Hiển thị các bài đăng có nhãn Blog BS Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Blog BS Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013
BS Ngọc - “Bên Thắng Cuộc” lột trần hậu trường chính trị Việt Nam
Blog BS Ngọc
Phải nói cho rõ là “hậu
trường chính trị của chế độ Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội, hay cộng
sản”. Đã có nhiều người viết bài điểm sách, tôi không có gì để viết thêm.
Tôi chỉ muốn rút ra vài điểm chính sau khi đã đọc xong bộ sách. Theo tôi nghĩ
những câu chuyện Huy Đức thuật lại trong sách có thể giải thích tại sao nước ta
nghèo hèn như hiện nay. Tôi cũng nghĩ các lãnh đạo thuộc phe XHCN của miền Bắc
phải chịu trách nhiệm lớn trước lịch sử về những sai lầm của họ.
Một nhà văn hoá Âu châu
từng nói rằng lịch sử chỉ là một chuỗi câu chuyện về gia đình và thế giới. Bởi
thế, kể chuyện là một phương tiện có hiệu lực cao để giải thích những gì đã và
đang xảy ra. Có thể khẳng định ngay rằng bộ sách Bên thắng cuộc của Huy Đức không phải là sách
lịch sử. Huy Đức cũng nói rằng anh không viết sử. Tôi xem Bên thắng cuộc là một chuỗi câu chuyện hậu trường
chính trị Việt Nam .
Tất cả chúng ta cần phải biết những câu chuyện mà Huy Đức kể lại, bởi vì những
câu chuyện đó sẽ thắp lên một que diêm trong cái lịch sử mờ ảo của Việt Nam vào
những năm giữa thế kỷ 20 cho đến ngày hôm nay.
Đọc phần I của tập sách tôi như xem một cuốn phim quay chậm.
Những kẻ một sớm chiều biến thành “Cách mạng 30/4”. Đốt sách. Cạo râu, cắt ống
quần. Cải tạo. Kinh tế mới. Đánh “tư sản mại bản”. Đổi tiền. Vượt biên. Tất cả
những biến cố đó là sự thật. Là người ở lại trong khi các đồng nghiệp tìm được
vượt biên tôi có thể nói rằng tất cả những gì Huy Đức ghi chép đều đúng. Huy
Đức không phải là người đầu tiên ghi lại những biến cố đau thương sau 1975.
Trước Huy Đức đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết lại cẩn thận những sự kiện và biến
cố làm cho miền Nam suy sụp sau ngày “giải phóng” trong tập Hồi Ký nổi tiếng
nhưng bị nhà xuất bản cắt xén khá nhiều. Chúng ta thử đọc vài trích đoạn trong
Hồi Ký của cụ Nguyễn Hiến Lê trước khi đọc sách của Huy Đức.
Kẻ “thắng trận” muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc:
“Sự thất bại hiển nhiên
của chế độ là sự suy sụp của kinh tế như tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu
quả là Việt nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng
lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong
phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.
Nhưng một người Balan
trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ
“đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt.
Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực
phẩm, quần áo… về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như
anh em miền Bắc rồi”.
Trong cùng lúc ra tay hành hạ dân miền Nam :
“Khổ nhất là bọn đi kinh
tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu
đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni
lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống
túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu
thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá”.
Trong khi đó bản thân những kẻ “thắng cuộc” thì ăn hối lộ và
tham nhũng:
“Ở tỉnh nào cũng có một
số cán bộ tham nhũng cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách
trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một
thành phố lớn thì bao nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao
nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân
công nhân viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn thời trước”.
Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất nhân phẩm:
“Một cán bộ tài chánh xã
mà không biết chia 72 cho 24. Trong một buổi hội họp của Hội trí thức thành phố
Hồ Chí Minh, một kĩ sư già bực mình vì tình trạng cán bộ đa số dốt nát, bảo:
“Tôi chấp nhận vô sản chuyên chính, mà không chấp nhận vô học chuyên chính”. Ngay
chiều hôm đó ông ta bị bắt giam; sau cũng được thả ra”.
“Sống dưới chế độ cộng
sản, con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới
để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng
giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người
kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng
làm việc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại
bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm
1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu
làm thứ mật thám chìm đó”.
Tình trạng phân chia Nam Bắc càng nặng:
“Thất bại lớn nhất, theo tôi, là
không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam
hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai
cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy
tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào
Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài
gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Ðào
Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời
phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan
trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc,
bởi vì một trong những nguyên nhân là:
“Người Bắc coi người Nam
là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự
cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ
thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt
miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí,
anh đừng nói nữa."
Chẳng bao lâu người Nam
thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy
dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật -điều này không
có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học- thèm khát hưởng lạc, ăn cắp,
hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẫy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm
trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn
kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh
em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn
nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo
để bóp vú…”.
Nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê ghi chép thời cuộc, tình hình chung, còn
Huy Đức thì cung cấp cho chúng ta những câu chuyện hậu trường, những suy nghĩ
cá nhân của những người nặn ra những chính sách ác ôn dẫn đến tình hình mà cụ
Nguyễn Hiến Lê nhận xét. Có thể nói rằng cuốn sách của Huy Đức là một bổ sung
quý báu cho hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Bây giờ chúng ta thử đọc xem Huy Đức đã cho chúng ta chứng từ để
giải thích cho những nhận xét của cụ Nguyễn Hiến Lê. Đọc xong bộ sách tôi thấy
những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:
1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn
trị. Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân chủ tập trung. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy rằng
chẳng có gì là dân chủ trong chế độ cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một
nhóm người trong Bộ chính trị quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng rất nhiều
chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người quyết định, bất
chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính độc tài là quyết định
mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng, đó là một chế độ độc tài, sao
gọi là dân chủ tập trung được.
Điều mỉa mai nhất là họ cáo buộc rằng chế độ VNCH là do Mỹ dựng
lên và tay sai của Mỹ, nhưng chính người lãnh đạo cao cấp nhất trong chế độ CS
là Lê Duẩn khẳng định rằng họ đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung
Cộng. Hình như chưa một lãnh đạo miền Nam chưa ai trơ tráo nói rằng họ là tay
sai của Mỹ. Nói cách khác, chế độ CS ngoài Bắc thời đó là một chế độ toàn trị
tay sai của ngoại bang.
Tính toàn trị còn thể hiện
qua việc Bộ chính trị kiểm soát cả hành vi xã giao của các đồng chí họ. Đọc
đoạn Huy Đức tả cái bắt tay hờ hững của cựu thủ tướng Phan Văn Khải với ông
Bill Clinton mà buồn cười về sự trẻ con và thiếu văn hoá của lãnh đạo CS. Ông
Khải không mở miệng cười với Bill Clinton. Khi được hỏi tại sao lại có hành vi
kém xã giao như vậy, ông Khải thú nhận: “Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị
đã thống nhất là không được cười”. Đoạn viết về một ông tướng công an “làm
việc” với ban giám hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội để chỉ đạo lúc nào nên cười,
lúc nào nên vỗ tay, thậm chí những hành vi xem thường ông Bill Clinton như để
cho sinh viên đọc báo trong lúc ông nói. Tất cả những hành động và sự giật dây
đó là những minh chứng hùng hồn cho thấy chế độ toàn trị kiểm soát tất cả hành
vi sống của người dân.
2.- Nội bộ thiếu đoàn kết. Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị
lãnh đạo phe CSVN là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và kinh nghiệm cá nhân, tôi mới
thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN, đặc biệt là trong giới lãnh đạo thượng
tần, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhân phác hoạ một bức tranh rất xấu
về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa tướng Võ Nguyên Giáp. Từ một tướng
vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt vòng ngừa thai cho phụ nữ! Những
ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống như các lãnh đạo thuộc phe VNCH.
Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo VNCH hành xử có văn hoá hơn và
có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.
Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn nhau. Vụ án
“Năm Châu – Sáu Sứ” được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng chí thượng
tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ còn dám dùng
cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh trai gái để tố cáo ông
Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.
3.- Tàn nhẫn. Sự hành xử của một số lãnh đạo CS cấp cao có thể nói là
tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua
đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau
khi tướng Thanh bắt Năm Châu và Sáu Sứ:
“Tôi tới phòng làm việc
của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn
Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn
Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng
chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị:
Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng
rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một,
ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng
và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta
trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí
ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII’.”
Ông Võ Viết Thanh phản ứng như sau:
“Tôi hết sức bất ngờ.
Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi
lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba
ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố
nuốt cơn tức giận.”
4.- Lừa gạt và dối trá. Người dân đã bị bộ máy tuyên truyền của
chế độ định hướng suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ em mới lớn lên đã bị bộ máy
tuyên truyền nhồi nhét rằng các vị lãnh đạo đáng kính suốt đời hy sinh hạnh
phúc cá nhân để đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ
VNCH là chế độ ác ôn, với những con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn
người lao động phải sống khổ cực. Nhưng Bên
thắng cuộc lột trần “huyền
thoại” cao cả của các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người
ăn trên ngồi trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ
sữa từ Đông Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ chăm sóc
sức khoẻ dưới danh xưng “Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương”. Người dân không có
thuốc điều trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái nền lãnh đạo VNCH có
đặc quyền đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS có đặc quyền đặc lợi phải
lên đến 100. Do đó, tất cả những gì người CS phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì
cũng chính là những gì họ phỉ báng chính họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một
cách ngửa mặt lên trời phun nước bọt.
