Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoan Trang. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đoan Trang. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022
Đoan Trang/Người Việt: Little Saigon - Ra mắt sách minh oan cho cụ Phan Thanh Giản vào 15 Tháng Năm
LITTLE SAIGON, California (NV) – “Lý do tôi viết cuốn sách ‘Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân’ là vì nhận thấy sự bất công cho cụ Phan Thanh Giản.”
Tác giả, Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên, nói với nhật báo Người Việt khi chuẩn bị ra mắt cuốn sách này vào 2 giờ chiều, ngày 15 Tháng Năm, tại Viện Việt Học, 15355 Brookhurst St., Suite 222, Westminster, CA 92683.
Bìa cuốn sách cuốn sách “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân'” (Hình: Đoan Trang/Người Việt) |
Cùng họ với cụ Phan Thanh Giản, nhưng Luật Sư Đào Nguyên khẳng định: “Tôi không phải là ‘hậu duệ,’ cũng không có liên hệ bà con gì với cụ. Thêm lý do tôi viết cuốn sách này, là vì sau cuộc hội thảo về Petrus Ký, Giáo Sư Nguyễn Trung Quân, cựu học sinh, và cũng là cựu hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ, cùng ông Phạm Phú Minh (tức nhà văn Phạm Xuân Đài) ‘gửi gấm’ tôi nghiên cứu về cụ Phan. Quá trình nghiên cứu tôi mới thấy có một sự dàn xếp, bịa đặt của các sử gia miền Bắc Việt Nam, để cố tình hạ nhục cụ Phan Thanh Giản.”
Cuốn sách “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân’” được tác giả viết trong vòng một năm, khoảng thời gian đại dịch COVID-19. Ông cho biết lúc dịch bệnh, do “không được đi chơi đâu” nên ông dành thời gian cho việc viết sách, ngoài công việc thường nhật không thể bỏ.
Cuốn sách có nhiều các tài liệu bằng tiếng Pháp, tiếng Hán.
Thứ Tư, 1 tháng 1, 2020
Đoan Trang & Trịnh Hữu Long: Chính trị Việt Nam - Một thập kỷ nhìn lại
Chúng ta đang tiến đến những khoảnh khắc cuối cùng của năm 2019, khép lại một năm đầy sự kiện và không chỉ thế, khép lại nguyên một thập kỷ. Luật Khoa nhìn lại và đánh giá những sự kiện, biến động và khuynh hướng lớn nhất của nền chính trị ở Việt Nam trong những năm từ 2010 đến hết 2019.
![]() |
Đồ hoạ: Luật khoa - Ảnh: VOA |
Mười năm trước,“xã hội dân sự” còn là một khái niệm hết sức xa lạ và nhạy cảm. Mười năm đủ để bình thường hóa và đưa khái niệm này vào cuộc sống hàng ngày.
“Xã hội dân sự” xa lạ và nhạy cảm bởi hầu hết người Việt Nam đang sống ngày nay đều không có cơ hội được học và được trải nghiệm một xã hội bình thường với ba thành tố chính: chính quyền, thị trường và xã hội dân sự. Từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách kiểm soát xã hội một cách toàn diện và không cho phép thị trường lẫn xã hội dân sự tồn tại. Cuộc cải cách kinh tế mang tên “Đổi Mới”, bắt đầu từnăm 1986, đã bình thường hóa khái niệm “thị trường”, nhưng “xã hội dân sự” thì phải chờ đến cuối những năm 2000 mới bắt đầu được nói đến. Các tổ chức phi chính phủ (NGO) dần đóng vai trò chính trị lớn hơn trong đời sống xã hội, tuy vậy, gần như chỉ mang tính chất phụ họa và tư vấn cho chính quyền nhiều hơn là gây được sức ép.
Bước ngoặt đến vào năm 2011, sau sự kiện tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của PetroVietnam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 26/5. Một làn sóng phẫn nộ lan khắp Internet, cả blog lẫn mạng xã hội Facebook. Nhật Ký Yêu Nước (một trang facebook thành lập ngày 12/4/2010, chính thức hoạt động ngày 16/4/2010) phát lời kêu gọi biểu tình phản đối Trung Quốc.
Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015
Đoan Trang - Bạo lực ở đâu ra (1)
Thanh niên mặc áo đỏ trong hình là người đã vặn tay và tát tác giả bài viết, và đây là nụ cười của anh ta khi bị mọi người hỏi "sao đánh con gái".
22h00, tại sảnh A2, khu T2, cảng sân bay Quốc tế Nội Bài
Những người đi đón tiến sỹ Nguyễn Quang A đang ngồi nói chuyện để quên đi hiện thực chua chát thì đột nhiên vang lên tiếng hét: “Đánh người, đánh người…”. Mọi người vội vã lao ra, thấy một tên to khỏe mặc áo trắng đang đánh Lưu Văn Minh (tức Dustin Bý) ngay trước cửa WC của sân bay, hắn túm cổ và đấm túi bụi vào đầu Minh. Ngay lập tức khoảng ba, bốn tên mặc thường phục và năm, sáu tên mặc quân phục lao vào đó, có lẽ để đánh hôi cũng như để ngăn nhóm người bảo vệ Minh. Những người nhanh chân nhất trong nhóm người đi đón ông Quang A chạy về phía Minh để bảo vệ bạn mình, đồng loạt hô to yêu cầu an ninh sân bay bảo vệ người dân. Còn các anh an ninh có mặt tại đó khéo léo vây bọc để cho kẻ áo trắng tẩu thoát.
Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015
Đoan Trang - Câu chuyện Anh Ba Sàm
Anh đã luôn có mặt ở những nơi đó. (Ảnh: No-U Hà Nội) |
Một ngày đầu tháng 5 [2014 - BVN] ở Hà Nội, công an Việt Nam đột
ngột ập vào nhà, cũng là công ty, của một blogger nổi tiếng – Nguyễn Hữu Vinh,
được biết đến dưới cái tên Anh Ba Sàm. Vinh và trợ lý là cô Nguyễn Thị Minh
Thúy – một người mẹ của hai đứa con song sinh 7 tuổi – bị bắt ngay lập tức.
Vụ bắt khẩn cấp rõ ràng nhằm làm Vinh bất ngờ. Tuy nhiên, công an
không kiểm soát được trang tin vốn đông người đọc Ba Sàm News, và trang này vẫn
tiếp tục hoạt động. Trên thực tế, chỉ 5 ngày sau khi Vinh và Thúy bị bắt, hai
cộng sự khác của ông đã ra một tuyên bố đầy thách thức: “Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, nhưng Ba Sàm thì không”. Tuyên
bố này hàm ý rằng một phong trào viết blog mạnh mẽ hơn, viết vì sự thay đổi, sẽ
tiếp tục nổi lên ở Việt Nam.
