Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Giáng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bùi Giáng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

Mặc Thu: Mì Quảng Của Bùi Giáng

 

Lần đầu tôi gặp Bùi Giáng vào năm 1957, tại Sài Gòn. Khi ấy, mỗi chiều tối, gần như thường lệ, Đinh Hùng và tôi gặp nhau ở Câu Lạc Bộ Văn Hóa, đường Tự Do (Catinat cũ) để uống bia. Quán này của anh chị Phạm Xuân Thái, thường tụ họp khá đông giới văn nghệ sĩ của thủ đô miền Nam. Anh Phạm Xuân Thái lúc ấy đã rời chức bộ trưởng Bộ Thông Tin. Anh đại diện giáo phái Cao Đài trong chính phủ Ngô Đình Diệm.

Quán này có hai tầng tiếp khách. Tầng trên lầu và tầng dưới. Tôi và Đinh Hùng thường ngồi ở cái bàn nơi góc cửa ra vào, tầng dưới. Nhiều khi cùng ngồi với chúng tôi, có nàng thơ bé nhỏ (chừng 16, 17 tuổi) người miền Nam học trường Pháp, Marie Curie. Nàng tên Diệu Hiền (có lẽ chỉ là bút hiệu). Diệu Hiền có nét đẹp thánh thiện, luôn mặc quần áo trắng, tóc buông lơi ngang lưng, không chút phấn son. Diệu Hiền làm thơ, bằng tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt. Trong thơ nàng thường tự xưng là “Người yêu của Chúa” và thường nói với chúng tôi “không thể yêu ai, ngoài Chúa”; gia đình Diệu Hiền theo đạo Công Giáo gốc đã từ mấy đời. Câu chuyện Diệu Hiền, tôi sẽ nói ở một đoạn sau trong hồi ký này.

 

Trở lại Câu Lạc Bộ Văn Hóa. Tuy làm chủ, nhưng anh chị Phạm Xuân Thái ít khi xuất hiện. Đôi lần, chị Thái từ nhà trong đi ra phố, ngang qua bàn chúng tôi, khẽ mỉm cười, nghiêng đầu chào. Chị có dáng lả lướt, thanh tao, mơ hồ một nét liêu trai. Nếu khách là kẻ đa tình, không thể không ngơ ngẩn nhìn theo. Cái dáng đẹp ấy có thể dìm chết khách vào trong mộng.

 

Một buổi, Đinh Hùng bảo tôi:

 


Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2021

Thơ BÙI GIÁNG

CHÀO EM VÔ TẬN


Em đằm thắm suốt không gian bỡ ngỡ
Anh chào em như lồ lộ sương mai
Đầu tiên ấy em vu vơ thăm dọ
Suốt bình sinh là tại thể miệt mài

Em nõn nà đẹp như thiên tiên từng đẹp
Em tươi xinh như vạn thuở xuân xanh
Anh không dám nhìn em trong chớp mắt
Vì điêu linh là mộng tưởng không thành.

Hình minh hoạ, FreePik

NGƯỜI VẪN TƯỞNG ẤY CHUYỆN MUÔN ĐỜI


Người vẫn tưởng rằng xuân xanh xa thế
Ở đây là rất viễn ngạn mù khơi
Em vẫn đẹp như thiên thu hồng lệ
Từ thanh lâu gieo giọt xuống muôn đời

Anh đã định sẽ cùng em kể lể
Một nỗi đời hư huyễn khắp muôn nơi
Chiêm bao thấy em vô cùng diễm lệ
Tìm tới anh kể câu chuyện một lời

Lời là muộn của muộn màng sông bể
Tình là yêu vô lệ tưởng nhớ nhau
Em sẽ nhớ là xưa kia có kẻ
Đã yêu em và suốt kiếp mang sầu

Tuy là vậy mà ắt nhiên không phải vậy
Nói là sầu là sầu dựng thiên thu
Những chót vót tuyệt trù vô tận tụy
Chóp đỉnh về cùng bỉ ngạn phiêu du.

1994



Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2021

Bùi Giáng: Chào nguyên xuân

D:\PhamPhuMinh\Pictures\Scanned\2021-03-26 B Giáng\B Giáng 001.jpg

 


Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng : những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây ngang đầu
Hỏi rằng : người ở quê đâu
Thưa rằng : tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng : từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng : nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng : đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng : ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.

