiệm Khoa “khuyên” sinh viên của mình sau khi nhập học được 1 tuần không?

Còn đối với tôi câu nói này đã trở nên rất đỗi quen thuộc vì tôi đã được nghe nó nhiều lần khi học ở Đại học Luật TP.HCM. Và lần này tôi lại được nghe ở Trường Đại học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội – nơi tôi đang theo học chuyên ngành Luật kinh tế.