5.- Đạo đức giả. Báo chí miền Bắc thường ra rả tuyên
truyền rằng lãnh đạo VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa thiếp, chỉ biết suốt
ngày nhảy đầm chứ chẳng có kiến thức chính trị gì cả. Họ còn viết hẳn một cuốn
sách về các tướng lãnh VNCH. Đọc cuốn này cũng là một phương thức giải trí tốt
vì các tác giả có khả năng tưởng tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì
sao? Họ là những kẻ nhiều vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn
Kiệt. Có thể cả ông Hồ. Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại
sau lưng để “theo đuổi sự nghiệp cách mạng”. Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ
như là những người để họ giải quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai
trong giới lãnh đạo CS đều sống vô đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao
cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo đức giả rất phổ biến trong giới thượng tầng
của chế độ.
6.- Dốt nát. Chúng ta biết rằng những người cộng sản
thế hệ thứ nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (không tính đến
những người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ) là những người có trình độ
học vấn khá và có bản lãnh. Nhưng Bên
thắng cuộc tiết lộ rằng những
người thuộc thế hệ đàn em của những người tiền phong toàn là một nhóm người ít
học. Những lãnh đạo như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đều xuất
thân từ thành phần không có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh
tụ có khi đến mức hài hước. Trong phần viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được
biết ông Đỗ Mười nói về bệnh trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông
Nguyễn Văn An, như sau: “Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi
mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì
đấy là khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ”. Thật kinh hoàng khi những con người
như thể được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!
Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo CS
có tầm nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém
học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới ngoài các
nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm và những lựa
chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng sau việc thiết lập quan
hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới lãnh đạo CS thiển cận và làng xã
trong những nhận xét của họ về một đối thủ rất quan trọng.
Chúng ta thử đọc một đoạn “Cứu chủ nghĩa xã hội” để thấy ông
Nguyễn Văn Linh có tầm nhìn và hành xử đầy kịch tính ra sao. Đọc cũng để thấy
Gorbachev chẳng những mỉa mai mà còn khinh Nguyễn Văn Linh như thế nào:
Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành
tinh:
Tháng 10-1989, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày
thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Quyết
định đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định trực tiếp của cá
nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc phải triệu tập
một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào
cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng
chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh
nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Bị đối xử như thương gia tầm thường:
Ngày 4-10-1989, từ Hà
Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế
hạng thương gia, các thành viên cao cấp khác – Phó Thủ tướng Nguyễn
Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc
Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng Doanh – chỉ ngồi khoang hành
khách thường.
Bị xem thường:
Một lễ đón đơn giản
được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld rồi sau đó đoàn về khách
sạn. …. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức không thu
xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với Honecker hay một nhà
lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ
bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã hội.
Đến nơi ở của các
nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn
Văn Linh. … Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng
các thành viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một
khu vực gồm nhiều phòng. Ông Linh và tùy tùng phải đi qua
một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người bồng tiểu liên AK báng
gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi chờ rất lâu. Ông Linh
nói: “Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó”. Tôi bảo: “Tính thằng này
nó hình thức thế”. Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta lại là
người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất.
Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và
các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: “Vấn đề là ông kia,
nếu ông ấy không đồng ý thì rất khó”. “Ông kia” đề cập ở đây là
Gorbachev.
Dù ông Linh rất nhiệt tình cứu XHCN nhưng người ta làm ngơ:
Trong ngày 6-10-1989,
giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo
cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông
đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế. Ông Linh nói: “Phe ta đang diễn biến phức tạp. Hơn bao giờ
hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng Cộng sản
Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành
động, tăng cường tình đoàn kết”.
Đa số các đảng cộng
sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho Tổng Bí thư Mông
Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của
Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch
Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là chấp nhận gặp. Chỉ
có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó thủ tướng
Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những
người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.
Sau nhiều cuộc trì hoản thì ông Linh cũng được Gorbachev cho một
cuộc gặp mặt. Nhưng đó là một cuộc gặp mặt để Gorbachev khinh miệt ông Linh.
Chúng ta hãy đọc tiếp:
Từ 19 đến 21 giờ tối
6-10-1989, sau phần đọc diễn văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong
một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước
đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu
tên Gorbachev, “Gorby! Gorby!”. Anh Linh chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ
xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng
run bần bật, kêu tôi: “Tao lạnh quá”. Tôi phải nói với một viên tướng
Đức đứng cạnh đấy: “Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm”. Viên tướng
cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
Sáng hôm sau, 7-10-1989,
theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn
Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: “Mình
thấy có gì đó không bình thường, không nhắm được mắt, miệng cứng,
không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định đó là triệu chứng liệt dây
thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra lễ đài, ông Nguyễn
Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với “bạn”. Phía CHDC Đức mời
ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc này.
Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có
biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy
vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.
Cuộc gặp Gorbachev dự
kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ
cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo
ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng
thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh
ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai
ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một
ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev
được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà
lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa
lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong
phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một
tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn
một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón
ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: “Kẻ cơ hội nhất
hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Dù đang bệnh, ông
Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng
Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt”
nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: “Tôi đã gặp một số
đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam
muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong
trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: “Ý
này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!”.
Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam . Gorbachev lại kêu lên: “Hay
quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa
biết thu xếp cái nào trước”.
Cuối cùng, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và
khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995
của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần
trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam
tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân
và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong “tình hữu nghị thắm
thiết”.
Đọc những đoạn trích dẫn
rất sống động này tôi phải nói là rất nhục. Là lãnh tụ một đất nước 90 triệu
dân mà không nắm được tình hình thế giới để bị các lãnh đạo của chính thế giới
XHCN xem thường như thế. Ông Nguyễn Mạnh Cầm có lẽ là người ngoại giao nên còn
biết được tình hình thế giới. Ông đưa ra nhận xét rằng “Nhận thức của một số
đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình
hình thế giới”. Không theo kịp tình hình thế giới có nghĩa là sống trong
cái ao làng. Chẳng biết ông Linh có hiểu những câu nói của Gorbachev hay không.
Thật là nhục nhã. Tất cả cũng vì cái dốt.
Cái dốt của lãnh đạo CS còn thể hiện qua lần tiếp kiến giữa ông
Lê Khả Phiêu và Bill Clinton. Trong buổi tiếp kiến, trong khi Bill Clinton nói
về tương lai hợp tác, ông Lê Khả Phiêu lại tận dụng chuyện Bill Clinton “trốn
lính” làm cho ông Bill Clinton rất giận và chắc chắc cũng rất khinh thường
người đối diện mình:
“Bill Clinton nhớ lại:
“Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam
của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất
giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete
Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh
đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt
Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân,
mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói,
ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn
thực dân hóa Việt Nam”.
“Ông Phan Văn Khải
nhớ lại: “Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu.
Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình
hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề
là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không
vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”. …
Clinton nhận xét,
dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao hơn
thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ hơn”.
Sự dốt nát chính là một
nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc bỏ lỡ cơ hội để phát triển đất nước. Câu
chuyện xung quanh ký hiệp định thương mại song phương BTA cho thấy giới lãnh
đạo thượng tầng CS rất sợ Trung Cộng. Ông Nguyễn Mạnh Cầm nói “Tôi tiếc
đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ
cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng
xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam .
Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội”. Không chỉ BTA, ngay cả những chần
chừ để trở thành thành viên của ASEAN cũng phản ảnh sự kém hiểu biết của những
người lãnh đạo CS chóp bu.
Sự dốt nát và kém hiểu biết
của người CS không phải chỉ biểu hiện trong giới lãnh đạo mà còn ở những người
trong giới học thuật và chuyên môn. Sau 1975 tôi đã có nhiều “tiếp cận” với
những đồng nghiệp y khoa từ Bắc vào. Tôi có thể nói một cách không ngần ngại
rằng trình độ của họ quá kém. Có lần một anh bác sĩ nghe nói là cấp cao ngoài
đó mà viết tên thuốc trụ sinh còn sai. Không phải sai một lần mà nhiều lần. Chỉ
nhìn nét chữ cũng có thể biết được anh chàng này thuộc thành phần bác sĩ gì.
Ngay cả những người được “chi viện” để tiếp thu trường y Sài Gòn cũng là những
người rất kém cỏi về kiến thức và kỹ năng lâm sàng. Họ bị các thầy trong Nam
khinh ra mặt. Do đó tôi không hề ngạc nhiên khi đọc những dòng chữ viết về phản
ứng của giới trí thức trong Nam
trước những chính sách quái đản được áp dụng sau 1975. Họ vận hành theo tư duy
rặt mùi cộng sản. Cứ đến ngày kỷ niệm nào đó họ hỏi có thành tích khoa học gì
để chào mừng và nhận được câu trả lời của thầy Phạm Biểu Tâm: “Không có thứ
khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả”. Sau này trong một lần họp bàn
về cách giải quyết hệ thống nước bị đục, giáo sư Phạm Biểu Tâm không phát biểu
gì cả. Đến khi bị ông Võ Văn Kiệt gặn hỏi, giáo sư Tâm vốn rất quý ông Kiệt,
chỉ nói đơn giản “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng
đã có các anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.
Đối với giới trí thức miền Nam
ngày ra mắt đầu tiên của chính quyền không hề thuyết phục được họ. Cho đến bây
giờ tình hình vẫn thế.
