Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Văn Bồng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Văn Bồng. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013
Bùi Văn Bồng - Ở đâu cũng có nỗi sợ!
Bùi Văn Bồng -
Người Việt hiện nay rất dễ bị stress vì chỗ nào cũng đầy sự sợ hãi, đủ kiểu phát sợ. Sau thắng cuộc 1975, Việt Nam nổi tiếng trên thế giới là dân tộc anh hùng, một dân tộc kiên cường gan góc chống giặc ngoại xâm, một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, đã mấy nghìn năm không bao giờ chịu khuất phục trước mọi thế lực ngoại bang xâm lược, thôn tính.
Thế nhưng, hiện nay cả dân tộc đang đặt trước nhiều nỗi sợ, thậm chí bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết, người dân cả nước đã thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, nay rất yêu chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối với dân tộc Việt Nam là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời này sang đời khác. Nay tuy đã 25 năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường Sa (1988), nhưng đất nước vẫn chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập cận kề.
Rõ nhất là những ẩn chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng phát chiến tranh biển-đảo, biên giới. Vì thế, nối sợ chiến tranh, nỗi sợ mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường trực ngày đêm, canh cánh không yên lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất. Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền đang rất sợ Đảng Cộng sản bị tiêu vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này, gần đây đã liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng. Đảng càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị coi là nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên Bộ Chính trị, các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất Đảng, nhiều người đã tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này rồi thì tình huống “vong” của Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà "một bộ phận không nhỏ lãnh đạo có chức có quyền suy thoái, biến chất" thì còn đâu sức sống? Tồn tại càng lâu thì tác hại đến xã hội càng lớn, chưa nói đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo xã hội! Lãnh đạo cũng rất "đề cao cảnh giác", sợ nhân dân biểu tình chống tham nhũng, đòi quyền lợi hợp pháp, đòi công bằng xã hội, đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc. Họ gọi những người dân đấu tranh đòi công lý, đòi quyền ldân chủ là "đối tượng", là "thế lực thù địch"...
Suy cho cùng, nhất là sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng ta cứ liên tục đưa ra, có khi hô toáng lên nào là “diễn biến hòa bình”, nào là “thế lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên thua cuộc”, nào là mầm mống phản động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi “đa nguyên đa đảng”…Nghĩa là, Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc nào cũng sợ kẻ nào đó giật mất quyền của mình. Nhưng, gần đây, những tiếng nói trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc phải công nhận. Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá, không có ‘diễn biến hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên nhân chính là Đảng ta đã tự pha sbanh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự diễn biến”, nghĩa là người cộng sản tự đào hố chôn mình! Phân tích cho rõ: “Diễn biến hòa bình” là sự mắc mưu Trung Quốc, họ muốn độc tôn với Việt Nam, muốn chính phục, chi phối Việt Nam từ chính trị đến đối ngoại, từ kinh tế đến van hóa-xã hội. Nghĩa là sự thôn tính thông qua cái gọi là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của “xâm lược mềm”, chinh phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu, phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta đã gói chặt ôm về “gối đầu giường” từ sau Hội nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào thần kinh và nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về” 16 chữ vàng, 4 tốt, để mê muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng khác nào Bạch Cốt Tinh hóa cô nằng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy. Như thế, các vị, các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính mình trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ thường trực, do sự chuyển hóa rất siêu nghệ của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng Mác-xít) là chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân, bỗng quay sang “chuyên chính với nhân dân”, chuyên chính vơi sngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự khoe là “ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”…Đã có quyền trong tay, thế lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảngngày càng đông đảo, được chính quy hóa, nhất là công an, thanh bảo kiếm trung thành bảo vệ Đảng, ai mà không ngán? Dù bài hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3: “Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được mang danh thanh bảo kiếm trung thành / bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực lượng công an rất tài. Chỉ thấy bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và cũng qua đó mất đi ý nghĩa “chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng, khi người dân thấy bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản xạ thường trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng kêu gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn dân đánh giặc, nuôi chí anh hùng; nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem nhẹ, coi thường lòng yêu nước, làm nhụt chí anh hùng, xóa nhòa niềm tự hào dân tộc. Mọi nỗ lực dân chủ đều bị khoanh hẹp, thậm chí triệt tiêu, quyền lực của dân bị chặt hết, đồng tiền có quyền lực tối cao, chức quyền ra sức thống trị; cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán ngại, sợ sệt đối với người dân. Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh cả tính mạng, của cải để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo vệ dân, còn ức hiếp dân, thậm chí nặng về quan liêu, mệnh lênh: "bảo cái gì dân cũng phải nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ cần nhận diện và thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe đài, đọc báo, mở mạng Internet, thậm chí cả khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều bị theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết chuyện này đến tội danh tội trạng khác? Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó sau, tự biết canh chừng, sợ “ếch chết vì ộp ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường trực ngày đêm của mọi công dân, kể cả trí thức, nhà báo, đảng viên đến mức mát hẳn quyền con người, ăn không ngon, ngủ không yên là do ai gây nên? Do quan điểm của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lọi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý: Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ sẵn tiền, chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ công an, công an sợ côn đồ, dân lành sợ lưu manh, làm ăn sợ đánh thuế, mua hàng sợ hàng gian hàng giả, ăn uống sợ độc hại, sợ nắc bệnh ung thư. Rồi nữa: Đảng viên sợ 19 điều cấm; đi bộ đội sợ hy sinh không được công nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp hương đặt hoa tưởng niệm; người lao động sợ mất việc, học nghề sợ thất nghiệp, ra chợ sợ giá cả, ốm đau sợ không đủ tiền mua thuốc
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?…? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: … Tình chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ / Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương / Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. / Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai cũng canh cánh nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt đẹp, là "ưu việt"? Làm sao mà phát triển được đất nước sánh vai với các nước? Cho nên, với hiện trạng này, câu kết trong các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng ‘bổ cũ soạn lai’ đọc đến phát ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng nhàm chán, vô nghĩa mà thôi.
BVB
Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013
Bùi Văn Bồng - Lối sống né tránh, co lại
Bùi Văn Bồng
Trong vụ tố cáo tiêu cực (nhân bản) xét nghiêm máu để vụ lợi ở bệnh viên huyện Hoài Đức mới đây, lúc đầu có 5 người ký tên đứng ra tố cáo. Mấy hôm sau, hai người đã rút đơn tố cáo là Phạm Thị Oanh và Nguyễn Thị Cường. Lý do được cả hai người đưa ra là do áp lực từ phía gia đình. Đối với chị Oanh, việc ký vào đơn tố cáo không được sự ủng hộ của gia đình nhà ngoại cũng như chồng chị. Thậm chí chị còn bị đánh đập và đuổi ra khỏi nhà vì đã ký vào đơn tố cáo. Còn chị Cương thì do gia đình không đồng ý, ngoài ra hai người con của chị đã phải quỳ xuống van xin chị rút đơn.
Hiện trạng này biểu hiện những nỗi sợ bị tru úm, bị liên lụy, bị trả thù và nhất là sự can thiệp của chính quyền, đoàn thể, công an, có khi xã hội đen, côn đồ. Sự bình yên, an toàn, chắc ăn về môi trường sống và yên bề làm ăn đã dẫn tới lối sống co lại. Sự vô cảm cũng phát sinh từ đó.
Anh bạn tôi ở Đồng Nai kể rằng vợ anh đã đập máy vi tính vì chống thường truy cập đọc tin tức trên mạng. Sau hôm họp dân phố, bà được phổ biến: “Mọi ngươi không được truy cập mạng internet. Ai vị phạm sẽ bị chính quyền xử lý, con bị đuổi học, con cái sẽ bị mất việc làm…”. Bà vợ nghe vậy sợ quá, về khuyên chống đừng mở máy tính. Nhưng ông chồng nói không sao, đừng có nghe mấy ông khu phố, tổ dân phổ không nắm chắc chủ trương, quan trọng hóa vấn đề đến mức cực đoan, quá tả. Hai vợ chồng cự cãi nhau. Bà vợ sợ bị liên lụy, nóng tính đã đập vỡ máy vi tính xách tay. Lối sống co lại còn để tránh đấu tranh, tránh né phê bình, vì “đấu tranh-tránh đâu”, giữ yên cái ghế, chỗ làm và cả quyền lợi cá nhân.
Lối sống co lại là một phản xạ tự nhiên. Một ông Chủ tịch tỉnh ký nhiều quyết định thu hồi đất sai trái, dân khiếu kiện nhiều lần không giải quyết. Vì né tránh ‘tội”, thấy dân là co lại.
Một vị giám đốc bất tài, nhưng vì bỏ tiền mua bằng cấp, mua chức, ai cũng biết. Mỗi làn gặp cán bộ nhân viên là co lại. Vì họ biét mình còn khuyết điểm nặng hơn họ, chẳng dám nghiêm khắc với ai.
Một vị quan tòa xử nghiêng lệch về phía bị đơn, khiến cho công lý về phía nguyên đơn bị vùi dập, co lại.
Một người đứng đầu cơ quan tham nhũng, thủ đoạn, khi họp chi bộ, họp đảng ủy, co lại.
Một cán bộ sắp đến kỳ lên lương, hoặc trong nguồn bồi dưỡng đào tạo, thấy Bí thư Đảng ủy, Thủ trưởng sai sờ sờ, nhưng vì nghĩ cái lợi trước mắt cho mình, co lại…vv.
Đó là sự co lại của các vị quan chức phạm sai lầm. Họ biết sai chứ không phải là vô tình. Họ cố ý làm sai, chứ không phải là do trình độ năng lực yếu kém, hoặc do thiếu thông tin gì cả. Vì họ tự biết điều đó là vi phạm đạo đức, phẩm chất cán bộ đảng viên, vi phạm pháp luật, nhưng vì tham tiền, vì ôm cái cục cá nhân chủ nghĩa quá to, họ cứ làm. Làm sai, làm liều rồi, khi gặp bối cảnh, tình huống, con người nào đụng đến, hoặc ai đó có khả năng lôi mặt ra, buộc họ phải co lại. Chính họ đã làm mất cái giá trị quý nhất của con người là lòng tự trọng và quyền được sống tự do thoải mái.
Còn người dân và cán bộ nhân viên thấp cổ bé họng cũng sống co lại.
Họ sợ đấu tranh-tránh đâu, nên co lại, không muốn đụng đến chuyện đấu tranh phê bình ai cả. Họ tặc lưỡi: “Thôi, chả dại! Chuyện của cả cơ quan, của làng xóm, của toàn xã hội, đụng đến làm gì? Không khéo chẳng phải dầu cũng phải tai, sinh vạ”.