Thứ Hai, 17 tháng 8, 2015
Đoan Trang - "Bộ trưởng Giáo dục" tương lai, đừng sợ!
Thảo Gạo: Buổi hội thảo hôm đó mình cũng có mặt, cùng nhóm bạn của mình. Bạn mình là người up clip đó lên mạng, clip thì do một người bạn khác làm, còn mình là người đầu tiên chia sẻ clip về facebook. Bọn mình, tuổi đời lần lượt 23, 24, 25, khi nghe những gì cậu bé đó chia sẻ đều phấn khích, bởi em nói thẳng, bởi em nói những điều mà chưa chắc ba bọn mình và nhiều người lớn ở đó đã dám nói trong một hội thảo có cả "rừng an ninh".
Vì sự phấn khích đó mà bạn mình nhiệt tình up clip lên mạng, nhìn cái cách bạn ấy đếm số người xem, số like thật là buồn cười. Ai mà ngờ được một thằng bé 14 tuổi nói vài lời bức xúc lại khiến số đông phấn khích đến như vậy. Mấy ngày qua, tốc độ lan truyền của clip đó chóng mặt, số người quan tâm và nói về cậu bé đó cũng rất đông. Đúng là thời buổi này, công thức để nổi tiếng rất đa dạng và... khó đoán.
Quay trở lại ngày hôm đó, khi tan hội thảo, mình có tìm gặp cậu bé, cậu đi cùng mẹ. Cả hai mẹ con em đều rất lịch sự và hợp tác. Mình giới thiệu bản thân và xin em cách thức để liên lạc, mẹ em gợi ý là nên cho cả facebook, số điện thoại và địa chỉ email, nhưng em quyết định ghi cho mình mỗi địa chỉ email. Nhưng chắc có lẽ em viết nhầm chỗ nào đó mà những ngày qua, tất cả những email của tụi mình đều không được hồi đáp.
Do vậy, nếu ai đó là người thân, người quen của Minh thì mong rằng hãy gửi cho mình cách thức để liên lạc với Minh. Hoặc giả như những dòng chữ này được Minh đọc thì xin em hãy inbox cho chị.
Chị chỉ muốn nói rằng nếu phản ứng của "một bộ phận dư luận" vừa qua gây tác động tiêu cực đến em thì chị rất lấy làm xin lỗi. Và nếu em có đọc những gì người ta bình phẩm không hay về em thì mong rằng em đừng vội vàng tin đó là thật mà nghi ngờ bản thân mình. Em có nhớ bác Phạm Toàn nói gì không? "Nhiều người lớn cho rằng mình đúng hơn trẻ nhỏ, để tự cho mình cái quyền áp đặt lên chúng, dạy bảo chúng...".
Cậu bé mà chị gặp hôm đó cho chị cái ấn tượng mạnh mẽ, không nhất định vì những gì em nói ra là đúng, là chân lý mà bởi vì sự nhiệt tình em tỏa ra, sự tự chủ em cho thấy. Chị thật lòng tin, dù em có trở thành bộ trưởng hoặc ông nọ bà kia hay không, thì em cũng sẽ trở thành một con người có giá trị - hơn rất nhiều những người đang cho mình cái quyền phán xét, dạy bảo mọi thứ ngoài kia. - Theo FB Thảo Gạo
Đôi khi, phản ứng của “một bộ phận dư luận” thật đáng ngạc nhiên.
Khi nhà báo Mỹ Thomas A. Bass viết một loạt bài dài về tình trạng
kiểm duyệt ở Việt Nam (năm 2014), ông cứ hí hửng tưởng đâu các bài viết của
mình sẽ gây một làn sóng dư luận về vấn nạn kiểm duyệt văn hóa, xuất bản tại
đất nước này. Điều khiến ông bất ngờ là khi các bản dịch của loạt bài được công
bố, quả thật đã có một làn sóng, nhưng nói chung đó là sự phẫn nộ dành cho một
tên “nhà báo-chỉ điểm” đã không bảo vệ nguồn tin, đã lôi tuột hết danh tính các
nạn nhân của kiểm duyệt lên truyền thông, khiến cho họ có nguy cơ gặp rầy rà,
phiền nhiễu với chính quyền sau đó.
Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013
Đoan Trang - Như thế là tội ác!
Đoan Trang -
Dưới đây là bản dịch một bài
viết của tôi nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Chấm dứt tội ác không bị trừng phạt
(International Day to End Impunity), 23/11/2012.
Impunity (các từ điển
Anh-Việt nói chung đều dịch là “tội ác không bị trừng phạt”) thực chất là các
hành động đe dọa, tấn công vào tự do ngôn luận, bao gồm từ kiểm duyệt, sách
nhiễu, lăng mạ, đến hành hung, bỏ tù, thậm chí giết chóc, để ngăn cản công dân
thực hiện quyền tự do ngôn luận, và những kẻ thực hiện các tội ác đó đều tin
tưởng chắc chắn rằng chúng đang làm điều đúng, chúng sẽ không phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Nói cách khác, impunity là khi các tội đàn áp tự do ngôn
luận không bị trừng phạt, và “International Day to End Impunity” có thể được
dịch sang tiếng Việt là “Ngày Quốc tế chấm dứt các tội ác chống tự do ngôn
luận”.
Khi một xã hội rơi vào tình
trạng “impunity” lan tràn, những người muốn thể hiện chính kiến đều cảm thấy
bất an và sinh ra sợ hãi. Người ta sợ phải phát biểu, sợ phải phê bình, phản
biện, sợ bàn đến các chủ đề nhạy cảm, và sợ đối đầu với chính quyền. Tóm lại,
đó là một xã hội nơi quyền tự do ngôn luận bị tiêu diệt, và đó là lý do những
quốc gia tiến bộ ý thức được rằng phải chấm dứt “impunity”.
Ngày 23/11/2009, đã xảy ra
một vụ thảm sát ở tỉnh Maguindanao, Philippines, với 58 người bị giết hại,
trong đó có 34 nhà báo. Nó được coi là vụ tấn công dã man nhất vào nhà báo
trong lịch sử. Hai năm sau, Quốc hội Philippines nhất trí chọn 23/11 là
Ngày Quốc gia chấm dứt tội ác không bị trừng phạt. Cùng năm đó, tổ chức IFEX
(Mạng lưới toàn cầu bảo vệ và thúc đẩy tự do ngôn luận) cũng chính thức chọn
ngày 23/11 là Ngày Quốc tế Chấm dứt tội ác không bị trừng phạt.