(Mưa Nguồn)

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Phạm Xuân Đài: BÙI GIÁNG và nỗi lòng Tô Vũ

Tôi đọc bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lần đầu tiên vào thập niên 50, trên tờ Phổ Thông do ông Vũ Quốc Thúc chủ trương, xuất bản tại Hà Nội trước cuộc di cư năm 1954. Tuổi học sinh, đọc là tôi mê bài ấy ngay, nỗi mê gần giống như khi đọc Les Étoiles của Alphonse Daudet, có lẽ với nhiều cảm động hơn. Một bên là chàng chăn dê giữa rừng núi với tình yêu bầy dê của mình, một bên là chàng chăn cừu với mối tình chớm nở với cô con gái ông chủ. Tuổi thanh thiếu niên dễ "bắt" những rung động ấy lắm. Và tôi không ngờ "mối tình" của tôi với Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lại dai dẳng đến thế, sau này tôi đã đọc nhiều thơ, văn của anh, đã quen biết anh, nhưng hình ảnh chàng chăn dê trên núi trong một buổi chiều "ước thệ" với những vòng đeo cổ dê và cổ chính mình vẫn ở mãi trong lòng tôi như một vùng trong sáng thuộc vào tuổi trẻ. Tuổi trẻ của tác giả, và sau đấy, của tôi.

Chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ:




Nỗi Lòng Tô Vũ

Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú

Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2019

Bùi Giáng: Ly Tao

Hình minh họa, FreePik

Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ 
Và yêu thương như lá ở bên hoa 
Và luyến ái như tơ vàng bốn ngả 
Bủa vi vu như thoáng mộng la đà 

Em đã lại với đời về nắng ấm 
Thắm không gian thương nhớ bóng hình em 
Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm 
Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm 

Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng 
Quên não nùng sa mạc của yêu thương 
Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động 
Em là em anh đợi khắp nẻo đường 

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

*Song Thao: Ðiên (2)


(Tiếp theo và hết)

               
Bức tranh "Gửi đêm" của Bùi Giáng từng được đấu giá 27 ngàn đô 
Bùi Giáng trước hết và trên hết là một nhà thơ. Thơ ông không trau chuốt mà hồn nhiên như cuộc sống của ông. Một lối thơ rất…Bùi Giáng:

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày bóng con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Ông vung vãi thơ. Viết chữ là ra thơ, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Thơ ông viết trên mọi thứ ông có trên tay, nhiều nhất là trên mặt sau giấy bạc gói bao thuốc lá. Theo Mai Thảo kể lại thì vào năm 1962 hay 1965, ông không nhớ chắc, nhà xuất bản An Tiêm của thầy Thanh Tuệ in thơ và văn của Bùi Giáng mệt nghỉ, không còn in sách của các tác giả khác được nữa. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy”.Sao Bùi Giáng có thể viết nhiều như vậy trong khi thấy ông rong chơi tối ngày, ông chỉ nói: “Vui thôi mà!”.

Song Thao: Ðiên (1)


Bùi Giáng qua nét vẽ của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh. 
Năm 1990, nhóm Việt Thường ở Montreal có xuất bản một cuốn thơ của Bùi Giáng gồm những bài chưa được phổ biến trước đây. Hình bìa là tranh chân dung Bùi Giáng do họa sĩ Đinh Cường vẽ, mang tên “Đôi Mắt Bùi Giáng”. Nhìn vào đôi mắt như tóe lửa của chàng thi sĩ được nói tới nhiều nhất, tôi thấy rờn rợn. Tôi tìm hình chụp của Bùi Giáng và tóm được một tấm hình có đôi mắt dữ dội như trong tranh vẽ. Đôi mắt của người điên!
Nhưng Bùi Giáng có điên không? Trong bài “Thay Lời Tựa” của cuốn sách, nhóm Việt Thường có nhắc tới hai giai thoại về Bùi Giáng. Sau 1975, ông đi qua chợ vỉa hè bán phụ tùng xe đạp ở cuối đường Trương Minh Ký, nhào vào lấy một cái ghi-đông xe và bỏ đi. Bà bán hàng chạy theo la thất thanh nhờ thiên hạ bắt giùm “thằng ăn cắp”. Ông nhẩn nha quay trả lại cái ghi-đông vào chỗ cũ và từ tốn phân bua:  “Bà con coi! Mất cả nước không ai la, mất có cái ghi-đông xe mà la um sùm!”. Một giai thoại khác. Ông đang đi trên đường, thấy một phụ nữ Nga, vội chạy tới bóp vú bà này. Bà la choi chói, ông lầm bầm với người chung quanh: “Tao chỉ muốn thử xem cặp vú của nó có thể nuôi hết con dân Việt Nam không?”.