Một thanh niên đang phấn đấu vào Đảng, thấy các đảng viên làm sai, họp chi đoàn mặc dù được khuyến khích đoàn viên góp ý với đảng viên, nhưng co lại: “Thôi, đụng đến, nó đì, nó trù úm, mất phiếu, vào đảng sao được!”. Tốt nhất là co lại!
Một người dân được chính quyền mời họp, mời góp ý “xây dựng đảng, chính quyền vững mạnh”. Nhưng kinh nghiệm qúa nhiều rồi, các ổng (ông ấy) nói dzậy mà hổng phải dzậy, phê bình các ổng, hôm nào lên xã (phường) xin chứng giấy đi học cho con cháu, nó đì, nó sinh chuyện chậm chạp, rắc rối, thêm bất lợi. kệ nó. Và co lại!
Một người rõ ràng thấy kẻ cắp, định la lên, nhưng bọn trộm giơ nắm đấm dọa, đành im miệng co lại, nhìn mà ngậm tức.
Một người dân được công an mời làm chứng về việc có mặt ở hiện trường cuộc ẩu đả, vụ tai nạn. Nhưng khi nói sự thật thì công an ngăn lại, vì họ muốn bảo vệ cho bên phạm sai lầm, cũng co lại.
Một nhân viên muốn mở trang mạng đọc tham khảo thông tin, nhưng nghĩ đến qy định của Thủ tường cấm cán bộ, nhân viên đọc “mạng lề trái”, cũng co lại: “Mình đọc trang báo “lề phải online” nhưng biết đâu kẻ xấu bụng đi “mét” thủ trưởng là thấy đọc trang mạng cấm, thôi tắt máy, khỏi đọc, sinh phiền”…
Nghĩa là: Từ kẻ quyền cao chức trọng, đến trung gian nịnh thần, rồi cả người dân ai cũng phải nơm nớp, thủ thế, tự giữ cho mình, an phận thủ thường. Ai cũng có ly do để sống co lại cho riêng mình. Xã hội vậy gọi là tự do được à? K.Mác nói: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Nhưng ai cũng chỉ quanh quẩn nghĩ rằng: “Im lặng là vàng, đấu tranh-tránh đâu? Hạnh phúc chưa biết sao, nhưng bị trả thù, bị trù úm, bị gây phiền bất an cho cuộc sống là thực tế cứ sờ sờ ra đấy”!
Những vị lãnh đạo đầy quyền lực trong tay, nhưng ngay đến việc nói thẳng sự thật, nêu lên đúng bản chất vấn đề, gọi thẳng tên người sai phạm cũng né tránh: “Đồng chí X”…Rồi khi tiếp xúc cử tri lại biện minh rằng: Chỉ nên cảnh báo, cảnh tỉnh, giáo dục, răn đe, nếu như thi hành kỷ luật, xử lý các vụ tham nhũng mà quyết liệt 'làm mạnh, làm kiên quyết' (người ta) lại dọa ân oán, trả thù...
Người Việt Nam rất dũng cảm chống giặc ngoại xâm từ bao đời nay, làm nên truyền thông anh hùng của dân tộc. Nhưng chỉ quyết liệt, khí phách khi bối cảnh đặt ra giữa cái sống và cái chết, khi “nước đến chân mới nhảy”. Nhưng tầm nhìn xa, bản lĩnh phản vệ, tư duy độc lập, chính kiến rõ ràng và tác phong phản biện xã hội lại bị tâm lý (như là thực dụng, lối sống tiểu nông xa xưa) co lại. Thế nên, cứ lặp di lặp lại: Giành độc lập, lại mất độc lập. Thắng giặc này xong, lại bị giặc khác xâm lăng. Suốt cả mấy nghìn năm rồi, một dân tộc chưa bao giờ hết bóng giặc, một dân tộc quan lại đè cổ dân rất khắc nghiệt. Dù cho thế hệ âm X (-X) trước Công nguyên đến Xo (Ếch không) rồi X1 đến X10…nhiều đời sau nữa cũng chỉ loanh quanh cái vòng nô lệ hết kẻ này đến kẻ khác xâm lược, đô hộ, đè nén, áp bức. Do mình phản ứng chậm trong cuộc sống thường nhật, nghe nói sai, nói bậy, nói sảng rất khó chịu mà không dám phản ứng tức thì, không “huýt sáo” rời ghế cử tọa mà cứ im re ngồi, nghe xong ra ngoài mới bàn luận “vuốt đuôi” rồi ngậm tức dài dài. Con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Cuộc sống là sự gắn kết hài hòa, quan hệ tương hỗ 'Tôi và Chúng ta', "mình vì mọi người, mọi người vì mình". Nhưng khi cái 'tôi' quá lớn, quá đậm thì 'chúng ta' sẽ teo khuất, mờ nhạt. Ôi, ai cũng an phận thủ thường, thiếu bản lĩnh sống; ai cũng co lại, cho nên thành miếng đất mỡ màu cho cái xấu, cái ác phình to rồi hại đến chính mình, đến đời con cháu mình!
BVB
Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013
Bùi Văn Bồng - Nhiều hệ lụy do độc quyền vàng miến SJC
Bùi Văn Bồng
Bà hàng xóm của tôi ra phố từ sáng, gần trưa mới về, lắc đầu:
- Chạy mòn cả lốp xe, gần hết bình xăng mà cả buổi qua nhiều tiệm vàng, đi mấy ngân hàng đều không bán nổi mấy chỉ vàng đưa vào cho ông xã thanh toán tiền viện phí, thuốc thang. Nhà nước độc quyền thế này chỉ khổ người dân thôi.
Hơn 9 tháng trước, ngày 4/7/2012, Phó Thống đốc NHNN - ông Lê Minh Hưng đã có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh việc thương hiệu vàng nào sẽ trở thành thương hiệu vàng miếng quốc gia. Ông Hưng cho hay: Theo Nghị định 24 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có hiệu lực từ ngày 25/5/2012, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng. NHNN được Chính phủ giao cho tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng.
Kể từ ngày Nghị định 24 có hiệu lực, tất cả các giấy phép sản xuất vàng miếng đã được NHNN cấp phép trước đây hết hiệu lực thi hành, kể cả giấy phép đã cấp cho Công ty SJC. Song trên thị trường hiện nay, thương hiệu vàng miếng SJC là thương hiệu vàng miếng có bề dày cả uy tín, chất lượng và đã được thị trường chấp nhận. Đồng thời chiếm thị phần chủ yếu trên thị trường vàng miếng. Chính vì vậy để tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và xã hội cũng như để tránh những xáo trộn cho hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng miếng, NHNN đã báo cáo Chính phủ và quyết định lựa chọn thương hiệu vàng miếng SJC là thương hiệu vàng miếng của Nhà nước.
Theo đó, kể từ thời điểm này, Công ty SJC không được phép tiến hành các hoạt động sản xuất vàng miếng. Tuy nhiên SJC vẫn tiếp tục thực hiện các hoạt động kinh doanh bình thường. Hoạt động sản xuất vàng miếng hiện do NHNN độc quyền tổ chức và thực hiện. Cũng cần nhấn mạnh rằng, theo quy định của Nghị định 24, tất cả các loại vàng miếng đã được NHNN cấp phép sản xuất trước đây vẫn được phép lưu thông và mua bán bình thường. Theo Nghị định 24, điều kiện để kinh doanh vàng miếng với doanh nghiệp là có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên, kinh nghiệm kinh doanh vàng từ 2 năm trở lên, đã nộp thuế kinh doanh vàng trên 500 triệu trong 2 năm liên tiếp gần nhất, có mạng lưới tại tối thiểu 3 tỉnh, thành trực thuộc Trung ương.
Đối với tổ chức tín dụng, điều kiện để kinh doanh vàng miếng là phải có vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng, có đăng ký hoạt động kinh doanh vàng và có mạng lưới từ 5 tỉnh thành trực thuộc Trung ương trở lên.
Thế nhưng, nhiều Chi nhánh thuộc Công ty SJC đến nay bị nhiều lần thít chặt, không được kinh doanh vàng miếng do mình sản xuất ra một cách bình tường. Loại vàng miếng có “bao bì, mẫu mã” cũ nay việc mua bán rất khó khăn. Độc quyền vàng miếng làm cho các cơ sở kinh doanh vàng khốn đốn. Quyền mua bán vàng đã thuộc về một sos ngân hàng “diện ưu đãi”. Ngay như ngân hàng quân đội MB cũng có nhiều chi nhánh không được tham gia dịch vụ mua vàng. Ngân hàng Tiên Phong, ngân hàng Techcombank và một số ngân hàng khác gần đây được mua vàng miếng, nhưng quy định phải có miếng nguyên từ 1 lượng trở lên, và phải là “thương hiệu mới”! Trong khi đó, ngân hàng Eximbank, Á Châu, BVIDI, Viettinbank… lại có quyền kinh doanh vàng miếng với những quy định nới lỏng, được nhiều ưu tiên hơn.
Từ đầu tháng 1 -2013, 2.500 điểm kinh doanh vàng miếng trên cả nước thuộc 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp chính thức thay thế hàng chục ngàn cửa hàng vàng không đủ điều kiện kinh doanh vàng miếng. Kèm theo đó, Nhà nước có quy định mua bán vàng không đúng chỗ bị phạt 50-100 triệu đồng
Những đơn vị chưa được cấp phép kinh doanh, mua bán vàng miếng sẽ chỉ được mua bán vàng trang sức hoặc chuyển đổi sang loại hình kinh doanh khác.
Việc Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng SJC thực chất chỉ có lợi cho nhóm lợi ích ngân hàng và các đầu mối thuộc diện “trùm sò” là con cưng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Do đó, các cửa hàng kinh doanh vàng trên cả nước đang rơi vào cảnh cam go, mất khách hàng, thua lỗ. Người dân khi cần rất khốn đốn, khó khăn khi bán một vài chỉ vàng miếng SJC lo tiền khi ốm đau, bệnh tật hoặc đóng tiền học cho con cháu.