* * *
LẠM DỤNG LUẬT ĐỂ BỎ TÙ BLOGGER
• Bản tiếng Việt đăng trên
blog Anh Ba Sàm. Người dịch: Đan Thanh
Buổi sáng ngày 24-9 hẳn phải
là không thể nào quên đối với Binh Nhì, một người 29 tuổi, vừa bí mật vượt hàng
nghìn kilomet bằng tàu hỏa từ Hà Nội vào TP.HCM. Binh Nhì bị công an bắt và bị
đánh rất đau trong lúc bị tạm giữ. Sai phạm của anh là anh đã muốn đi đến Tòa
án Nhân dân TP.HCM, nơi mà trong buổi sáng hôm đó, diễn ra phiên tòa xét xử một
blogger rất nổi tiếng. Hàng trăm công an, cả cảnh phục và thường phục, có mặt ở
khắp nơi trong khu vực để ngăn mọi người đến gần tòa án, cho dù trên danh nghĩa
đó là một phiên xét xử “công khai”.
Điếu Cày là bút danh của
blogger bị xử. Trong khi ông đứng trước tòa buổi sáng hôm ấy, vợ cũ và con trai
của ông bị giữ bên ngoài và bị ngăn trở, không cho tham dự phiên điều trần, bất
chấp sự phản đối tuyệt vọng và phẫn nộ của họ. Công an thậm chí còn lột bỏ
chiếc áo phông “Trả tự do cho Điếu Cày” của cậu con trai. Một viên công an trẻ
tuổi hét vào mặt họ, chế giễu: “(Mày thích) Tự do à? Tự do cái con c.” (dịch
sát nghĩa từ tiếng Anh: “Tự do của mày là con c. của tao đây” – ND)
Sau phiên xử chỉ kéo dài có
ba tiếng, Điếu Cày bị kết án 12 năm tù, trong khi Tạ Phong Tần, một blogger nữ,
lĩnh án 10 năm, và Phan Thanh Hải, tức AnhbaSG, 4 năm. Các nhà phân tích cho
rằng AnhbaSG bị án nhẹ hơn là do đã thừa nhận trước tòa là anh sai, anh ăn năn
hối cải và sẽ chấm dứt mọi quan hệ với “các thành phần phản động”. Bản án cho
AnhbaSG là cái mà tất cả gia đình và bạn bè anh đều đã biết từ trước phiên xét
xử.
Cả ba blogger đều bị buộc tội
theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự Việt Nam , trừng phạt một tội mơ hồ là
“tuyên truyền chống nhà nước”.
Sức hấp dẫn của một blogger
“Điếu Cày”, có nghĩa là “ống
điếu của nông dân”, là một nickname rất bình thường ở Việt Nam mà bất cứ một blogger Việt Nam nào cũng có
thể sử dụng. Và đó là cái nick được chọn bởi ông Nguyễn Văn Hải, một người cởi
mở, đáng mến, nhiệt tình và thu hút, theo lời bạn bè ông đánh giá.
Sinh ngày 23-9-1952 tại thành
phố Hải Phòng ở miền Bắc, Điếu Cày sống tuổi thanh xuân trong hàng ngũ của Quân
đội Nhân dân Việt Nam ở mặt trận biên giới Tây Nam vào cuối những năm 1970. Sau
chiến tranh, Điếu Cày bắt đầu làm kinh doanh riêng – mở quán café, bán máy ảnh
và các thiết bị ảnh, cho thuê căn hộ – thay vì gia nhập bộ máy quan liêu, vốn
là con đường chung của nhiều người.
Khi Yahoo! 360° xuất hiện ở
Việt Nam vào năm 2005 sau khi được công bố ở Mỹ, lần đầu tiên 22 triệu người
dùng Internet của Việt Nam, phần lớn là thanh niên, được trải nghiệm một hình
thức mới để đọc, viết, và thể hiện quan điểm, ý kiến. Mặc dù chính trị vẫn là một
lĩnh vực nhạy cảm với phần lớn blogger Việt Nam, nhưng kể từ năm 2007, đất nước
bắt đầu chứng kiến mối quan tâm ngày càng lớn đến các vấn đề chính trị, đặc
biệt với sự leo thang căng thẳng trong các yêu sách chủ quyền mâu thuẫn giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
Điếu Cày, khi ấy ngoài 50
tuổi, tỏ ra là một người thành thạo Internet, thích ứng rất nhanh với phương
tiện truyền thông mới này. Giữa năm 2007, ông mở trang Yahoo! 360° blog riêng,
post lên đó các bài viết và bức ảnh về cuộc sống của người dân ở nước Việt Nam đương đại.
Ví dụ, ông kể chuyện ông đã gặp rắc rối như thế nào khi Ủy ban Nhân dân địa
phương buộc tội nhà hàng của ông dùng tên tiếng nước ngoài, “Mitau”, mà tên đó
chỉ có nghĩa là “mi và tau” trong thổ ngữ của người miền Trung. Các bài viết
của ông – với một chút hài hước và chế giễu, phản ánh những khía cạnh khác nhau
của một nền pháp quyền què quặt – đã khiến ông được biết đến với tư cách
blogger chính trị nổi tiếng đầu tiên ở Việt Nam .
Năm 2007, Điếu Cày và một vài
người bạn thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do mà không được cấp phép. (Mặc dù
Hiến pháp Việt Nam
công nhận quyền tự do lập hội, nhưng quyền ấy không được thực thi bởi lẽ có rất
nhiều trở ngại khiến cho các nhóm không thể tự tổ chức được). Ông cũng mở blog
của câu lạc bộ, và cũng tương tự như blog cá nhân của ông, blog (của Câu lạc bộ
Nhà báo Tự do) trở thành một vũ khí hùng mạnh trong cuộc chiến đấu vì công lý
và tự do của công dân Việt Nam. Với một laptop, một chiếc máy ảnh, ông đi đến
nhiều nơi ở Việt Nam để viết nên những câu chuyện, về các cộng đồng thiệt thòi,
bao gồm cả những nông dân mất đất và những công nhân bị bóc lột. Chẳng hạn,
Điếu Cày đã vạch trần tham nhũng trong dự án xây cầu Cần Thơ – cây cầu bị sập
vào tháng 9-2007 và là một trong những thảm họa nghiêm trọng nhất trong lịch sử
ngành xây dựng Việt Nam .