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

Ðặng Phú Phong: Ngả Ba


Để nhớ Bùi Giáng

Trong một quán cóc có kê mấy cái bàn thấp lấn ra ngoài vỉa đường. 
Ông già: - Ừ tại sao xe chẳng gọi là bò? Nó cũng đi, chạy, né,  húc. Đúng rồi, ta đã mất bò, ta không có cái để chăn. Vậy ta chăn xe để thế bò. Ta chăn xe.
Gã trung niên: - Không ai gọi là chăn xe cả.
Ông Già: - Thế mi gọi là gì?
Gã trung niên: - Không biết. Ông đặt tên được mà.
Ông già: - Ừ, thì cứ gọi là chăn bò sắt hỉ. Ưm... nghe
dở... gọi là chăn bò bò đi.
Gã trung niên: - Cũng được. 

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Bùi Giáng - Lời người điên


Chúng tôi người ngợm vô thường
Lúc mê man lúc chán chường thể thân
Các em gắng gổ đôi phần
Đừng nên uống rượu lần khân sinh bình
Dịu dàng sống giữa gia đình
Ngày ngày tháng tháng hậu tình năm năm
Trái tim nguyệt tỏ đêm rằm
Máu me mây gió tơ tằm vấn vương
Ở đời kiệt tận xẩu xương
Hình hài biến thể thân mường tượng thân.

Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2016

Bùi Giáng - Màu Trời Ðó


Màu trời đó bữa nay về trở lại
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa

Đường có cỏ có bờ lau rộng có
Lá cây bay và em có đi qua
Bàn chân bước lệ buồn em có nhỏ
Xuống điêu tàn em khóc mộng tiêu ma

Nguồn thao thức ta về từ một buổi
Trời bay mây bốn hướng gió xa mong
Từng cánh én mang trùng dương về nội
đâu rồi em? sóng đục đã theo giòng

Em cho phép ta ngồi đây hỏi lại
Và gọi về trăng mùa cũ lang thang
Màu trời đó để ngàn sương hớt hải

Xuống li ti là dựng vội con đường.

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Bùi Giáng - Màu Trời Ðó

Bùi Giáng - tranh Ðinh Cường

Màu trời đó bữa nay về trở lại
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa

Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

Bùi Giáng - chỗ này / người xưa / người điên


Thơ BÙI GIÁNG



chỗ này

Người đứng  đó ngày về tôi có thấy
Hai bàn chân trên cỏ lá ngàn xuân
Phong cảnh  đã  bốn bề cùng tôi nói
Linh hồn người là thiếu nữ thanh tân

Rồi tôi  lớn đi vào đời chân bước
 Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
 Người đi đâu ? xưa chính đã chỗ này

Người không ở vì chờ mong đã mỏi
Người đã đi cùng tuổi trẻ tôi đi
Chợt có lúc trên đường tôi đứng lại
Ngó ngu ngơ ... xưa chính đã chỗ này
                                                                               


người xưa

Người đi lại bước  vào em nhắn nhủ
Sầu vây quanh bờ cõi rụng chiêm bao
Mắt đã khép lúc thu mờ đã cũ
Xa mấy lần cồn lá  động môi trao

Đầu mũi dựng một triều  sông dạo sóng
Gọi miên man trời thiên cổ mong manh
Mắt đã khép để mi mờ còn vọng
Tiếng linh hồn trong cẩm thạch long lanh

Người đã định một lần thôi để hỏng
Đường vu vơ về chốn cũ trăm năm
Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng
Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm

                               
người điên

Người yêu mù của tôi
Người yêu câm của tôi
Một đời chàng không nói
Một đời chàng khô môi

 Chàng nghe thấy ở đâu
Nơi nào chàng bắt gặp
Bên bờ cỏ bụi dâu
Một mùa xuân hấp tấp

Từ khô se cồn nội
Xuống ruộng trổ đòng đòng
Lúa mùa lên phơi phới
Bờ nước đục cong cong

Vì sao chàng nhắm mắt
Đi kiếm mãi một mình
Để trời mưa lên mặt
Một cồn lá phiêu linh.