Trên báo Thanh niên, Thứ Bảy, 6/4/2013, tác giả Thanh Xuân đã viết: Ông Đỗ Công Chính cho biết, trước khi có Nghị định 24 của Chính phủ về quản lý thị trường vàng (ngày 25/5/2012), số lượng vàng SJC sản xuất sụt giảm mạnh. Cụ thể, năm 2008, 2010, 2011, mỗi năm SJC sản xuất khoảng 100 tấn vàng, nhưng qua năm 2012, sản lượng còn 400.000 lượng (tương đương 15 tấn). Sau NĐ 24, Công ty SJC đã bàn giao tất cả khuôn dập (cũ và mới) cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quản lý. Mỗi khi sản xuất phải có giấy phép của NHNN, khi đó NHNN chi nhánh TP.HCM sẽ bàn giao khuôn và SJC sản xuất gia công dưới sự giám sát của Tổ giám sát NHNN. Công ty SJC không hưởng lợi được gì ngoài tiền công là 50.000 đồng/lượng. Sau NĐ24, doanh thu và sản lượng, lợi nhuận của Công ty SJC sụt giảm 65% so với năm 2011.
Trả lời câu hỏi "ai là người hưởng lợi", ông Đỗ Công Chính tiết lộ, những năm trước đây, các đơn vị được nhập khẩu vàng nguyên liệu đã mang sang Công ty SJC gia công thành vàng miếng SJC để hưởng lợi bởi thương hiệu của họ khó tiêu thụ. Cụ thể, từ năm 2009 đến năm 2013, SJC đã dập vàng miếng cho NH TMCP Á Châu (ACB), NH Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, NH TMCP Phương Nam, Công ty TNHH VBĐQ Ngọc Thẩm, NH TMCP Đông Á - Công ty TNHH VBĐQ Phú Nhuận, NH TMCP Sài Gòn Thương tín với tổng khối lượng hơn 886.230 lượng. Từ ngày 25.8.2012 đến 31.3.2013, Công ty SJC gia công vàng miếng thương hiệu khác sang SJC với khối lượng hơn 383.000 lượng vàng, trong đó có đơn vị có khối lượng chuyển đổi lên 5 tấn. "Vậy ai là người được hưởng lợi từ mức chênh lệch giá từ 3 - 5 triệu đồng/lượng từ giá vàng nguyên liệu với giá vàng miếng SJC hoặc giá vàng miếng loại khác với giá vàng miếng SJC đã rõ" - ông Chính nói.
Một vấn đề cấp bách hiện nay là cần xóa bỏ ngay cơ chế độc quyền vàng miếng.
>SJC giảm 65% vì độc quyền thương hiệu
Về vấn đề này, tác giả Lệ Chi có bài đăng trên VnExpress: Tại hội thảo "Đẩy mạnh phát triển thị trường vàng trang sức Việt Nam trong tiến trình hội nhập" chiều 6/4, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai cho rằng, vì Việt Nam là nước nhập khẩu vàng nên giá cả thời gian qua tăng cao theo xu hướng thế giới là điều tất yếu.
Trước những bất cập trên, Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai cho rằng, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên quản lý vàng trong cấu thành dự trữ ngoại hối Nhà nước bằng vàng thỏi, chuẩn quốc gia đồng thời là chuẩn quốc tế. Theo đó, các loại vàng này nên tồn tại dưới dạng thỏi hoặc tín phiếu thỏi có trọng lượng từ 1 kg đến 10 kg, có tuổi không thấp hơn 95,5%. Mọi phát sinh vàng vật chất nếu Ngân hàng Nhà nước bán ra từ kho dự trữ để thay đổi cơ cấu tỷ trọng thì phải phi thỏi ngay sau khi xuất kho (nghĩa là trong mọi trường hợp không được bán vàng dự trữ dạng thỏi ra thị trường trong nước).
Các loại vàng còn lại, kể cả là vàng với tư cách ngoại hối thông thường lẫn hàng hóa mỹ nghệ, trang sức trên thị trường theo ông Lai nên được tự do trao đổi, mua bán, bao gồm cả tự do nhập và xuất. "Ngân hàng Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý Nhà nước mà ở đó không có việc kinh doanh vàng, trừ trường hợp muốn thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối để bảo toàn giá trị và không vì mục đích lợi nhuận", ông Lai bày tỏ.
Mặc khác, theo Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, việc đo đếm giá trị, giá vàng cần căn cứ vào tuổi và nhanh chóng loại bỏ việc kỳ thị giữa các loại vàng miếng phi dự trữ ngoại hối. "Đồng thời, Nhà nước cần xóa bỏ ngay cơ chế độc quyền vàng miếng và tôn trọng quy luật thị trường", ông Lai nhấn mạnh.
Tự do hóa nhưng không để vàng hóa nền kinh tế, theo Tiến sĩ Lai cần phải nghiêm cấm tuyệt đối việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán. Trước sau chỉ coi vàng như một hàng hóa được rộng rãi giao lưu bình thường và mọi giao dịch đều phải làm nghĩa vụ thuế.
Song song đó, ông Lai kiến nghị Nhà nước nên cho phép mở sàn vàng và giao Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế quản lý. Sàn vàng đúng nghĩa ra đời vừa chống được độc quyền, vừa tạo nguồn thu cho ngân sách thông qua nghĩa vụ nộp thuế, lại liên thông được với thị trường quốc tế mà không lo "chảy máu vàng" đối với một quốc gia nghèo vàng như Việt Nam.
Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, Chuyên gia kinh tế cao cấp cũng chia sẻ, giống như các biện pháp hành chính đang gây méo mó và rủi ro đạo đức cho hệ thống ngân hàng, việc quản trị vàng sẽ gây hỗn loạn một thị trường vốn linh hoạt nhất từ ngàn xưa trong tập quán kinh tế và văn hóa của người dân Việt vốn quen giữ vàng.
Theo Tiến sĩ Chí, Ngân hàng Nhà nước nên trở về với các nhiệm vụ cố hữu của một ngân hàng Trung ương trong việc điều tiết chính sách tiền tệ và cải thiện tình trạng vĩ mô. Ngoài ra, trong bối cảnh ViệtNam hiện nay, cần đến vai trò sáng suốt của cơ quan này để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, giải quyết món nợ xấu khổng lồ là những vấn đề cấp bách nhất.
Ông Phạm Đỗ Chí cũng nhìn nhận, việc Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi và hằng ngày đứng ra định giá vàng (mà đa phần còn chưa biết có nắm bắt thị trường đúng hay không?) thay vì lo nghiên cứu chính sách cho các vấn đề nóng bỏng trên, cũng có thể được ví như "đang ở trong một cái nhà bị cháy mà không lo vác vòi chữa lửa, lại lo đi vác chổi quét nhà cho sạch".
Tiến sĩ Chí tỏ ra lo ngại các hành động của Ngân hàng Nhà nước trong những năm qua như độc quyền Nhà nước về vàng, khống chế ngân hàng, điều khiển thị trường tín dụng theo mệnh lệnh hành chính… đã và đang làm nghẽn mạch hệ thống tiền tệ. "Nếu cứ ra sức can thiệp bằng biện pháp hành chính thì nền kinh tế càng lâm vào thế tê liệt", ông nói.
Đồng tình quan điểm với hai chuyên gia trên, Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, cho rằng nên để vàng vận hành theo cơ chế thị trường. Còn với tình hình hiện nay, muốn ổn định thị trường vàng Ngân hàng Nhà nước nên chú trọng vào hai vấn đề chính là cố gắng làm cho khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới không quá cao. Biên độ dao động giữa hai thị trường cũng không nên quá lớn để tránh đầu cơ (hiện nay lúc gia vàng trong nước biến động một triệu, lúc 2 triệu so với thế giới dễ tạo đầu cơ).
BVB /TP &VnE
-------------------
Danh sách 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp
được kinh doanh vàng miếng từ 1-2013
1. Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
2. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank)
3. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
4. Công ty TNHH một thành viên Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)
5. Ngân hàng TMCP Đông Á (DongABank)
6. Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MaritimeBank)
7. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)
8. Ngân hàng TMCP Nam Á (NamABank)
9. Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank)
10. Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB)
11. Ngân hàng TMCP Phương Nam (SouthernBank)
12. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
13. Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)
14. Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TienPhongBank)
15. Ngân hàng TMCP Việt Á (VietABank)
16. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
17. Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
18. Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank)
19. Ngân hàng TMCP Quân đội (MB)
20. Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)
21. Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (MHB)
22. Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank)
23. Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc Đá quý TPHCM - Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
24. Tổng Công ty Vàng Agribank Việt Nam - CTCP
25. Công ty TNHH Bảo Tín Minh Châu
26. Công ty cổ phần Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI
27. Công ty cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vàng Việt Nam
28. Công ty TNHH một thành viên Kim Ngọc Phú
29. Công ty TNHH Mi Hồng
30. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Hải
31. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Thâm
32. Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận
33. Công ty TNHH Vàng bạc Phúc Thành
34. Công ty cổ phần Thương mại Vàng bạc Đá quý Phương Nam
35. Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc Đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương tín
36. Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc Đá quý Sài Gòn - SJC
37. Công ty cổ phần Đầu tư Vàng Phú Quý
38. Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc Đá quý Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013
Bùi Văn Bồng - HẬU HỌA CÚ MẮC LỪA CON SỐ 13
Blog Bùi Văn Bồng
Ảnh Hội nghị Thành Đô
- Hàng đầu:
Tổng bí thư Giang Trạch Dân
cùng Thủ tướng Lý Bằng (đứng giữa).
- Phía bên phải Giang là
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
và Cố vấn Phạm Văn Đồng (chắp tay).
- Phía bên trái:
Lý là Thủ tướng Đỗ Mười, Chánh văn phòng TW Hồng Hà,
Thứ trưởng ngoại giao Đinh Nho Liêm.
Ảnh do Tân Hoa xã đơn phương công bố,
dù 2 bên đã cam kết
đây là cuộc họp tuyệt mật.
BVB - Trong một buổi lễ kín đáo tại PhnomPenh ngày 23/01/2013, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Cam Bốt Moeung Samphan và Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, tướng Thích Kiến Quốc (Qi Jianguo), đã ký kết một thỏa thuận về hợp tác quân sự song phương. Bắc Kinh sẽ tài trợ cả trăm triệu đô la cho Phnom Penh để mua vũ khí của Trung Quốc, đồng thời tiếp tục công tác huấn luyện cho quân đội Cam Bốt. Theo giới phân tích, sự tăng cường đáng kể hợp tác quân sự Bắc Kinh-Phnom Penh chắc chắn sẽ làm cho hai láng giềng lớn của Cam Bốt là Thái Lan và Việt Nam lo ngại…
Đối với Việt Nam, thái độ thân Trung Quốc của Cam Bốt, phá hoại lập trường thống nhất của ASEAN trên hồ sơ tranh chấp Biển Đông, thể hiện trong suốt năm 2012 vừa qua, đã cho thấy là Phnom Penh sẵn sàng vì lợi ích riêng của mình mà quên đi quyền lợi chung của toàn khối, kể cả của nước bạn đã từng giúp Cam Bốt thoát khỏi chế độ diệt chủng Khmer đỏ.