Mạng lưới khủng bố
Một ví dụ về sự ngược đãi mà
chính quyền nhằm vào Điếu Cày là chuyện xảy ra vào khoảng tháng 11-2006. Ông
dính líu vào một vụ cãi cọ với hàng xóm, vốn là một cán bộ trong chi bộ đảng ở
địa phương, người đã chiếm một căn hộ của ông. Điếu Cày post ảnh căn hộ bị
chiếm lên blog cá nhân và phân phát tờ photo vụ án cho láng giềng, bè bạn. Điều
này thu hút sự chú ý của dân chúng địa phương, cũng đều là những người không
hài lòng với ông cán bộ cộng sản kia. Điếu Cày còn báo cáo vụ việc với công an
địa phương – song thay vì trả lại tài sản cho ông, công an lại phạt Điếu Cày
tội “kích động gây rối”. Ông phản đối và đệ đơn kiện lên một tòa hành chính cấp
địa phương, và thua kiện vào tháng 6-2007. Tuy nhiên, trong quá trình theo
kiện, ông đã đăng tải trên blog ảnh, các đoạn ghi âm, ghi chép về thủ tục tố
tụng xét xử, mô tả một “nhà nước pháp quyền” giả dối, lố bịch, và khiến cho ông
càng được công luận chú ý hơn.
Tháng 12-2007, các blogger
biểu tình lần đầu tiên ở Hà Nội và TP.HCM, phản đối kế hoạch của Trung Quốc xây
dựng “thành phố Tam Sa” nhằm quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên Biển
Đông. Điếu Cày – khi đó đã nổi tiếng rồi – thu hút được sự tham gia của hàng
chục sinh viên. Sau đấy ông đã bị công an bắt một cách tàn nhẫn trên đường về
nhà.
Mặc dù vào cuối ngày, Điếu
Cày cũng được thả, nhưng kể từ đó, ông bị công an theo dõi chặt chẽ. Ông thường
xuyên bị quấy nhiễu, công việc kinh doanh bị những người lạ phá hoại theo nhiều
cách khác nhau. Nghiêm trọng nhất, Điếu Cày thường xuyên bị triệu lên đồn công
an để trả lời thẩm vấn. Bạn bè ông kể lại rằng nhiều cuộc thẩm vấn kéo dài từ
8h sáng đến 10h đêm, với rất nhiều câu hỏi về các hoạt động của ông và của Câu
lạc bộ Nhà báo Tự do. Vì chuyện đó, Điếu Cày gần như bị giam trong nhà. Khi áp
lực trở nên tồi tệ hơn, ông quyết định bỏ đi.
Ngay sau đó đã có cả một
chiến dịch của công an nhằm truy bắt Điếu Cày. Vào ngày 19-4-2008, ông bị “bắt
khẩn cấp” theo cách nói của công an, tại một quán café Internet ở Đà Lạt, thành
phố miền Nam Việt Nam .
Không có ai chứng kiến vụ bắt bớ, do đó không có thông tin gì về lý do buộc tội
nêu trong lệnh bắt. Tổ chức quốc tế Phóng viên Không Biên giới nói rằng không
phải là tình cờ khi mà vụ bắt giữ Điếu Cày diễn ra chỉ vài ngày sau lễ rước
đuốc Olympic Bắc Kinh qua TP.HCM, mà vì buổi lễ đó, chính quyền đã khẳng định
sẽ đảm bảo “an ninh tuyệt đối” và trừng phạt bất cứ “kẻ gây rối” nào.
Điếu Cày bị còng tay và bị bí
mật đưa về TP.HCM, cho vào trại giam mà không được tiếp xúc với luật sư hoặc có
sự trợ giúp pháp lý nào. Vị luật sư mà gia đình ông thuê sau đó, Lê Công Định,
phàn nàn rằng ông không được phép gặp Điếu Cày trong suốt quá trình công an
thẩm vấn, và thậm chí còn chẳng được thông báo về ngày giờ xét xử.
Luật sư Định cho biết, vài
ngày sau khi Điếu Cày bị bắt, cuộc khám nhà mới diễn ra. Tất cả bạn bè và gia
đình Điếu Cày cho rằng hành động khám xét đó chỉ nhằm mục đích tìm kiếm bằng
chứng về các “hoạt động chống phá nhà nước” của ông. Không tìm thấy gì, chính
quyền bèn buộc ông vào tội trốn thuế. Ngay cả khi đó thì họ cũng không làm đúng
thủ tục tố tụng.
Do công an chỉ bắt đầu thu
thập giấy tờ vài ngày sau vụ bắt Điếu Cày, cho nên Viện Kiểm sát Nhân dân không
thể buộc Điếu Cày vào tội trốn thuế “dựa trên một số tài liệu”, như họ đã nói
trước khi khám nhà. Trước lúc bị bắt, Điếu Cày cũng không nhận được bất kỳ một
thông báo nào từ cơ quan thuế địa phương, liên quan đến việc buộc tội trốn
thuế. Tất cả các câu hỏi đặt ra cho ông trong hàng giờ thẩm vấn trước đó chỉ
tập trung vào hoạt động viết blog, đặc biệt là vào Câu lạc bộ Nhà báo Tự do.
Lê Công Định cũng phát hiện
ra rằng trên thực tế, Điếu Cày không hề phạm tội trốn thuế. Thay vì thế, chính
công an đã yêu cầu cơ quan thuế địa phương không nhận khoản tiền thuế quá hạn
nộp cả từ Điếu Cày lẫn bên thuê nhà của ông, nếu không được phép của công an.
Yêu cầu đó của phía công an được đưa ra từ ngày 25-2-2008. Nói cách khác, “trốn
thuế” là môt cái bẫy được giăng ra cho Điếu Cày từ mấy tháng trước khi ông bị
bắt.
Bản thân Lê Công Định cũng bị
bắt một năm sau đó và bị buộc tội âm mưu lật đổ chính quyền.
Một luật sư khác, ông Lê Trần
Luật, từng đề nghị hỗ trợ pháp lý miễn phí cho Điếu Cày, thì bị công an quấy
nhiễu và cũng bị triệu tập để thẩm vấn. Công an hỏi Lê Trần Luật về quan hệ của
ông với Điếu Cày, động cơ đằng sau việc đề nghị cãi miễn phí cho Điếu Cày, và
hỏi ông biết những gì về “Câu lạc bộ Nhà báo Tự do bất hợp pháp” kia.
Ngày 10-9-2008, Điếu Cày bị
Tòa án Nhân dân TP.HCM kết án 30 tháng tù giam. Thật trớ trêu, vào ngày
18-10-2010, chỉ một ngày trước khi Điếu Cày kết thúc thời gian thụ án, blogger
AnhbaSG, cũng là thành viên Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, bị bắt.
Điếu Cày tiếp tục bị giam
theo tội danh mới, “tuyên truyền chống nhà nước”. Gia đình ông cũng bị chính
quyền quấy nhiễu.