Bên thắng cuộc đã trở thành một tác phẩm bán chạy. Nếu
được công bố ở trong nước tôi nghĩ chắc chắn bộ sách sẽ qua mặt bất cứ cuốn
sách nào đang có trên thị trường. Đọc xong bộ sách tôi hiểu được tại sao nó nổi
tiếng. Theo tôi, Bên thắng
cuộc được nhiều người quan
tâm vì trong đó có rất nhiều những câu chuyện hậu trường chính trị. Đặc biệt
hơn là tất cả những câu chuyện hậu trường đều nói lên những hình ảnh tiêu cực
của giới lãnh đạo CSVN. Khó tìm một câu chuyện nào mang tính tích cực trong
sách. Trong đó có những con người ít học nhưng ngạo mạn. Đó là những con người
đạo đức giả. Đó là những con người sẵn sàng chấp nhận đớn hèn để sống trong môi
trường tàn ác. Đó là những con người tàn nhẫn và xảo trá. Những cá tính lãnh
đạo như thế là tác giả của những quyết sách đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Họ dẫn đất nước bỏ mất cơ hội hết năm này sang năm khác. Những câu chuyện như
thế giúp cho chúng ta nhìn thấy rõ hơn cái tâm kém và cái trí thấp của một số
đông lãnh đạo chóp bu và giải thích tại sao đất nước và dân tộc chúng ta đã quá
bất hạnh trong suốt 70 năm qua. Họ là nguyên nhân gần và tác nhân trực tiếp đã
đưa đất nước nghèo hèn như hiện nay. Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012
BS Ngọc - Hội chứng hoang tưởng
Blog BS Ngọc
Hội chứng hoang tưởng (paranoid personality disorder, sẽ viết tắt là PPD) là một rối loạn tâm thần với đặc điểm là người mắc bệnh hay nghi kỵ người khác. Người mắc bệnh PPD không có khả năng tin tưởng vào người khác, nhìn người khác như là những người thù địch. Có thể nói rằng bệnh nhân PPD rất giống với người cộng sản.
“Thế lực thù địch” là cụm từ mới xuất hiện gần đây, nhưng đã trở thành khá phổ biến. Chỉ cần gõ “thế lực thù địch” trong hộp tìm kiếm của Google tôi được kết quả hơn 2 triệu kết quả trong vòng 0,26 giây. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình không ngớt lớn tiếng cảnh báo người dân rằng thế lực thù địch đang len lỏi vào guồng máy của Nhà nước, đang gây tác hại nghiêm trọng cho Việt Nam. Có khi họ cảnh báo rằng thế lực thù địch đe doạ đến sự sống còn của đảng, của Nhà nước và sự an sinh của người dân. Có thể nói rằng những người làm truyền thông cho đảng đã dùng thế lực thù địch như một con ngáo ộp, kích động người dân, làm cho người dân cảm thấy bất an.
Chỉ một thời gian ngắn tiến hoá “thế lực thù địch” đã trở thành một câu thần chú của người cộng sản. Trong bài diễn văn dài bế mạc Hội nghị 6 gì đó của ngài tổng bí thư NPT có đoạn: “Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”. Trong những năm qua, dường như trong đầu óc của những người cộng sản họ chỉ nghĩ đến những thế lực thù địch. Ngay cả khi đất nước ở trong tình trạng thù trong giặc ngoài như thế mà họ chỉ nghĩ đến thế lực thù địch! “Thế lực thù địch” gần như là một câu kinh của những người cộng sản Việt Nam trong thế kỷ 21.
Nhưng ai là thế lực thù địch thì chẳng ai biết nhưng có thể đoán được. Dù họ không nói thẳng ra ai là thế lực thù địch, nhưng ai cũng hiểu rằng bất cứ người nào phê bình chính sách của đảng đều được xếp trong danh sách thù địch. Mỹ và các nước phương Tây được Trung cộng xem là thế lực thù địch. Người cộng sản Việt Nam cũng xem Mỹ và các nước phương Tây là thế lực thù địch dù họ rất thích gửi con cháu sang đó du học. Người dân đi biểu tình chống Trung cộng xâm lăng cũng bị xem là thế lực thù địch, là phản động. Một điểm đáng nói ở đây là bất cứ ai mà Trung cộng xem là thế lực thù địch thì người cộng sản VN cũng xem là thế lực thù địch.
Vì không biết cụ thể thế lực thù địch là ai, nên chúng ta có thể tạm cho đó là một thế lực ma. Ma là một khái niệm trừu tượng, thường đề cập đến người đã chết, nhưng vì còn ân oán với người cõi trần nên hay hiện về để nhát. Ma không hiện hình mà chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của con người. Người sợ ma là người thiếu tự tin. Thiếu tự tin nên họ tin vào thần thánh, bùa ngải. Thiếu tự tin là một thể hiện của người bất an và thiếu học vấn. Nếu là người có tự tin và học vấn thì không ai tin vào ma quỷ, chẳng ai khấn nguyện nhờ đến thần thánh để che chở. Chỉ có người vì biết mình bất tài, biết mình thất học, biết mình làm chuyện ác ôn, nên mới cảm thấy bất an và hô toáng lên là có ma. Do đó, có thể nói rằng người cộng sản đang hô toáng thế lực thù địch cũng có nghĩa họ đang bất an.