Mặt khác, trong lãnh vực quân sự, chắc chắn Việt Nam chưa quên thời kỳ Trung Quốc chi viện ồ ạt cho lực lượng Khmer Đỏ để tấn công vào sườn phía Nam của Việt Nam. Vào thời đó, rõ ràng là hợp tác quân sự Trung Quốc-Cam Bốt rất chặt chẽ. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có tái diễn hay không ?
Hiệp ước viện trợ quân sự Trung Quốc-Campuchia được ký kết tại Phnom Penh (Campuchia)
Suy cho cùng, đây là hậu họa mà “cái dây kinh nghiệm” quá dài ngoằng từ Hội nghị Thành Đô 9-1990 rút hoài chưa hết, mà đến nay càng rút càng thấy nó dài thêm, còn đủ thứ bùng nhùng. Riêng về âm mưu của Trung Quốc muốn thôn tính Campuchia để tiếp tục cắm chốt phía Tây Nam ép Việt Nam và Lào, đến nay hầu như chưa mấy ai trong giới lãnh đạo của ta nhận rõ nguy cơ “cánh quân đánh tập hậu” nguy hiểm này. Nó được thiết kế từ Hội nghị Thành Đô. Thực chất Hội nghị Thành Đô là Việt Nam bị cú lừa ngoạn mục bởi con số 13 mà Trung Quốc đưa ra. Đến nay, Trung Quốc đã ngày càng thắng thế trong âm mưu này. Với Việt Nam lúc đó, Trung Quốc đưa ra “16 chữ vàng và 4 tốt”, tức 16+4. Còn ViệtNam bị Trung Quốc lừa bởi một phép cộng: 6+2+2+2+1 = 13, giải quyết vấn đề 'nhân sự' thượng đỉnh cho Campuchia. Vậy, con số 13 mà Việt Nam bị lừa ngọt xớt là gì? BVB xin trích giới thiệu một đoạn trong “Hồi ức và suy nghĩ” (Hồi ký) của nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ:
* TRẦN QUANG CƠ
... Bắc Kinh triệu tập cuộc họp Thành Đô một cách rất trịch thượng. Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy chỉ báo trước có 5 ngày, yêu cầu ngày 2-9-1990 phải có mặt ở Thành Đô, lại là ngày Quốc khánh chẵn của Việt Nam. (Tân Hoa Xã).
Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã nhận định về cuộc họp Thành Đô đầu tháng 9-1990 rằng: “một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!”. Một lời than não nề. Một lời cảnh báo đến vẫn nay còn có giá trị.
Sau chiến tranh biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc những năm 1976 -1979, rồi chiến sự ở Campuchia kéo dài đến cuối năm 1988, mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc vốn dĩ phức tạp từ xa xưa, khi bạn, khi thù, đến đây lại có bước ngoặt, từ chiến tranh quyết liệt, từ đối đầu chuyển sang bình thường hóa, rồi từ bình thường hóa chuyển nhanh sang tình hữu nghị «16 chữ vàng» và «láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt», trên thực tế là phía lãnh đạo Việt Nam chịu sự phụ thuộc về nhiều mặt đối với thế lực bành trướng nước lớn.
Thái độ này được các nhà trí thức yêu nước và bà con ta gọi là thái độ “hèn với giặc, ác với dân”, từ sự kiện Thành Đô đến nay đã kéo dài 22 năm.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu.
Ngay sau khi ở Thành Đô về, ngày 05/09/1990 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và anh Lê Đức Anh đã bay sang Nông Pênh thông báo lại nội dung cuộc gặp cấp cao Việt-Trung với BCT Campuchia. Để thêm sức thuyết phục Nông Pênh nhận Thỏa thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia:
Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc. “Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin thay mặt cho lãnh đạo CPC, vẫn là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết”. Về “giải pháp đỏ”, Nông Pênh nhận định ý đồ của Trung Quốc không muốn 2 phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện giải pháp đỏ vì giải pháp đỏ trái với lợi ích của TQ. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục bạn:
Ta nói giải pháp đỏ nhưng là giải pháp hồng, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khơ-me đỏ. Vấn đề tranh thủ Khơ-me đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược…Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc kéo Khơ-me đỏ trở về … Ta đừng nói với Trung Quốc là làm giải pháp đỏ, nhưng ta thực hiện giải pháp đỏ. Có đỏ có xanh, nhưng thực tế là hợp tác 2 lực lượng cộng sản.
Nguyễn Văn Linh bồi thêm:
- Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ, TQ muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép TQ nên TQ cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp đỏ.
Theo báo cáo của Đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn CPC đối với ta từ sau Thành Đô đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định khác với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã bị mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:
- Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề CPC và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia thì mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;
- Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mồi” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.
- Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản Thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.
Ngày 07/09/1990 BCT đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt-CPC sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ TQ thông báo lại lập trường của Nhà Nước CPC; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với CPC. Nếu có ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói không biết.
Báo Bangkok Post ngày 19/9/90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thỏa thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần HĐDTTC của Campuchia gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khơ-me đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk. Thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức chủ tịch Hội đồng. Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24/10/1990, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ánh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10/9/90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Nông Pênh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Nông Pênh đã có“một thái độ thiếu hợp tác (uncooperative)”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp đỏ”, v.v…
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi BCT họp (15-17/05/1991) thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và về việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam-Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này có mặt đầy đủ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, các ủy viên BCT Đỗ Mười, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói:
- Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu hơn thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì đây là tự kiểm điểm. Tôi ân hận ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói trước là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh em bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus”, còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm, nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản Thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì có thể ta có cách bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ta sang gặp tổng bí thư và chủ tịch Quốc vụ viện, họ lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của bạn CPC, rất gay gắt. Tôi hiểu là bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho là ta làm sau lưng, có hại cho người ta.
Anh Linh:
- Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở Châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khơ-me đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.
Anh Thạch:
- …Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Nông Pênh, Hun-xen nói là trong biên bản viết là hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1, nhưng băng ghi âm lại ghi rõ là anh Linh nói “Không có vấn đề gì”.Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu? Tại Tokyo tháng 6/1990, Sihanouk và Hun-xen đã thỏa thuận thành phần SNC gồm 2 bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Nông Pênh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc theo “consensus” trong SNC, anh Hun-xen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng là Campuchia bị Việt Nam và Trung Quốc ép. Như vậy dù là “consensus” cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là Nông Pênh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô, và nói họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy, Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta.
Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun-xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thành Đô thì tốt hơn…
Anh Tô:
- Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào? Ở Thành Đô điều ta làm có thể chứng minh được, nhưng Campuchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận về sau này sẽ để lại hậu quả.
Anh Mười:
- …Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Bạn Campuchia nghĩ gì ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của Campuchia.
Anh Thạch:
- Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô “consensus” (nguyên tắc nhất trí).
Anh Võ Văn Kiệt:
- Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình hớ, mình dại rồi mà cũng còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái lý đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.
Thỏa thuận Việt Nam-Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Nông Pênh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28/2/1991, Hun-xen phát biểu:
“Như các đại biểu đã biết, vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao này rất phức tạp chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không ít đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Nông Pênh, ngày 28/9/1990, Hun-xen đã có những ý khá mạnh khi nói về thoả thuận Thành Đô: Khi gặp Sok An ở Băng Cốc hôm 17/9, TQ dọa và đòi SNC phải công nhận công thức mà VN và TQ đã thỏa thuận. Nhưng Nông Pênh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời TQ là ý này là của VN không phải của Nông Pênh.
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9/1990 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, trái lại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện giải pháp đỏ ở Campuchia là không phù hợp với Nghị Quyết 13 của Bộ Chính Trị mà còn gây khó khăn cho ta trong việc đa dạng hóa quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó để bôi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Nông Pênh đi vào giải pháp đỏ, việc ta thỏa thuận với Trung Quốc về công thức HĐDTTC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của bạn Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ của ta với Campuchia và Lào…
Trần Quang Cơ
(BVB - giới thiệu và trích dẫn)
----------------------------"
+ Bài liên quan:
>http://lexuanquang.org/post/1652/
>http://anhbasam.wordpress.com/2012/08/11/1200-phai-chan-dung-nguy-co-tai-dien-kich-ban-thanh-do-1990/
>http://dantri.com.vn/dien-dan/cau-chuyen-ve-ngoai-giao-nhan-dan-525969.htm
>http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/infonet.vn/Vi-sao-Trung-Quoc-hao-phong-voi-quan-doi-Campuchia/10307488.epi
Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013
Bùi Văn Bồng - GÁNH NẶNG THUẾ ĐÈ LÊN NGƯỜI DÂN
Bùi Văn Bồng
Trong khi đồng tiền Việt bị mất giá nghiêm trọng, thu nhập của người lao động giảm, Nhà nước lại moi móc tìm cách tăng đủ thứ thuế, trong đó có phí sử dụng đường bộ, suy cho cùng đó cũng là loại thuế mới đánh thẳng vào túi người lao động nghèo.
Chi phí giao thông cao khiến giá cả hàng hoá đầu ra tại nơi tiêu thụ cuối cùng bị đội lên là một trong những nguyên nhân khiến tốc độ tăng trưởng của thị trương nội địa bị giảm sút. Ông Trương Trọng Nghĩa, Đại biểu Quốc hội TP.HCM, bức xúc: “Nếu người dân phải đóng phí SDĐB thì hậu quả trực tiếp và lan tỏa đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân sẽ vô cùng lớn. Nếu coi khoản phí này là hợp lý thì Bộ Tài chính có rà soát để bỏ bớt những khoản phí không hợp lý mà tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đang phải đóng hay không?”.
Một mối lo nữa là thuế và các khoản thu của dân. Gọi là mang tiếng được miễn thuế nông nghiệp. Nhưng có thấm vào đâu. Được miễn thuế này thì lại đẻ ra thứ thu khác. Cũng như không.
Thông thường có những cặp thuế tương xứng về loại thể như: Thuế quốc gia và thuế địa phương, thuế trực thu và thuế gián thu, thuế nội địa và thuế quan, thuế định ngạch và thuế định lệ, thuế thông thường và thuế đặc biệt; từ đó lại phân ra thuế thu nhập, thuế cổ tức, thuế chuyển nhượng, thuế môn bài, thuế VAT, thuế tiêu thụ, thuế lạm phát,…ngoài ra còn các khoản thuế phụ thu.
Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất…). Thuế được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu. Khi nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa do dân cư đóng góp để hình thành quỹ tiền tệ của mình. Tất cả mọi hoạt động của chính quyền cần phải có nguồn tài chính để chi (đầu tiên là nuôi bộ máy nhà nước); nguồn đầu tiên đó là các khoản thu từ thuế.
Hiện nay, ở nước ta, việc thu thuế và quản lý thuế còn tồn tại nhiêu bất cập, hệ lụy như sau:
Tăng tiền thuế của người sản xuất, buôn bán nhỏ, nhưng lại bỏ qua hoặc thu ít, thu không đủ, thu sai quy định những khoản lớn và rất lớn thuế bất động sản, thuế doanh nghiệp, thuế kinh doanh, thuế hải quan…Bà già đem mớ rau vườn ra trước cửa chợ bị thu thuế, nhưng có những doanh nghiệp, những chủ đất buôn bán bất động sản lại né, trốn thuế cả chục tỉ đồng.
Giảm thuế xuất nhập khẩu hàng hóa, nhưng lại tăng thuế buôn bán nhỏ lẻ. Việc giảm, hoặc miễn thuế xuất nhập khẩu, nhằm điều chính, cân đối gia bán buôn công nghiệp, bán buôn lợi tức, mong sẽ giảm chỉ số CPI, nhưng lại đi tăng thuế của người kinh doanh bán lẻ. Như vậy, các tập đoàn, tổng công ty, nhà kinh doanh lớn được có lợi, nhưng người lao động nghèo vấn phải tăng thuế, giá hàng hóa bán lẻ vẫn không ngừng tăng. Gánh chịu thiệt thòi vẫn là người lao động nghèo.
Thuế giá trị gia tăng VAT cuối cùng là đánh vào túi người tiêu dùng, doanh nghiệp, doanh nhân được hưởng lợi. Khi thu tiền điện, tiền nước, thu tiền điện thoại, mua các loại hàng hóa ở thị trường tự do cũng như các siêu thị đều phải thêm 10% thuế VAT. Nhưng người bỏ tiền ra mua lại không bao giờ được hoan fthuees VAT. Theo định kỳ, các doanh nghiệp được thanh toán hoàn thuế VAT, người tiêu dùng bị thiệt.
Thuế thu nhập cá nhân chưa phù hợp với thu nhập đời sống và giá trị tiền lương ở nước ta hiện nay.
Thuế cầu đường, thuế xe, thuế bến bãi thu tùy tiện, không có quy định rõ ràng.
Quản lý tiền thuế còn nhiều sơ hở, đẻ cá nhân, nhóm lợi ích lợi dụng tiền thuế chia chắc nội bộ, tham nhũng. Cuối cùng, nhà nước và người lao động bị thiệt, lợi ích cá nhân làm trái pháp luật, làm tùy tiện, vô nguyên tắc lại được hưởng đậm. Chính quyền xã, phường lợi dụng thu thuế, sinh ra các khoản phụ thu để gây quỹ cho cơ quan, lập lờ chia chác nhau vụ lợi…
Theo tính toán của ADB, tỷ lệ động viên thu vào ngân sách nhà nước ở Việt Nam tính toán từ thuế, phí và lệ phí rất cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Việt Nam khoảng 25-28% GDP, trong khi Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia khoảng 15%, Philippines dưới 13%, Indonesia 12%, Ấn Độ chỉ 7-8%... Chưa kể lạm phát là thứ thuế vô hình tạo thêm gánh nặng cho người dân.
Chỉ lấy ví dụ một chiếc xe là phương tiện giao thông cá nhân tối thiểu thôi, người Việt Nam đã phải chịu tới khoảng 9 loại thuế và phí khác nhau theo kiểu phí chồng lên phí. Chẳng hạn như, đã có thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng xa xỉ để hạn chế tiêu dùng, nay lại chuẩn bị ban hành phí lưu hành cao chót vót cũng với mục tiêu hạn chế xe lưu thông trên đường nhằm chống ùn tắc giao thông; đã có hàng tá, hàng tá trạm thu phí giao thông đường bộ nhà nước có, tư nhân có, tràn lan khiến dân chúng ta thán không ngớt chưa giải quyết xong lại thêm phí bảo trì đường bộ, chưa kể loại phí này còn gián thu qua lượng xăng dầu nữa.
Vì thế, trong việc đặt ra chính sách thuế, áp dụng thuế, mức thuế, thu và quản thuế phải chú trọng đến các sắc thuế đều cần thỏa mãn ba nguyên tắc chung sau đây:
Trung lập: sắc thuế không được bóp méo các hoạt động sản xuất, dẫn tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi.
Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành trưng thu thuế phải không phức tạp và không tốn kém.
Công bằng: sắc thuế phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều kiện như nhau. Giữa các công dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thường người có điều kiện tốt hơn có xu hướng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn).
Riêng các sắc thuế địa phương còn cần thỏa mãn một số nguyên tắc nữa:
- Cơ sở thuế phải bất biến: nghĩa là công dân, hoạt động và đồ vật phải tương đối cố định, không hay di chuyển giữa các địa phương. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo địa phương này không đánh thuế lên công dân, hoạt động và đồ vật vốn là của địa phương khác.
Nguồn thu ổn định: nghĩa là quy mô dân số địa phương và quy mô các hoạt động, đồ vật không nên biến động thường xuyên. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo thu ngân sách của địa phương không bị biến động
- Nguồn thu phân bố đồng đều giữa các địa phương. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách giữa các địa phương không quá chênh lệch.
- Chính quyền địa phương phải có trách nhiệm tài chính. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo chính quyền địa phương không lạm dụng quyền hạn thuế của mình để đánh thuế quá mức.
- Trong thực tế, khó có sắc thuế nào đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc đòi hỏi cho nó. Vì thế, theo nguyên tắc về "cái tốt thứ hai", sắc thuế nào càng thỏa mãn nhiều nguyên tắc, thì càng xứng đáng là một sắc thuế tốt. Việc ban hành phần lớn các sắc thuế thường cần phải được Quốc hội phê chuẩn và phải có luật về sắc thuế đó.
Thuế là sự thể hiện bản chất, mô thức, tính ưu việt của một chế độ chính trị-xã hội. Cần phải được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, có chính sách đúng, nhạy bén, cập nhật giá tiền tệ và các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, đời sống xã hội. Mọi biểu hiện buông lỏng hoặc tùy tiện trong việc đề ra các chính sách, các quy định về thuế, việc tổ chức thu thuế, quản lý thuế đêu là những sai lầm gây hậu họa lớn cho toàn xã hội, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
BVB
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012
Bùi Văn Bồng - CÁI “LẼ SỰ THẬT” NGAY TRONG TÚÍ GIÁO SƯ VÕ!
Bùi Văn Bồng
Trong vụ thu hồi đất trái luật cho dự án Ecopark Văn Giang, nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT Đặng Hùng Võ phân tích: Theo “chiều sâu luật pháp” thì đây là điều “không bình thường”. Ông mạnh mồm: “Pháp luật phải rất chặt chẽ, không thể tư duy theo kiểu luật như thế này mà cơ quan quản lý có thể thực hiện khác đi mà vẫn coi là được”...
Đó là một trong những lời nói có cánh của ông Võ trong buổi gặp gỡ trực tiếp vào chiều ngày 08/11/2012 với người dân Văn Giang. Đó là do nông dân Văn Giang không hề khoan nhượng, đấu tranh đến cùng, đi đến lẽ phải và công bằng. Trước cảnh huống ấy, việc không thể đừng, dù đã đủ trò né tránh, câu dầm thời gian, nhưng buộc ông “Gs. Võ Đất” phải ra trực diện đối thoại với bà con nông dân 4 xã ở Văn Giang có đất liên quan đến dự án. Chính Võ Đại Ca phải thừa nhận: “Vụ Văn Giang không đơn giản!”. Ông bộc bạch là mong muốn được chia sẻ các bức xúc như một thể hiện của sự thiện tâm, không chạy trốn trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ trước đây. Thế là rõ, dân tình cũng mong ông minh bạch kiểu như thế, đừng loanh quanh lò cò như mấy tháng nay nữa. Nhưng dân Văn Giang đem sự hài lòng đó chưa về đến cửa, thi cũng chính ông Võ lại huỵch toẹt xóa phắt ngay lời xin lỗi quý hiếm! Quả là ông Võ rất lắm “võ”. Rất tiếc, cái "tiền lệ" chân thực nhận sai và xin lỗi trước dân của ông vừa lóe lên khen khét chưa kịp đốt nóng dư luận đã bị chính ông làm cho tàn lụi quá sớm.
Trong bức thư khước từ “đối thoại phúc thẩm” với nông dân Văn Giang, GS Đặng Hùng Võ cũng thanh minh việc nhận mình sai một cách dễ dàng như là trạng thái tâm lý bất ổn”, chưa ý thức được rằng từ cái sai của mình có thể dẫn đến cái sai của việc Thủ tướng Chính phủ thực hiện thẩm quyền của Chính phủ trong suốt 10 năm từ 15/10/1993 tới 30/06/2004 lại là vấn đề rất lớn, nếu không làm rõ có thể phát sinh những hậu quả khôn lường về mất ổn định xã hội.
Với một dự án lớn, đụng đến đất đai, cuộc sống, kế sinh nhai của mấy nghìn hộ nông dân lại rất cần nghiên cứu, xem xét kỹ. Nếu chỉ với cách quan hệ, chạy vạy của ông -kể cả “bồi dưỡng” hẻm này, ngách kia, cửa nọ gì đó - thì ông vẫn là chức năng cơ quan chủ quản, nhiệm vụ quản lý ngành, làm sao mà khẩn trương 4 ngày làm xong được thủ tục hơn cả kỷ lục thế giới như vậy?
Điểm lại cái “chiến dịch lách luật, né luật” 4 ngày nước rút:
- Ngày 27-6-2004,
Hội đồng thẩm định kỳ văn bản thẩm định.
- Ngày 28-6-2004,
UBND tỉnh Hưng Yên ký tờ trình gửi Bộ TNMT
- Ngày 29-6-2004,
BộTNMT ký tờ trình Chính phủ
- Ngày 30-6-2004, Chính phủ ký quyết định thu hồi đất...