Một lời cảnh cáo gửi đến các
blogger
Trong thời gian trước phiên
xử Điếu Cày vào tháng 9-2012, một cuộc vận động kiến nghị trên mạng đã thu hút
hàng nghìn người ký tên vào một bức thư ngỏ gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang,
kêu gọi trả tự do cho Điếu Cày. Nhiều blogger may áo phông có in khẩu hiệu “Tự
do cho Điếu Cày, tự do cho người yêu nước”. Không khí căng thẳng đến nỗi cái
Viện Kiểm sát Nhân dân do công an chi phối kia phải cố giữ bí mật ngày giờ xét
xử.
Phiên tòa ngày 24-9 thu hút
sự chú ý chưa từng có trong cộng đồng blog và mạng xã hội ở Việt Nam (chủ yếu là
trên Facebook). Hàng chục blogger từ nhiều địa phương khác đến TP.HCM và đi tới
Tòa án Nhân dân, cố gắng tham dự phiên tòa được coi là công khai, bất chấp sự
phong tỏa của công an. Công an phá sóng điện thoại di động; nhiều người bị đe
dọa, bị quấy phá, và bị đánh, điện thoại cùng máy ảnh bị giật. Báo chí quốc
doanh mở một chiến dịch tấn công cá nhân Điếu Cày cùng với các blogger “chống
nhà nước” nói chung.
Giới bình luận trên mạng nói
rằng bằng việc gán cho Điếu Cày một mức án nặng như thế, chính quyền muốn gửi
thông điệp rằng họ sẽ rất cứng rắn với những kẻ dám chỉ trích nhà nước.
Tuy nhiên, bản án nặng nề
không tạo ra được sự sợ hãi mà chính quyền mong đợi từ phía các công dân. Thay
vào đó, cơn phẫn nộ lan tràn trên khắp mạng Internet tiếng Việt. Ngay cả một số
thành viên của cộng đồng blogger, vốn dĩ ủng hộ nhà nước, cũng phải thừa nhận rằng
bản án là bất công đối với những blogger chỉ lên tiếng một cách ôn hòa, sử dụng
một laptop có nối mạng.
Nhiều người so sánh vụ xử
Điếu Cày với vụ việc một viên công an lạm quyền, đánh chết một công dân không
đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, viên công an này chỉ bị kết án 4 năm tù. Nhiều
người nữa than rằng ở Việt Nam, “công lý chỉ là trò hề”, “viết blog bây giờ
cũng là nghề nguy hiểm”, “nếu ghét thằng nào thì thà giết nó đi, còn hơn là
viết blog nói xấu nó, vì phát biểu ý kiến ở đây còn bị trừng trị nặng hơn tội
giết người”.
Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013
Phạm Đức Khiêm - Đoan Trang - Sự nguy hiểm của Điều 258
Phạm Đức Khiêm - Đoan Trang -
Lập luận căn bản mà một số người ủng hộ Điều 258 Bộ luật Hình sự đưa ra là: 258 là điều luật bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; kẻ nào xâm phạm những giá trị ấy thì phải bị trừng phạt. Tuy nhiên, trái với lập luận căn bản này, 258 lại là một điều luật xâm phạm nghiêm trọng các quyền tự do của công dân, chứ không hề bảo vệ.
Nếu chỉ xét về khía cạnh tinh thần và lý tưởng lập pháp, Điều 258 Bộ luật Hình sự tỏ ra rất thuyết phục. Ta hãy xem:
“Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. (1) Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. (2) Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”
Chung quy lại, điều luật này có nội dung là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, công dân trong xã hội trước các hành vi xâm phạm của người khác. Có vẻ đó là một ý chí lương thiện và đầy tính lý tưởng, một thứ không thể phủ nhận và bất cứ kẻ nào phủ nhận đều đáng bị trừng phạt. Tuy vậy, các quyết định lập pháp không cần đến mạch máu nóng chuyên chở những suy nghĩ giản đơn về sự lương thiện như vậy. Nó cần hơn cả là một tư duy lập pháp, kỹ thuật lập pháp dựa trên nền tảng công lý và khoa học.
Mơ hồ, chung chung – điều tối kỵ trong ngôn ngữ lập pháp
Trong ngôn ngữ pháp luật, có ít nhất một điều mà các nhà soạn thảo phải tránh: sự mơ hồ, chung chung (vagueness). Xem xét các điều khoản còn lại của Bộ luật Hình sự, ta nhận thấy hầu hết chúng đều quy định những hành vi rất cụ thể như giết người, gây thương tích, hiếp dâm, trộm cắp, buôn bán ma túy, nhận hối lộ, bắt giữ người trái pháp luật,... Các điều khoản này nhằm bảo vệ những lợi ích cụ thể của tổ chức và cá nhân trong xã hội. Lẽ dĩ nhiên, pháp luật được xây dựng nên để bảo vệ những lợi ích chính đáng của những thành viên trong xã hội. Vậy thì tại sao lại có hẳn một điều luật sinh ra chỉ để nhắc lại nguyên lý đó? Điều này cho chúng ta thấy phạm vi điều chỉnh của Điều 258 rộng đến mức có tính bao trùm lên toàn bộ hệ thống pháp luật chứ không đơn giản là một điều luật đơn lẻ trong một bộ luật đơn lẻ.
Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự, “tội phạm” được định nghĩa là “hành vi nguy hiểm cho xã hội”. Khoa học hình sự chia hành vi thành hai loại: hành động hoặc không hành động, chỉ những phản ứng biểu hiện ra bên ngoài của một người. Như vậy, tội phạm là những gì rất cụ thể, chứ không phải là những nguyên lý hay lý tưởng.
Giả sử có một nghị định nào đó quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là tạo ra một môi trường Internet lành mạnh ở Việt Nam. Với tính từ “lành mạnh”, nghị định này trở thành mơ hồ, chung chung, vì nó không chỉ ra được một ranh giới cụ thể giữa những trường hợp vi phạm và không vi phạm. Không có tiêu chuẩn cụ thể nào để phân định “lành mạnh” và “không lành mạnh”. Việc xem phim sex chẳng hạn, có thể bị một người coi là đồi bại, không lành mạnh, nhưng lại là hoạt động có tính chất giải trí hoặc chữa bệnh, v.v. đối với người khác.
Một điều khoản hoặc điều luật mơ hồ, chung chung, nghĩa là nó có phạm vi áp dụng rất rộng trong những trường hợp rất cụ thể.
Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân) không có tính từ nào phạm lỗi mơ hồ, chung chung, nhưng nó có một động từ (“lợi dụng”) và một số danh từ (“lợi ích của Nhà nước”) phạm lỗi này.
Nó dẫn đến một loạt câu hỏi:
- Thế nào là “lợi dụng”? Tận hưởng quyền tự do của con người đến mức nào thì bị coi là “lợi dụng”? Tại sao việc thực hiện quyền của mình lại bị coi là lợi dụng?