Nhưng tại sao người cộng sản lại đa nghi, không tin người dân? Nghĩ một chút tôi thấy những gì người cộng sản suy nghĩ, nói và làm rất phù hợp với những đặc điểm của hội chứng hoang tưởng PPD hoặc hội chứng phản xã hội. Tôi sẽ bàn về hội chứng PPD trước.
Hội chứng hoang tưởng
Triệu chứng nổi bật của người mắc chứng PPD là không tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi ngờ người khác, nghi ngờ cả người thân và đồng nghiệp. Người mắc bệnh PPD có những đặc tính nổi bật như thiếu tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi kị người khác. Trong đầu của bệnh nhân PPD là người khác lúc nào cũng tìm cách ám hại mình, bất cứ hành động mang tính tích cực nào của người khác cũng được hiểu là có ý đồ xấu xa. Điều này rất đúng với người cộng sản vì họ không tin ai cả. Trong xã hội do người cộng sản điều hành và cấu tạo nên, ai cũng nghi kỵ lẫn nhau. Ngay cả trong gia đình cũng nghi kỵ lẫn nhau. Trong xã hội VN hiện nay mọi thành viên đều là những người tù dự khuyết. Bầu Kiên có thể là anh hùng hôm qua nhưng đùng một cái là tù nhân. Một ông cựu bộ trưởng đáng kính vẫn có thể đi tù dễ dàng. Người cộng sản không tin ai cả vì chính họ cũng không tin họ nói thật. Ngoài triệu chứng chính vừa đề cập người mắc chứng PPD còn có một số biểu hiện như sau:
Một là nghi ngờ người khác một cách vô căn cớ, nghĩ rằng người khác đang lợi dụng mình, hãm hại mình, hay lường gạt mình. Người cộng sản lúc nào cũng nghi ngờ người ngoài đảng. Họ xem người ngoài đảng như tín đồ Hồi giáo xem người không theo đạo Hồi là những kẻ ngoại đạo, đáng nghi ngờ. Chính vì suy nghĩ này mà người cộng sản chỉ chia chác quyền lực và đặc lợi cho người trong đảng. Nói ra thì có vẻ quá đáng như đảng Mafia cũng làm như thế. Vì nghi ngờ nên người cộng sản xem bất cứ việc làm gì của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là những thế lực đáng ngại, cần phải theo dõi. Chính vì thói nghi ngờ và thiếu tự tin nên họ không tin vào Việt kiều. Bao nhiêu trí thức Việt kiều muốn góp một tay cho chế độ mà có được đâu. Ngay cả những người trí thức trong nước góp ý chân tình cho họ mà vẫn bị theo dõi, thậm chí bắt bớ giam cầm.
Hai là bị ám ảnh bởi những nghi ngờ về sự trung thành và tin cậy của bạn bè, đồng nghiệp. Khi người khác giúp họ thật tình, họ cũng nghi ngờ sự giúp đỡ đó. Mỹ muốn giúp đào tạo chuyên gia cho VN, nhưng người cộng sản nhìn đó như là một thế lực đe doạ, và xem Mỹ như kẻ thù. Ngay cả trong nội bộ đảng họ cũng có cơ chế kiểm tra hành động của đảng viên. Đi xa hơn kiểm tra hành động là kiểm soát tư tưởng của đảng viên. Do đó, toàn bộ đảng viên trở thành những con cừu, chỉ biết suy nghĩ và nói theo một định hướng. Những ai có suy nghĩ khác thì sống bằng cuộc sống 2 mặt. Bên Tàu có một cuốn tiểu thuyết mô tả một nhân vật sống 2 mặt rất sống động. Sáng sớm anh ra vườn sau chửi bới đảng cộng sản, chửi xong, anh thay đồ đi làm và lên lớp ca ngợi công ơn trời biển của đảng!
Ba là không muốn chia sẻ thông tin với người khác vì họ sợ thông tin sẽ được sử dụng để chống lại hay ám hại mình. Người cộng sản xem thông tin là vũ khí. Mà vũ khí thì có thể dùng để gây tác hại. Do đó, người cộng sản kiểm soát toàn bộ thông tin. Từ báo chí, đài phát thanh, đến đài truyền hình và mạng, họ kiểm soát tất cả. Thật ra, đây là một hành động suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ từng lũng đoạn thông tin và lợi dụng tự do thông tin để gây tác hại đến đối phương.
Bốn là lúc nào cũng diễn dịch ý nghĩa tiềm ẩn đằng sau mỗi thông tin và sự kiện vì họ nghi ngờ rằng thông tin được trình bày chỉ là bề mặt, còn đằng sau là hàm ý ám hại họ. Người cộng sản rất thích nói về “bản chất và hiện tượng”. Những gì xảy ra họ xem là hiện tượng, họ không quan tâm mấy, nhưng họ rất quan tâm đến bản chất. Khi công an “làm việc” với ai họ nghi là “phản động” (nghi ngờ là bản chất của họ) thì câu hỏi xoay quanh ai đứng đằng sau việc làm của người đó. Đây cũng là một bản chất mang tính suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ đứng đằng sau xúi dục trí thức miền Nam xuống đường chống lại chế độ Mỹ-Thiệu. Tương tự, khi người dân xuống đường đòi đất, họ không quan tâm giải quyết vấn đề mà chỉ truy tìm mầm mống mà họ gọi là “phản động”.