Như thế, ai cũng ngỡ ngàng…kêu trời! Vì chỉ trong 4 ngày mà khối văn bản hồ sơ quan trọng ấy đã vượt qua cả một “rừng luật”. Bốn ngày, người dân xin giấy phép xây nhà cấp 4 thôi cũng phải chờ ít nhất hơn một tuần. Đó là: Cuộc chạy và phê duyệt dự án “tốc độ vũ trụ”. Trong cuộc này dính líu, nứt toắc ra nhiều cuộc khác như: Cuộc trực tiếp quản lý chế độ, chính sách, vận dụng pháp luật về đất đai, dự án đầu tư; cuộc xin phê duyệt dự án; cuộc bồi thường, bồi hoàn, giải tỏa mặt bằng; cuộc rầm rộ gần cả nghìn công an súng đạn đằng đằng sát khi cưỡng chế, thu hồi đất;…và gần đây nhất là các cuộc gỡ rối, đối phó với dân chủ khi nông dân mất đất phải đi khiếu kiện để đòi lại quyền lợi chính đáng của mình. Cuộc thuê côn đồ đánh gây trọng thương những người dân nghèo vô tội đi đòi lại ruộng đất để sống…cho đến các cuộc đối thoại, tranh cãi; luật sư và luật rừng…
Là người ký các văn bản hồ sơ lấy đất Văn Giang cho Ecopark trong dự án Ecopark-Văn Giang (Hưng Yên), ông Đặng Hùng Võ là người còn xuất hiện trong nhiều cuộc xoay quanh vụ này.
Ngày 14/12, những người nông dân bị thu hồi đất ở Văn Giang đã gửi thư cho GS-TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường để mời ông tham gia đối thoại lần hai (đối thoại 'phúc thẩm').
Sau khi nhận được thư này, hôm 18/12, GS Đặng Hùng Võ đã có thư phúc đáp những người dân Văn Giang, theo đó, GS Đặng Hùng Võ đã từ chối cuộc đối thoại phúc thẩm. GS Đặng Hùng Võ nêu 10 lý do từ chối.
Trong mối quan hệ nhằng nhịt “dính chùm” từ trên xuống dưới này, hai văn bản hai tờ trình số 14/TTr-BTNMT và số 99/TTr-BTNMT do ông Võ ký trình lên Chính phủ chỉ là một khâu về thủ tục để đi tới quyết định thu hồi đất ở Văn Giang cho dự án Ecopark. Ông Võ không thẩm định, không kiểm tra, nghe lệnh ai hay xuất phát từ động cơ nào đã ký trình văn bản lên Chính phủ là sai. Ít nhất, nhìn ngày tháng trong văn bản đã thấy “siêu tốc” thủ tục hiện ra sờ sờ. Thế mà ông Võ vẫn ký, nay định đổ thừa cho ai?
Có điều, ông cũng không có đủ cái quyền “vừa đá bóng vừa thổi còi”, cùng lắm thì ông phá bóng chịu phạt, hoặc nhanh chóng đá bóng qua sân, đánh bùn sang ao. Dễ gì ông chịu một mình gỡ rối mớ bòng bong, một mình “giơ đầu chịu báng”. Ai cũng biết cái sự thể nó phải thế, vì rõ nhất là sau cái vụ nhận sai, xin lỗi dân, mới có vài câu nhắc nhở, lưu ý mà ông đã vội co lại như con rùa rụt cổ, không dám gặp dân vì ảnh hưởng đến an ninh. Ông trả lời thư với dân rằng: “…không muốn mình bị lợi dụng vào việc gây tác động xấu tới an ninh xã hội!”. Ai lợi dụng? Ông làm trái luật, làm mất quyền lợi chính đáng của dân, sinh ra rối rắm xã hội, mang tai mang tiếng cho Đảng, Nhà nước, làm xấu bộ mặt của chế độ, như vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Xuân Quan ngày 24/4. Dân mất đất, đi đòi đất, sao lại bảo người ta “lợi dụng”. Thế hóa ra dân oan không biết đến an ninh là gì à?
Nhưng nếu xâu chuỗi những lộ tẩy trong phát biểu, trong đối thoại và trả lời báo chí của ông Võ, ai cũng nhận ra cái “ổ con tò vò” của vụ đất đai của dự án Ecopark Văn Giang nó nằm ở đâu. Ông Võ là người biết rõ nhất. Thế mà, trong thư trả lời bà con Văn Giang, ông Võ viết: "Đây chính là điều tôi suy nghĩ nhiều nhất và tôi đã quyết tâm gác lại mọi việc đang làm để tìm ra lẽ thật của sự việc này. Khi tất cả các cơ quan nhà nước các cấp nói rằng đúng pháp luật, mà một mình tôi - một chi tiết cực kỳ bé nhỏ trong bộ máy nhà nước đã về hưu lại nói ngược lại nhưng thiếu căn cứ thì tôi mang trọng tội với đất nước và nhân dân cả nước".
Ông lại không thận trọng “giữ miệng” khi phát ra thông tin: “Việc bà con đòi văn bản chỉ đạo của Thủ tướng về việc thu hồi đất là không thể, vì chỉ đạo của Thủ tướng, của Bộ trưởng không phải lúc nào cũng bằng văn bản, văn bản chỉ cho những người ngoài hệ thống hành chính phải thực hiện”. Câu này dễ bị “sờ đến” lắm đó!
Vậy là các loại văn bản chỉ cần khi việc đó lũ thứ dân phải làm, để có giấy trằng mực đen mà áp tội (?!). Thế là nguyên Thứ trưởng đã lướt luật, lách luật, bỏ qua các nguyên tắc quy định mà làm theo lệnh miệng, lênh điện thoại hoặc qua Email nhiều lần, nhiều vụ rồi. Cứ cái kiểu như vậy, pháp luật gì chăng nữa cũng bị ném xó nhà hết.
Chẳng lẽ cái bệnh “nói sảng đánh trống lảng giả tảng” nay cũng lây nhiễm đến Giáo sư Võ. Ông đã quá thừa biết sự thật trong vụ này rồi, tại sao nay lại phải khổ thân già, gác mọi việc đang làm, bỏ bê cả vợ dại con thơ để “tìm ra lẽ thật của sự việc”? Ngay từ trước khi đại diện Bộ TN-MT ký hai văn bản trình Chính phủ ra quyết định thu hồi đất của nông dân 4 xã ở Văn Giang thì không ai khác, chính ông đã hiểu hết sự thật toàn bộ vụ việc. Ông là người soạn thảo Luật Đất đai 2003, là Thứ trưởng chuyên trách và cả chuyên sâu, ông thò bút ký những văn bản mà ông đã biết là vô lý ầm ầm, sai luật lè lè, có hại cho dân. Vậy mà ông còn đi tìm sự thật ở tận đâu? Mọi sự thật trong vụ này ông còn lạ gì, khỏi đi tìm đâu xa. Ông đã bỏ túi từ lâu rồi!
Qua đây mới thấy rằng, ông từng nói: "Trung ngôn thì nghịch nhĩ, tính tôi vậy. Đi học chẳng được thầy cô yêu, đi làm cũng chẳng được mấy thủ trưởng quý. Tôi luôn muốn chứng minh rằng, ít nhất, có một người không thể mua được bằng tiền thì cũng không thể mua được bằng rất nhiều tiền". Ông cũng biết rằng: "Người" đó chính là đạo lý, công lý, công bằng. Cho nên, ông rất sợ trung ngôn, nay phải né không dám gặp dân Văn Giang nữa, để khỏi bị nghịch nhĩ người khác, những người đang coi việc nhận lỗi, sửa sai, giải oan, đèn bù thỏa đáng cho nông dân là cả một gánh nặng, phải móc bớt ngân khoản đã găm chặt trong túi để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho những nông dân bị mất đất trong quy hoạch dự án Ecopark Văn Giang.
Bạn đọc Đào Tiến Thi ở Hà Nội chân tình: "...khuyên GS Võ hãy dũng cảm lên. Vừa là trí thức, là quan chức vốn đã trực tiếp và liên quan nhiều, phải chịu trách nhiệm về vụ đất đai này, không nên phủi tay vùi dập công lý. Giáo sư cũng già rồi, bao nhiêu phú quý cũng hưởng cả rồi, cái đồng hồ đếm ngược có còn mấy đâu, còn hy vọng gì ở phía trước đâu. Hãy nhận những việc sai trái trong vụ "ký đại" tai hại này để bà con Văn Giang có điều kiện đấu tranh giành lại công bằng. Như thế khi từ giã cõi đời Giáo sư sẽ cảm thấy thanh thản và lịch sử sẽ ghi nhận sự chân thành sám hối của Giáo sư”.
BVB
Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012
Bùi Văn Bồng - Sao ta lại quá giống người ta?
Bùi Văn Bồng
Trang Bauxite Việt Nam mới đăng bài “Giai cấp chính trị mới của Trung Quốc: người dân” của tác giả Elizabeth C. Economy (nhà nghiên cứu thâm niên thuộc Chương trình C.V. Starr và là giám đốc Ban Nghiên cứu châu Á tại trung tâm nghiên cứu chính sách Council on Foreign Relations tại Hoa Kỳ), bản dịch của Trần Ngọc Cư.
Bài viết mở đầu bằng câu: “Quyền lực đã bắt đầu đến tay người dân Trung Quốc (TQ). Khi các quan chức chóp bu của TQ đang hội họp tại Bắc Đới Hà để đúc kết việc lựa chọn ban lãnh đạo mới cho đất nước, đầu óc họ còn bị ám ảnh bởi một giai cấp chính trị khác ngày càng có sức mạnh – đó là người dân TQ”.
Với một thể chế chính trị mang danh đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, ngụy trang bằng xã hội theo dân chủ, mà nay xảy ra hiện trạng như vậy thật là trớ trêu. Vậy là, cho đến nay, cho dù tự khoa trương, tự huyễn hoặc đến cỡ nào, thì xã hội của TQ đã mất dân chủ từ lâu rồi, không còn mang cái bản chất mà họ cứ hô toáng lên là chế độ Cộng sản. Đảng Cộng sản là của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mà nay lại coi “người dân là giai cấp chính trị mới” (?!), chúng tỏ giới cầm quyền của Đảng Cộng sản TQ hiện nay thuộc giai cấp khác, biểu hiện ngày càng rõ là giai cấp tư sản đặc quyền đặc lợi, các nhà “tư sản đỏ”. Họ chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân và phe cánh, không quan tâm gì đến người dân, mặc cho tình trạng nguy hại xảy đến với hàng vạn người dân như trường hợp mới xảy ra gần đây trong “vụ ngập nước đã gây thiệt hại 1,88 tỉ đôla, khiến 65.000 cư dân phải sơ tán và 77 người thiệt mạng”. Trong khi đó “nhân viên cảnh sát bận viết giấy phạt cho các xe cộ bị bỏ lại trên đường hơn là giúp đỡ người dân đang cần cứu hộ; và công nhân tại các trạm thu lộ phí vẫn tiếp tục thu tiền khi dân chúng hốt hoảng cố thoát con nước đang dâng cao”.