- Sử dụng, hay nói đúng hơn, tận hưởng, quyền tự do dân chủ đến mức nào thì bị Nhà nước coi là “lợi dụng”?
- Có thể sử dụng các quyền tự do dân chủ để làm những việc gì?
- Lợi ích của Nhà nước cụ thể là gì? Ai quy định lợi ích của Nhà nước? Đã từng có công dân nào nhìn thấy bảng danh sách các lợi ích của Nhà nước để biết đường tránh vi phạm chưa?
Ví dụ, hành động in áo phản đối đường lưỡi bò, chống dự án khai thác bauxite Tây Nguyên, v.v. của một số người, nếu đã xâm phạm lợi ích Nhà nước thì cụ thể là xâm phạm những gì, quy ra thành tiền là bao nhiêu để nếu có thể thì người phạm tội sẽ đền bù thiệt hại? Công dân Việt Nam có được hưởng quyền tự do dân chủ đủ để... in áo không, và nếu in thì in như thế nào là xâm phạm lợi ích Nhà nước, như thế nào là không xâm phạm?
Điều 258 không có câu trả lời cho các câu hỏi đó. Việc diễn giải hoàn toàn tùy thuộc lực lượng công an và hệ thống tòa án, dưới sự lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối của Đảng. Và thế là sự tùy tiện và lạm quyền lên ngôi.
Điều 258 đã bảo vệ được ai?
Một số người bảo vệ Điều 258 cho rằng điều luật này bảo vệ tổ chức và công dân khỏi bị “xâm phạm lợi ích hợp pháp”, và họ suy luận thêm: Đó là bảo vệ tổ chức và công dân khỏi bị vu khống, bị xúc phạm danh dự và nhân phẩm.
Nếu vậy thì họ vướng vào một mâu thuẫn: Bộ luật Hình sự đã có các điều khoản quy định về tội làm nhục người khác (Điều 121) và tội vu khống (Điều 122). Hai tác giả bài viết này không hoàn toàn đồng tình với việc xem xét hành vi làm nhục và hành vi vu khống dưới góc độ hình sự, vì ở đây có dấu hiệu hình sự hóa các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, điều này một lần nữa chứng minh sự chồng chéo và bao trùm của Điều 258.
Thông thường, việc xâm phạm danh dự, nhân phẩm được bảo vệ bằng Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 có Điều 37 về bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Điều 38 bảo vệ quyền bí mật đời tư; và các quy định về bồi thường thiệt hại.
Luật Báo chí cũng cấm việc đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân.
Điều vô duyên nhất sẽ đến khi Nhà nước bắt giữ một người vì cho rằng họ đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của một người khác, kết luận điều tra được ban ra, Viện Kiểm sát truy tố, khi ra đến tòa thì người bị hại tuyên bố: Tôi không cảm thấy bị xâm phạm gì cả. Khi ấy, Nhà nước sẽ ăn nói ra sao?
Chừng đó quy định, điều khoản của pháp luật xem ra đã quá đủ cho công dân và tổ chức. Vậy thì, Điều 258 ra đời để bảo vệ ai? Câu trả lời: bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Mà lợi ích của Nhà nước là gì thì lại tùy vào sự yêu ghét và diễn giải của bộ máy công quyền.
Nói cho đúng thì năm 2010, nền tư pháp và an ninh Việt Nam đã tạo tiền lệ sử dụng Điều 258 thay cho các điều khoản pháp luật hiện hành khác để xử lý một trường hợp “nói xấu” người khác. Đó là khi blogger Cô Gái Đồ Long bị bắt theo Điều 258, vì có hành động viết blog động chạm tới gia đình một ông tướng công an. Vụ bắt giam Cô Gái Đồ Long, do đó, khiến chúng ta tưởng như ông tướng công an đó chính là Nhà nước – bởi nếu ông là công dân thì đã có những điều luật khác để bảo vệ quyền và lợi ích, danh dự và nhân phẩm của ông rồi kia mà.
Như vậy, có thể nói ngắn gọn là: Điều 258 đã được vận dụng để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và công an.
Hàng chục người đã bị bắt vì 258
Trên phương diện lập pháp, Điều 258 bất hợp lý, tùy tiện và xâm phạm quyền công dân như thế. Và trên thực tế, điều luật này quả thật đã được chính quyền lợi dụng để bắt giữ, xét xử và bỏ tù ít nhất 32 người, tính từ năm 2006 đến nay. (*) Trong số này, có một số trường hợp bị bắt vì Điều 258, nhưng về sau được/ bị chuyển đổi tội danh. Điều đó cũng cho thấy công dụng bảo vệ chế độ tuyệt vời của 258: Đôi khi nó là cái cớ ban đầu để công an bắt giữ những người nói/viết những gì mà chính quyền không ưa; cứ bắt giam cái đã rồi sẽ điều tra, nghiên cứu để chuyển đổi tội danh cho phù hợp sau.
- Năm 2006: Đoàn Văn Diên (Hiệp hội Đoàn kết Công Nông Việt Nam)
- Năm 2007: Trương Minh Đức (nhà báo tự do), Trương Minh Nguyệt (Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo), Nguyễn Văn Ngọc, Trịnh Quốc Thảo (nhóm Người Việt Nam yêu nước)
- Năm 2008: Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên), Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ). Chuyển đổi tội danh thành Điều 281 Bộ luật Hình sự, “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”.
- Năm 2009: Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm), Bùi Thanh Hiếu (blogger Người Buôn Gió), Phạm Đoan Trang
- Năm 2010: Lê Nguyễn Hương Trà (nhà báo, blogger Cô Gái Đồ Long)
- Năm 2011: Nguyễn Văn Lía (tín đồ Phật giáo Hòa Hảo)
- Năm 2012: Trần Hoài An (tín đồ Phật giáo Hòa Hảo), 22 thành viên của Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn. Các trường hợp thuộc Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn sau này đều được/ bị chuyển đổi tội danh thành Điều 79 Bộ luật Hình sự.
- Năm 2013: Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào (nhà báo), Đinh Nhật Uy (blogger)
Điểm chung lớn nhất giữa các trường hợp bị bắt tạm giam, hoặc bị xét xử và chịu án tù này là: Tất cả đều bị bắt vì tội lạm dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích – chủ yếu là của Nhà nước!
Điều 258 xâm phạm quyền công dân là thế, nhưng vẫn có một bộ phận dư luận ủng hộ, vì sao? Có lẽ tinh thần ủng hộ tuyệt đối đó xuất phát từ tư duy “Nhà nước luôn đúng”. Lối tư duy “Nhà nước luôn đúng” này khiến những người đó tin tưởng và ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách bất kể hay dở, và hằn học với tất cả các ý kiến phản bác hay đặt vấn đề trái chiều.