Năm là lúc nào cũng tỏ thái độ đố kỵ, thù hận. Người mắc bệnh PPD không có khả năng tha thứ, họ luôn tìm cách dìm người khác, nói xấu người khác và khi cần ám hại họ. Tha thứ không có trong từ điển ngữ vựng của người cộng sản. Họ đày đoạ quân lính, sĩ quan, viên chức của chế độ cũ ra sao thì chúng ta đều biết. Có thể nói đó là một chương sử đen tối nhất của người cộng sản.
Một đặc điểm khác là người mắc chứng PPD rất huênh hoang. Họ tự xem mình là tài giỏi nhất thế giới, là trường tồn. Đặc điểm này cũng giống với người cộng sản. Họ tự xem mình là “quang vinh”, là tài ba nhất thiên hạ, là “đỉnh cao trí tuệ”, là bách chiến bách thắng. Họ không ngần ngại tuyên bố đảng của họ là “muôn năm” dù trong lịch sử nhân loại không có chế độ nào hay đảng phái nào tồn tại muôn năm.
Tất cả những đặc điểm của chứng bệnh hoang tưởng vừa mô tả trên đều rất phù hợp với người cộng sản. Theo y văn thì hội chứng PPD khá phổ biến trong dân số. Trên thế giới, thống kê cho biết có khoảng 0.5 đến 3% người mắc chứng hoang tưởng. Nam giới có khuynh hướng dễ mắc PPD hơn nữ giới. Phần lớn những người mắc chứng PPD ở độ tuổi 40-50. Hiện nay có khoảng 3 triệu đảng viên đảng CSVN, chiếm 3% dân số. Con số này cũng phù hợp với y văn thế giới. Số nam đảng viên cao hơn nữ đảng viên. Do đó, số người mắc chứng hoang tưởng nhiều hơn trong nam giới, cũng phù hợp với y văn thế giới.
Hội chứng phản xã hội
Một hội chứng có liên quan đến PPD là hội chứng phản xã hội (antisocial personality disorder, viết tắt APD). Đặc điểm chính của APD là khuynh hướng không quan tâm đến quyền lợi của người khác, hay xâm phạm quyền lợi người khác. Hội chứng này cũng rất phù hợp với người cộng sản vốn rất vô cảm và có khi tàn ác. Người mắc chứng APD có những triệu chứng như sau:
Một là không sống theo chuẩn mực xã hội. Họ không tôn trọng luật pháp, họ sống theo luật của chính họ đặt ra. Người cộng sản một mặt nói đến luật pháp như là một khuôn mẫu về trật tự xã hội, nhưng khi hành động thì hoàn toàn trái với pháp luật. Họ bắt người một cách tuỳ tiện. Muốn bắt thì bắt, không cần đến luật pháp, toà án. Họ thậm chí còn tuyên bố “luật là ta, ta là luật”. Mà đúng như thế. Họ ngồi xổm trên luật pháp.
Chúng ta thấy một mặt họ kêu gọi thắt lưng buộc bụng, nhưng mặt khác họ sống như những bậc đế vương thời phong kiến mà họ từng nguyền rủa. Trong khi người dân chen chúc nhau trong bệnh viện, họ có bệnh viện riêng, bác sĩ riêng, thậm chí còn có cả vườn rau riêng, đàn bò sữa riêng. Họ ra điều luật cho cán bộ cao cấp không được kết hôn với những ai có gốc gác “nguỵ”, nhưng con gái thủ tướng thì được lấy con trai của cựu thứ trưởng “nguỵ”. Con gái tổng bí thư Lê Duẩn cũng được kết hôn với người Nga, trái 180 độ với qui định do chính ông đề ra! Người cộng sản nói một đằng làm một nẻo.
Hai là lường gạt, giả dối. Người mắc chứng ADP rất hay nói dối, dùng tên giả để nói xấu người khác. Nói dối, với người cộng sản, là một quán tính. Họ có thể biến trắng thành đen, nói đen là trắng. Điển hình như vụ việc ở Văn Giang, Tiên Lãng. Họ cho công an đánh dân, nhưng đài báo thì nói là “xã hội đen”. Ai cũng biết lãnh đạo cộng sản hay dùng tên giả. Có người dùng đến cả trăm tên giả! Thời chiến thì có thể hiểu được, nhưng thời bình họ cũng dùng tên giả. Mỗi khi muốn nói xấu ai họ cho phóng viên ký tên giả để tha hồ viết. Ai cũng biết đó là một thái độ tiểu nhân, nhưng họ làm gì có quân tử tính mà chúng ta phải ngạc nhiên. Còn tính giả dối của người cộng sản thì gần như là một đặc tính tiêu biểu. Giả dối về lịch sử như vụ Lê Văn Tám. Giả dối trong khoa học. Giả dối trong giáo dục. Giả dối bằng cấp. Lĩnh vực nào cũng giả dối. Nói chung sau 37 năm thống trị, người cộng sản đã biến một xã hội lành mạnh trở thành một xã hội giả dối.