Từ Bắc Kinh đến Giang Tô đến Quảng Đông, công dân TQ đang vận động để tiếng nói của họ được lắng nghe trên Internet và hành động của họ được cảm nhận từ thực tế hoàn cảnh của dân chúng. Đó là vụ ngập nước khủng khiếp tại Bắc Kinh vào cuối tuần qua. Cả tờ Hoàn cầu Thời báo, được coi là bái "lề phải" của Nhà nước cũng nói rằng uy tín của chính phủ bị suy giảm rất nhiều vì đã thiếu quan tâm đến nỗi thống khổ trong thiên tai của người dân. Người dân Bắc Kinh trong cơn nguy biến cứ phải ngóng cổ chờ mong các quan chức hành động cứu khổ cứu nạn.
Bài báo cũng không quên biểu dương một số tấm gương, có cả quan chức địa phương mở trang web và tung lên mạng những thông báo nhằm tiếp cận và sẵn sàng giúp đỡ người dân. Bài báo cũng nêu lên những thực trạng buộc người dân phải thể hiện rõ đấu tranh dân chủ. trước khi diễn ra Đại hội lần thứ 18 của Đảng Cộng sản TQ. Ví dụ: “[…] tại huyện Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, nông dân TQ một lần nữa đã xuống đường trong một nỗ lực kiếm tìm công lý, chống lại tệ tham nhũng của quan chức địa phương và nạn cưỡng chiếm đất đai bất hợp pháp. Ở đây cũng thế, Internet tỏ ra là một yếu tố quyết định: người dân địa phương phát hiện trước tiên các vụ bán đất bất hợp pháp nhờ đọc các website chính phủ.
Quan chức TQ đang tìm phương cách hữu hiệu nhất để lèo lái một hiện tượng ngày càng phổ biến là quyền lực của người dân đang được thể hiện qua Internet.”
Ôi, đọc bài thấy thực trạng xã hội TQ sao giống ta quá, nhất là sau khi Đảng ta có nghị quyết Trung ương 4 đánh giá thực trạng, và ai cũng thấy rõ thực trạng xã hội ở nước ta cũng “y chang” như vậy. “Tại một cuộc họp các bí thư thành uỷ mới đây, ông Lý Nguyên Triều, người trông coi việc bổ nhiệm các quan chức, trong địa vị là người đứng đầu Ban Tổ chức Đảng và có khả năng vào Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, đã nói rất mạnh về nhu cầu là các Bí thư đảng bộ địa phương phải “hiểu và tuân theo ý dân”. Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh các quan chức phải hiểu rằng trên cơ bản họ chỉ là “đầy tớ của dân” và rằng sự thoả mãn của người dân là cái thước cơ bản nhất để đo công tác của các quan chức.” Sao mà ông Lý Nguyên Triều phát biểu giống như ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng quá vậy?
Các quan chức ở TQ đang ra sức vận dụng công nghệ thông tin này để gửi thông điệp của chính mình đến người dân. Bà Vương Huệ, người phát ngôn của thành phố Bắc Kinh, đã đưa ý kiến lên trang mạng của cá nhân của mình để trả lời những lo lắng của người dân một cách tương đối cởi mở và trực tiếp. Bà gọi những bất bình của người dân là “rất bình thường” và nhìn nhận rằng chính phủ còn nhiều thiếu sót. Cán bộ ta đã có ai làm được như thế chưa? Trong khi đó, biết bao nhiêu chuyện xảy ra ngay giữa “Thủ đô văn hiến” vi phạm quyền dân chủ tạo ra những bất bình trong nhân dân và công luận thì chính quyền Hà Nội không những “bình chân như vại” mà còn phát ngôn bừa bãi cho người dân là nghe theo xúi giục của các “thế lực thù địch”. Cán bộ địa phương ở Trung Quốc còn giỏi vi tính, quan tâm đến mạng, tiếp cận với mạng và coi Internet là kênh trực tuyến tiếp xúc với dân. Còn ở ta lại đi tìm cách chặn mạng, thanh tra mạng, dọa nạt mạng, coi cư dân mạng như kẻ thù, hơi một chút là áp đặt có sự xúi giục, bọn cơ hội, liên quan đến sự chống phá, mắc mưu các “thế lực thù địch”. Lãnh đạo, quản lý, điều hành, thực hiện chính sách xã hội thế nào mà để sinh ra lắm kẻ thù đến thế?
Cái khác ta, hơn ta còn ở chỗ có nhiều quan chức và văn phòng chính phủ có tài khoản (account) trên Weibo mà họ có thể sử dụng để liên lạc trực tiếp với cử tri của mình: trong một huyện của tỉnh Chiết Giang, một bài kiểm tra về khả năng viết (writing test) trên mạng xã hội Weibo hiện nay được đưa vào kỳ thi thăng thưởng cho các viên chức địa phương. Và, mặc dù các cơ quan kiểm duyệt của Đảng đã phản ứng mạnh tay đối với các chỉ trích liên quan nhằm “giữ vững uy tín Đảng Cộng sản TQ”, nhưng có không ít trang mạng của người dân (nhà báo tự do) đã nói thẳng ra rằng: “Có uy tín đâu mà giữ? Lo đi giữ cái không có à!”. Còn ngược lại ở ta thì các cán bộ, đảng viên dù có chính kiến, dù quan điểm đúng, muốn lo vì dân, thương dân, muốn đối thoại thoải mái, chân tình với người dân, nhưng khi nem nép nhìn, xin ý kiến, dò ý cấp trên rồi thì im như thóc, thậm chí còn vào hùa nịnh nọt, nói và làm trái lòng mình, thậm chí còn lợi dụng “đục nước béo cò” để tâng công, mong có cơ hội vơ lợi về cho cá nhân. Thật là hổ thẹn! Và nữa, đất nước đang gặp nhiều bất ổn, nguy cơ không còn hòa bình, nguy cơ mất chủ quyền, mất độc lập dân tộc, kẻ thù trực tiếp trước mắt, kẻ thù còn lẻn vào cư ngụ ngay trong “nhà” mình mà cứ hô hoán “thế lực thù địch” tận đâu đâu, thì đó mới chính là “diễn biến hòa bình”?!
Một bài viết về Đảng Cộng sản Trung Quốc lột tả vấn đề xã hội, phơi bày một thể chế chính trị-xã hội như vậy, cho thấy Đảng Cộng sản Trung Quốc theo Chủ nghĩa Mác-Lê-nin chỉ là thứ giả hiệu ngay từ thời Mao Trạch Đông, lừa mị dân, lừa mị thiên hạ. Trong khi đó, bản chất về quan điểm tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhà cầm quyền Bắc Kinh là đậm đà chất tư bản, thậm chí độc quyền, quân chủ chuyên chế chẳng khác nào thời đế chế độc tài Tần Thủy Hoàng.
Khi có quan hệ với Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam cần khẳng định được tính đúng đắn và ưu việt của một Đảng Cộng sản chân chính như luận thuyết và bản chất vốn có của nó, không nên nghe sự xúc xiểm, xúi giục và ngon ngọt dụ dỗ, lừa đảo đẻ bị phụ thuộc. Độc lập và tự chủ dân tộc phải được thể hiện qua sự độc lập về đường lối, chủ trương, chính sách và cả cơ cấu nhân sự, phải căn cứ vào sự thực thi nó để thể hiện là chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nếu không chỉ thì “y chang”, một thứ “bản sao’ của Tàu, là thứ vỏ bọc bề ngoài lừa mị thiên hạ như kiểu Đảng Cộng sản TQ. Cho nên, trong bối cảnh này, cái gì giống Tàu mà có hại, mất uy tín cho Đảng, bị nhân dân tỏ ra muốn đối trận thành “giai cấp khác” như “Cộng sản kiểu Tàu” thì nên hết sức tránh. Cái gì giống Tàu (hoặc giống Tây) mà có lợi cho dân, đem lại văn minh, công bằng, lành mạnh cho xã hội thì phải hết sức làm. Trông người mà thấy ngao ngán, và cũng nhiều trăn trở ngẫm đến ta.
B. V. B.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012
Đại tá Bùi Văn Bồng - Dứt khoát Biển Ðông không phải là 'Ao nhà' của Bắc Kinh
Đại tá Bùi Văn Bồng
Trong vài tuần qua, trước nguy cơ can thiệp cả chiều sâu và diện rộng của Mỹ, Nga và một số nước lớn trên thế giới, cùng với những phản ứng quyết liệt, thái độ dứt khoát của các nước ASEAN, nhà cầm quyền Bắc Kinh chuyển sang chiến thuật mới về ứng xử ngoại giao: “Giải pháp mềm”. Tuy nhiên, tuyên bố ứng xử theo phương sách mới, ngụy trang bằng khẩu khí hòng sử dụng chiến thuật “cây gậy và củ cà rốt” của TQ vừa thoát ra cửa miệng quen thói dối trá, thậm chí “chưa kịp gió bay”, thì ngày 21-6, Quốc hội VN thông qua Luật Biển. Đây là cú đau điếng mà TQ chưa thể ngờ tới, lâu nay cứ tưởng VN nghe mọi thứ răm rắp. Nhưng, TQ đã nhầm và quá chủ quan, cái gì cũng chỉ có giới hạn! Nhà cầm quyền TQ hãy thắp hương mà hỏi các đời vua thua trận ở VN mấy đời cố tổ xa xưa. Sẽ chẳng đem lại lợi ích gì khi coi thường và chọc giận Việt Nam. Không kìm được sự tức tối bởi lòng tham, Trung Quốc lại lộ nguyên hình “cá mập đầu búa trên Biển Đông”.
Bản đồ thể hiện những vị trí Trung Quốc
mở thầu quốc tế trái phép trên lãnh hải Việt Nam - Ảnh: Mai Hà
mở thầu quốc tế trái phép trên lãnh hải Việt Nam - Ảnh: Mai Hà
Nhà cầm quyền Bắc Kinh đã lồng lên phản ứng quyết liệt, đủ trò tung hô, gào thét bác bỏ Luật biển của VN, công bố thành lập thành phố Tam Sa để tăng thêm quyền lực cho việc quản lý HS-TS. Tiếp đến, ngày 23/6 điều mà cả thế giới “bật ngửa”, TQ trơ tráo kêu gọi đấu thầu 9 lô khai thác nằm sâu trong vùng 200 hải lý thuộc EEZ(vùng đặc quyền kinh tế) của VN theo UNCLOS. Sự khiêu khích và hành động trắng trợn ấy càng thể hiện cái chủ đích tham vọng từ lâu là coi Biển Đông là cái “ao nhà” của Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc đã thẳng thừng đưa ra những tuyên bố ngang ngược, coi thường Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hiệp quốc (UNCLOS), không tôn trọng cam kết quốc tế, hùng hổ chà đạp lên cái gọi là phương châm“16 chữ vàng” và xổ toẹt quan hệ “4 tốt” mà chính lãnh đạo TQ đã giao kết với VN.