-------
(*) Danh sách trên đây chỉ bao gồm những trường hợp bị bắt vì Điều 258 mà giới truyền thông (báo chí, blog, mạng xã hội) có đề cập. Trên thực tế, ở Việt Nam có thể còn rất nhiều vụ bắt giữ (tạm giam hoặc tù có án) nhân danh “bảo vệ lợi ích Nhà nước” theo Điều 258 mà ít hoặc không được truyền thông biết đến.
Danh sách được cập nhật vào ngày 13/9/2013, dựa theo nguồn: International Society for Human Rights (ISHR), 2012.
Theo cáo trạng, trong số tang vật của vụ án Đinh Nhật Uy có hai áo thun
ghi dòng chữ "No to U-Line, Yes to UNCLOS". Uy chỉ mới tàng trữ, chưa mặc áo, nhưng đã bị khép vào tội 258. Vậy hàng chục người đã từng sản xuất, tàng trữ, mặc loại áo thun nói trên có bị kết tội không?
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013
Đoan Trang - Hãy biết quyền của mình (3): Ngắn gọn về nhân quyền
Đoan Trang
Thế giới không phẳng. Các quốc gia đều khác nhau về trình độ phát triển. Cho nên, ở thời hội nhập, trong lúc Mỹ và Tây Âu đã nghĩ sang những vấn đề như bảo vệ môi trường, nguồn gốc loài người, đời sống sau khi chết, sự sống ngoài vũ trụ, v.v. thì Việt Nam và một số nước khác vẫn còn loay hoay với chuyện ý thức hệ, chế độ chính trị, con đường phát triển. Mối “băn khoăn” này được cụ thể hóa, chẳng hạn, thành các loạt bài xã luận “đấu tranh chống diễn biến hòa bình”, “kiên định đường lối xã hội chủ nghĩa”…
Tuy nhiên, điều an ủi là vài năm trở lại đây, trong các lĩnh vực được đề cập, trao đổi, tranh luận ở Việt Nam, đã xuất hiện một chủ đề có tính phổ quát, là nhân quyền. Thế giới thời toàn cầu hóa có rất nhiều vấn đề thuộc diện quan tâm chung, như bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, giữ gìn an ninh, và bảo đảm nhân quyền cho mọi người. Vậy nên, khi có những blogger tham gia dã ngoại để phát Tuyên ngôn Nhân quyền của LHQ, hay ra bản Tuyên bố 258 yêu cầu Nhà nước sửa đổi, hoàn thiện pháp luật để chứng tỏ cam kết cải thiện nhân quyền, chúng ta nên coi đó là một sự tiến bộ về nhận thức ở người dân Việt Nam: Cách đây chỉ 4-5 năm thôi, đã có ai có ý thức về khái niệm này đâu.
Tiếc thay, ý thức về nhân quyền chỉ vừa mới được nhen nhóm thì đã vấp phải tầng tầng lớp lớp những ngụy biện, những phát biểu hằn học, những bài xã luận phản động (kiểu như bài “Hãy hiểu cho đúng về nhân quyền” của tướng Nguyễn Văn Hưởng), và hơn tất cả, là hành động nhồi sọ, trấn áp, cốt để mọi người hiểu sai về khái niệm nhân quyền.
Trong khi đó, nhân quyền là khái niệm có thể được định nghĩa một cách đơn giản, rõ ràng, và không ai có thể hiểu khác đi được.
Bạn là người, nên bạn có nhân quyền
Nhân quyền là những quyền mà chúng ta có được bởi vì chúng ta sinh ra là người, dù là người châu Á, châu Phi hay Mỹ Latin cũng vậy.
Nhân quyền không thể được ban cho hay bị lấy đi, nó là của bạn vĩnh viễn từ khi bạn ra đời cho đến khi bạn chết. Chỉ khi nào chết, người ta mới không còn nhân quyền. Cũng không có chính quyền, nhà nước nào “ban” nhân quyền cho bạn được. Nếu có ai “ban” nhân quyền cho bạn thì đó là cha mẹ bạn, hoặc “siêu hình” hơn thế, là tạo hóa.
Nhân quyền không thể bị chia nhỏ. Nó là một tập hợp quyền đi cùng nhau, không có chuyện quyền này ít quan trọng hơn quyền kia, ít thiết yếu hơn quyền kia cho nên có thể “để sau cũng được”. Không có chuyện bạn có quyền sống, ăn no ngủ kỹ, nhưng không có quyền ngôn luận vì lẽ Nhà nước cho rằng tự do ngôn luận thời điểm này chưa cần thiết. Cũng vậy, quyền tự do ngôn luận không thể bị chia nhỏ theo kiểu “anh/ chị nói gì cũng được, phát biểu gì cũng OK, miễn là không cấu kết với ai, không thành tổ chức”.
Nhân quyền là phổ quát và như nhau ở tất cả mọi người. Không có “nhân quyền kiểu phương Tây”, “nhân quyền của nước Việt Nam XHCN”. Nhân quyền là nhân quyền, là những quyền căn bản của con người, ở đâu thì cũng vậy. Nếu nói ở Việt Nam dân trí thấp cho nên phải hạn chế quyền tự do ngôn luận chứ không để thoải mái “như Tây” được, nghĩa là mặc định rằng người Việt Nam thấp kém hơn người phương Tây hay thậm chí không phải là người. Đó chính là thứ tư duy chà đạp nhân quyền. Từ tư duy này, sẽ dẫn đến hành động vi phạm nhân quyền.
Mọi con người đều được hưởng nhân quyền, và song song với đó, đều có nghĩa vụ không xâm phạm nhân quyền của người khác.
Bức ảnh lịch sử: Cưỡng chế đầm tôm nhà ông Đoàn Văn Vươn.
Nguồn ảnh: báo Hải Phòng và Người Lao Động.
Thế nào là vi phạm nhân quyền?
Vi phạm nhân quyền rất dễ xảy ra, nhất là ở những xã hội mà người dân không có ý thức về quyền của mình như Việt Nam.
Có thể bạn không biết, hoặc không hình dung được rằng rất nhiều hành động xung quanh, trong đời sống của chúng ta, lại chính là sự vi phạm nhân quyền. Ví dụ, cha mẹ hoặc giáo viên đánh một đứa trẻ tức là đã vi phạm quyền của nó. Chúng ta học đại học, nhưng số giờ triết học Mác-Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh hay CNXH khoa học quá nhiều so với số giờ các môn chuyên ngành, dẫn đến tình trạng chúng ta không được trang bị đầy đủ kiến thức để hành nghề tốt sau khi ra trường, tức là quyền của chúng ta đã bị vi phạm – quyền được giáo dục thỏa đáng.