Ba là hung hãn, hay đánh người. Người cộng sản xem công an không phải là lực lượng bảo vệ an ninh cho dân mà là một thanh kiếm của đảng. Kiếm thì chỉ dùng cho chuyện đâm chém, giết người, răn đe. Nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy công an là một kiêu binh thời nay. Công an bắt người vô cớ, đánh người, giết người thoải mái. Giết người trong đồn. Giết người trên đường lộ. Dàn cảnh gây tai nạn. Tất cả những hành động này cho thấy công an là những người mắc bệnh phản xã hội.
Bốn là làm việc tuỳ tiện. Sự tuỳ tiện của người cộng sản có thể nói là ghê gớm. Qua bên Hàn Quốc thấy người ta có những tập đoàn lớn, về nhà cũng bắt chước làm theo mà không có chiến lược gì cả. Dự án đường sắt cao tốc giá trị mấy chục tỷ đôla chỉ có vài chục trang giấy. Hậu quả là Vinashin, Vinalines gây tổn hại ngân sách quốc gia hàng trăm ngàn tỷ đồng. Họ quen làm việc như thời chiến, nên không có quốc sách lâu dài nào cả.
Năm là tỏ ra vô trách nhiệm. Ông Nguyễn Cao Kỳ lúc còn sinh tiền có lần nhận xét rằng trong hệ thống chính quyền VN không ai chịu trách nhiệm cả. Điều này đúng vì đảng là người đứng đằng sau chính phủ, nhưng đảng không chịu trách nhiệm. Người cộng sản gây ra nhiều thảm hoạ chính trị và kinh tế cho đất nước. Cải cách ruộng đất. Nhân văn giai phẩm. Trại “học tập cải tạo”. Vinashin. Vinalines. Mất Hoàng Sa vào tay kẻ thù. Nhượng một phần thác Bản Giốc cho kẻ thù. Chúng ta nghĩ rằng người cộng sản sẽ chịu trách nhiệm trước toàn dân, nhưng không. Họ không nhận lỗi. Họ rất vô trách nhiệm.
Sáu là không có cảm giác ăn năn hối lỗi và vô cảm. Vô cảm là một đặc điểm rất nổi bật của bệnh nhân ADP. Bệnh nhân ADP rất bàng quang trước những gì xảy ra trước mắt họ. Thấy người ta bị nạn, họ chỉ đứng nhìn mà không có một hành động giúp đỡ hay một lời phân ưu. Người cộng sản cũng thế. Những cái chết trong đồn công an trong thời gian gần đây là một minh chứng hùng hồn. Chúng ta còn nhớ ông Trịnh Xuân Tùng trong khi bị đánh gần chết chỉ muốn uống nước mà họ cũng không cho. Bà Liêng ở Bạc Liêu tự thiêu chẳng làm cho 700 tờ báo động lòng. Trong khi đó Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây ra một làn sóng căm phẫn trong dư luận báo chí thời trước 1975. Người cộng sản không ăn năn xám hối trước những cái chết như thế. Họ cũng chẳng bao giờ xin lỗi những vong hồn trong vụ Mậu Thân ở Huế hay vụ Cải cách ruộng đất. Có thể nói rằng người cộng sản rất vô cảm. Và khi họ cai trị đất nước sau 37 năm thì cả nước cũng trở nên vô cảm.
Tóm lại, những người cộng sản có lẽ đã và đang mắc chứng hoang tưởng PPD và phản xã hội APD. Nhận ra bệnh để mà chạy chữa. Nhưng cái khó là cả hai bệnh này đều là bệnh tâm thần, hay cũng có thể nói là bệnh liên quan đến thần kinh, nên rất khó chữa trị.
Để tìm phương án chữa trị, cần phải biết nguyên nhân gây bệnh. Các chuyên gia tâm thần cho rằng bệnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân tương tác xã hội. Khi người ta trưởng thành một môi trường đảng, qua tương tác, bị tiêm nhiễm những giáo điều, thói quen và suy nghĩ của đảng, và dẫn đến bệnh.
Nếu chẩn đoán trên là đúng và nếu nguyên nhân xã hội là đúng thì có lẽ biện pháp điều trị bệnh này là hoàn toàn có thể. Nga và các nước Đông Âu đã điều trị bệnh này. Họ cũng đã thành công. Nếu vì sức khoẻ của đất nước, những người cộng sản Việt Nam nên xem trường hợp Nga và Đông Âu như là những kinh nghiệm chữa trị bệnh hoang tưởng và phản xã hội.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)