Biển Đông quyết không thể là cái “ao nhà” của Trung Quốc mà nhà cầm quyền Bắc Kinh lộng hành, tùy tiện muốn làm gì cũng được. Đó là thái độ dứt khoát của Việt Nam. Đó cũng là khẩu hiệu hành động kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển-đảo của Việt Nam.
Khi VN kiên quyết ra Luật Biển, TQ hậm hực, càng ráo riết tìm cách dấn tới để cô lập VN hơn nữa. Tuy TQ đã tuyên bố là “trỗi dậy hòa bình”, “hợp tác chặt chẽ thân thiện với ASEAN”, nhưng thực sự họ lại đang thực hiện tham vọng lãnh thổ, lãnh hải bằng nhiều hình thức, cả biện pháp đe dọa quân sự. Những hành động xâm phạm vùng biển VN như cắt cáp thăm dò địa chấn, phá hoại tàu Bình Minh 02, bắt cóc ngư dân bắt VN phải chuộc, nhiều lần cho tàu hải giám xâm phạm sâu vào vùng biển VN, cài người nuôi bè cá ở Cam Ranh, Vũng Rô, nay lại dấn lên trắng trợn rêu rao đấu thầu 9 lô mỏ dầu của Việt Nam.
Vị trí 9 lô dầu khí Trung Quốc mời thầu trái phép
trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam - Ảnh: Mai Hà
Hành động của TQ đã vi phạm nghiêm trọng Tuyên bố về ứng xử của Các bên ở biển Đông và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Trong tình huống ấy, bắt buộc chúng ta phải hành động đáp trả trước sự khiêu khích trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh và bất cứ ai theo chân của TQ xâm phạm chủ quyền lãnh hải của VN , không thể nhân nhượng yêu sách đòi QHVN bãi bỏ luật biển vừa được thông qua một cách phi lý. Ngày 26/6/2012, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lương Thanh Nghị nêu rõ: “Đây là hành động phi pháp và không có giá trị, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia chính đáng của Việt Nam, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc là quốc gia thành viên, làm phức tạp tình hình và gây căng thẳng ở Biển Đông. Việt Nam cực lực phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc hủy bỏ ngay việc mời thầu sai trái trên, không có hành động làm phức tạp tình hình ở Biển Đông và mở rộng tranh chấp, nghiêm túc tuân thủ Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)”.
Trước hết cần khẳng định khu vực mà Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc thông báo mở thầu quốc tế nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đây hoàn toàn không phải là khu vực có tranh chấp về chủ quyền với bất cứ ai. Việc phía Trung Quốc ngang nhiên mời thầu quốc tế thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là hành động hết sức ngang ngược và không có giá trị, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia chính đáng của Việt Nam, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc là quốc gia thành viên, làm phức tạp tình hình và gây căng thẳng ở Biển Đông. Chiều 27-6, Petro VN đã tổ chức cuộc họp báo phản đối việc chào thầu dầu khí phi pháp của Trung Quốc, đồng thời khẳng định việc mời thầu tại các lô nằm trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là trái Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Đỗ Văn Hậu đề nghị các công ty dầu khí quốc tế không dự thầu. Trong vụ việc Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu thăm dò - khai thác tại 9 lô trên Biển Đông, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí, ông Đỗ Văn Hậu, cho biết: Đây cũng là lần đầu tiên một doanh nghiệp Trung Quốc công khai mời thầu hoạt động dầu khí tại vùng đặc quyền của Việt Nam. Mặc dù trước đó, bản thân CNOOC và PVN cũng đã có quan hệ với nhiều hợp đồng thăm dò, khai thác chung, trong đó có việc thăm dò chung vùng cấu tạo vắt ngang trong Vịnh Bắc Bộ.
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định mọi hoạt động khai thác dầu khí
của Việt Nam vẫn diễn ra bình thường - Ảnh: Mai Hà
của Việt Nam vẫn diễn ra bình thường - Ảnh: Mai Hà
Qua kiểm tra, xác minh tọa độ, PVN xác định tất cả các khu vực này đều nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam. Khu vực rộng hơn 160.000 km2 này cũng nằm chồng lên các lô 128 - 132 và 145 - 156 mà PVN đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí lâu nay. Đây cũng là khu vực không có tranh chấp trên biển.
Theo lãnh đạo PVN, vùng biển phía Trung Quốc gọi thầu chỉ cách bờ biển Quảng Ngãi 76 hải lý, cách phía bắc Nha Trang 60 hải lý. Khoảng cách gần nhất đến vùng giữa Nha Trang và Phan Thiết chỉ là 57 hải lý. Vùng này cũng chỉ cách đảo Phú Quý 30 hải lý và là nơi được Petro VN tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu. Năm 2011, tàu Bình Minh 02 cũng bị tàu Trung Quốc cắt cáp trên vùng biển này. “Trong trường hợp phía Trung Quốc hoặc doanh nghiệp trúng thầu cố tình phớt lờ ý kiến của Việt Nam, PVN vẫn sẽ phản đối đến cùng”, ông Hậu quả quyết.
Hiện nay, tập đoàn PVN có 3 dự án thăm dò (chưa có hoạt động khai thác) với các đối tác nước ngoài là Gazprom (Nga), Exxon Mobil (Mỹ), ONGC (Ấn Độ) và một hợp đồng do chính PVN thực hiện. Lãnh đạo của PVN khẳng định, các hợp đồng này là phù hợp với luật pháp quốc tế, trên cơ sở quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam, do đó, sẽ tiếp tục được triển khai bình thường, bất chấp việc gọi thầu của phía CNOOC. Theo kế hoạch, sắp tới PVN sẽ mở rộng việc hợp tác, thăm dò, khai thác ở các khu vực hiện chưa có dự án. Các hội thảo, buổi làm việc với đối tác cũng sẽ được tiến hành bình thường.
Rõ ràng, sự ra đời của Luật Biến VN từ lâu vẫn là cái gai lớn nhất mà Trung Quốc cố tình né tránh. Nay sự thể xảy ra theo đúng quy luật và nhu cầu của VN như vậy, TQ coi đó là một trong những lý do cấp bách khiến TQ gia tăng các hành động cơ bắp ở biển Đông, nhằm dọn đường cho hoạt động khai thác dầu khí vốn nằm trong chiến lược lâu dài của họ. Trước đó, ngày 23/5, sau khi Tổng Công ty Dầu khí ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC) chính thức khoan giếng dầu đầu tiên ở vùng nước sâu thuộc Biển Đông. Khu vực giàn khoan 981 hoạt động cách Hồng Công khoảng 320 km về phía Đông Nam (ngày 9/5), TQ đã cho hạ thủy giàn khoan dầu lớn và hiện đại nhất của họ tại Thượng Hải. Nó sẽ giúp nâng cao năng lực khai thác của TQ, vốn lâu nay chỉ có giàn khoan hoạt động được ở các vùng biển sâu 500 mét. Theo Hoàn Cầu Thời Báo, việc triển khai giàn khoan dầu này sẽ giúp TQ có một sự hiện diện mạnh mẽ hơn tại vùng biển chưa được khai thác ở nam phần Nam Hải, tức là biển Đông, và “nam phần Nam Hải” tức là vùng biển nam biển Đông, có thể thuộc quần đảo Trường Sa hoặc thậm chí xa hơn nữa về phía Nam, nơi TQ không có chủ quyền nhưng lại nằm trong phạm vi “đường lưỡi bò” đầy tham lam của họ. Đây chính là một bước đi nữa của nhà cầm quyền Bắc Kinh mong sớm hiện thực hóa tham vọng biến biển Đông thành “ao nhà”, mưu đồ vươn vòi bạch tuộc mà chính quyền Bắc Kinh đang ráo riết theo đuổi.
Việc Trung Quốc đẩy mạnh chương trình thăm dò và khai thác tại biển Đông không chỉ là hành động thách thức chủ quyền của các nước trong vùng mà còn đặt ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng. Dàn khoan dầu khổng lồ mà Trung Quốc dự định triển khai trên biển Đông chính là một pháo đài quân sự nguỵ trang và là công cụ hiện thực hoá yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, biến biển Đông cùng các tài nguyên của nó thành của riêng cho Trung Quốc. Với đà này, không ai hy vọng Tuyên bố DOC hoặc là bộ Quy ước hay COC sẽ được Trung Quốc quan tâm thực hiện nghiêm chỉnh. Và do đó, tình hính an ninh trên Biển Đông sẽ còn tiềm ẩn và bộc lộ nhiều bất ổn do Trung Quốc chủ động và rất muốn gây ra.
Những hành động trắng trợn, ngang ngược và bất chấp mọi sự như trên càng thể hiện tham vọng thâm căn cố đế từ trong máu của đại Hán luôn tìm mọi cơ hội kể cả bằng vũ lực hòng biến biển Đông thành “ao nhà” của chúng. Trước thực trạng đó, một sự đoàn kết ASEAN sẽ khiến TQ mất rất nhiều lợi thế nước lớn và đâu dễ làm liều được mãi. Chính vì thế, TQ một mặt phản đối quốc tế hóa vấn đề biển Đông, một mặt gia tăng các hoạt động ngoại giao với từng nước riêng rẽ, mà một trong những mục đích của nó là phá vỡ khối đoàn kết ASEAN bằng cách gia tăng nghi kỵ giữa các nước trong khối, khăng khăng một mực đòi chỉ “đối thoại song phương”. Đó là chiến thuật “chia để trị”, như kiểu người ta tách bó đũa ra để dễ dàng bẻ gãy từng chiếc vậy. Việc cố tình thò dài “cái lưỡi bò”, cố tình “lấn sân” không ngán ai của Trung Quốc đối với Việt Nam và gần đây với Philppines khiến các nước ASEAN phải nhận diện rõ hơn bản chất tham vọng bành trướng muốn bao chiếm hết ít nhất 80% Biển Đông. Sự đoàn kết của các nước ASEAN trong lúc này cần phải thể hiện bằng hành động thực sự kiên quyết bảo vệ từng góc biển, từng hòn đảo, chứng tỏ cho TQ thấy rằng, dứt khoát Biển Đông không thể là cái “ao nhà” của Bắc Kinh.
Đại tá Bùi Văn Bồng
6/2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)