Trích trong tác phẩm MƯA NGUỒN

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

KẺ CUỒNG SĨ TRONG VƯỜN CÂY

PHẠM XUÂN ÐÀI

Bùi Giáng và Phạm Xuân Đài tại khu vườn nơi thi sĩ cư ngụ - Sài Gòn 1992
Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ trước đây ở miền Nam -và có lẽ cả nước- được yêu mến như Bùi Giáng. Những ai từng sống trong không khí văn nghệ ấy, bây giờ sau khi trải qua thực sự một cuộc bể dâu, dù ở trong nước hay ra nước ngoài đều nhớ tới anh như một đám xanh tươi duy nhất còn sót lại giữa một vùng đã bị sa mạc hóa cằn khô. Có điều lạ là trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không cần. Anh có một ma lực tự nhiên của đấng tài hoa, và ảnh hưởng của anh trong cõi tinh thần của một số đông người là có thực.

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Nghĩ về Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử và Thanh Tuệ!

Nguyễn Mộng Giác

Trong một bài tạp ghi viết cách đây khá lâu, tôi có ghi nhận mối duyên nợ thắm thiết giữa nhà thơ và nhà chùa. Hầu hết các nhà sư đều thích đọc thơ, làm thơ, in thơ. Hầu hết các nhà thơ, ngược lại, đều có quan hệ thắm thiết với nhà chùa, nhất là vào những lúc nhà thơ gặp cảnh hoạn nạn. Cũng lạ. Tôn giáo nào cũng tuyên xưng lòng thương yêu. Chùa chiền, giáo đường, thánh thất... luôn luôn mở cửa chào đón những kẻ khốn cùng, những người bất hạnh. Một nhà thơ đau khổ cũng tuyệt vọng, xót xa như bất cứ ai, nhiều khi người biết làm thơ ít đau khổ hơn những người không biết làm thơ, vì nhà thơ có thể chia bớt nỗi đau cho chữ nghĩa. Ðau mà khóc được thì mau vơi hơn nỗi đau thầm. Nhưng khi tìm một nơi an trú, hình như các nhà thơ lại có những cách lựa chọn khác hơn người thường. Lý do? Nói như ngôn ngữ nhà Phật, các nhà thơ thường có cái ngã lớn hơn người thường. Dù trong cảnh hoạn nạn, các nhà thơ không thích những đôi mắt nhìn xuống thương hại, không thích bị đối xử như một đứa trẻ mồ côi trong viện dục anh. Thử tưởng tượng một nhà thơ như Alfred de Vigny (tác giả bài Cái chết của con chó sói) hay Tản Ðà (người tự nhận là ông tiên bị giáng xuống trần) mà phải chịu đứng yên cho các bà mệnh phụ ngắm nghía hình hài và xuýt xoa thương xót, chúng ta sẽ thấy hình ảnh đó nghịch lý biết chừng nào. Thi sĩ có thể nghèo đến độ nhìn hoa cúc vàng mà gan ruột cồn cào vì đói như Nguyễn Du, có thể chết dấm dúi trong một chiếc thuyền rách như Ðỗ Phủ. Nhưng phải chịu thu vai bó gối cho thiên hạ nhìn xuống thương hại, thì không. Nhất định không. Thi sĩ thích tìm nơi an trú nào ở đó, anh ta vẫn có thể tiếp tục làm thi sĩ, ở đó không có những ánh mắt thương hại, ở đó khỏi phải ngửng đầu lên mà cầu khấn. Nhìn quanh, hình như chỉ có chùa chiền là nơi an trú thích hợp cho các nhà thơ.