Một chuyện trong quá khứ: Năm 2013 này “kỷ niệm” tròn 30 năm chiến dịch Z.30, là chiến dịch khám xét và tịch thu những ngôi nhà hai tầng trở lên bị hàng xóm tố cáo là khá giả, có dấu hiệu làm ăn bất chính. Khởi nguồn từ một chỉ thị mật, không thành văn bản và chẳng căn cứ vào điều luật nào, Z.30 được thực hiện vào năm 1983 tại Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An và một số tỉnh khác, đẩy hàng trăm gia đình vào cảnh khốn khó. Đó là một trường hợp điển hình vi phạm nhân quyền – quyền sở hữu tài sản – ở Việt Nam.
Những năm gần đây, lịch sử có vẻ tiếp tục lặp lại khi cưỡng chế đất đai xảy ra trên toàn quốc, xuất phát từ việc đền bù không thỏa đáng, nông dân từ chối giao đất và thế là chính quyền huy động nhân viên công lực vào cuộc cưỡng chế. Quyền sở hữu – một trong các quyền con người – đã bị vi phạm.
Còn nhiều, nhiều lắm những vụ vi phạm nhân quyền Việt Nam: từ bắt giữ tùy tiện, cấm xuất cảnh, cấm báo chí tư nhân, đến chính sách công khai phân biệt đối xử (ví dụ, nhà tuyển dụng tuyên bố ưu tiên người có hộ khẩu Hà Nội, ưu tiên ngoại hình đẹp…), v.v. Nhân quyền của một người bị vi phạm, có nghĩa là người ấy không được đối xử như một cá nhân với đầy đủ phẩm giá.
“Treat people with respect” – “Hãy đối xử với mọi người một cách tôn trọng”. Khi nào chính quyền ý thức được điều đó thì quốc gia mới có dân chủ, và khi nào tất cả người dân đều ý thức được điều đó thì đất nước mới có tự do.
Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013
Đoan Trang - Tự do báo chí kiểu Việt Nam (kỳ 2)
Đoan Trang
Như đã nói trong bài trước, “hơn ai hết, Đảng – mà đại diện ở đây là bộ máy tuyên giáo và an ninh – ý thức được sức mạnh của sự bí mật. Công khai, minh bạch là tự làm mất mặt mình, tự giết mình”. Chính vì vậy, để bảo vệ chế độ, điều tối quan trọng là phải bảo đảm… bí mật, từ bí mật công tác đến an ninh quốc gia. Để làm được điều đó, nguyên tắc căn bản chỉ là “làm tốt công tác tư tưởng” và quản lý báo chí thật chặt chẽ, sát sao.
Nhưng đến khi Internet và nhất là mạng xã hội xuất hiện, thì nhiệm vụ trở nên khó khăn hơn. Từ đây, bộ máy tuyên giáo và an ninh vừa phải quản lý báo chí chính thống, vừa phải kiểm soát truyền thông “phi chính thống”, tức thế giới mạng.
Duy trì chế độ thẻ nhà báo
Một phương thức tinh vi để kiểm soát báo chí dưới mỹ từ “quản lý” là sử dụng chế độ thẻ nhà báo. Sáng kiến này được áp dụng đã từ lâu, tới năm 2007 thì được luật hoá trong một thông tin gọi là Thông tư số 07/2007/TT-BVHTT hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi thẻ nhà báo, Bộ Văn hóa - Thông tin, ngày 20/3/2007. Theo đó, người được xét cấp thẻ nhà báo phải bảo đảm các điều kiện và tiêu chuẩn sau đây:
a) Tốt nghiệp đại học; trường hợp là người dân tộc thiểu số đang công tác tại cơ quan báo chí miền núi hoặc chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc thiểu số phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên;
b) Có thời gian công tác liên tục theo chế độ biên chế hoặc hợp đồng dài hạn tại cơ quan báo chí đề nghị cấp Thẻ từ ba năm trở lên, tính đến thời điểm xét cấp thẻ;
c) Hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan báo chí phân công;
d) Không vi phạm quy định về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp báo chí; không bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời hạn 12 tháng tính đến thời điểm xét cấp thẻ;
e) Ðược cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, Sở Văn hóa - Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và Hội Nhà báo cùng cấp thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo.
Các điều kiện trên (trừ khoản a) đều khó thực hiện trong thực tế. Xét bản chất, nghề báo là nghề có tính lưu động cao, các phóng viên “nhảy việc” gần như liên tục, khó mà có người “công tác liên tục theo chế độ biên chế hoặc hợp đồng dài hạn (…) từ ba năm trở lên”. Cho nên khoản b là khó đáp ứng. Các khoản còn lại thì đương nhiên chỉ nhằm khuyến khích các phóng viên biết chấp hành, chịu khó tuân theo chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; không có chỗ cho những phóng viên sáng tạo, nhiệt huyết, có tinh thần phản biện và luôn luôn sẵn sàng “xé rào”, chống lại định hướng của Đảng. (Xin lưu ý, đạo đức nghề nghiệp báo chí, theo quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, đưa ra tại Đại hội VIII Hội Nhà báo là: “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.)
Riêng khoản e, “Được cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí, Sở Văn hóa - Thông tin (đối với báo chí các tỉnh, thành phố) và Hội Nhà báo cùng cấp thống nhất đề nghị cấp thẻ nhà báo” còn cho thấy sự nhập nhằng giữa khu vực nhà nước và khu vực xã hội dân sự. Báo chí về bản chất là một khái niệm thuộc về xã hội, và cơ quan báo chí không phải là cơ quan thực thi công vụ. Nhà nước không thể đứng ra cấp thẻ nhà báo để định danh cho người tiến hành hoạt động nghề nghiệp này; nói cách khác, Nhà nước không được lấn sân, chiếm lấy một lĩnh vực không phải của mình. Nhưng Nhà nước lại cứ giành lấy quyền ấy, thậm chí còn cẩn thận quy định rõ trong luật, rằng báo chí có nhiệm vụ “tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí…”.
Chính điều này dẫn đến việc nhiều nhà báo buộc phải “chấp nhận sự định hướng của một lực lượng mà năng lực truyền thông hẳn nhiên là thua xa họ” (“Giọt nước mắt của lề phải”).
“Nhà báo tự do” = phản động
Nhiều người thường nói rằng thẻ nhà báo chỉ là một cái thẻ, không quan trọng. Nhưng trên thực tế, nó rất quan trọng, vì trong luật pháp cũng như trong nhận thức của xã hội, nhà báo phải là người “đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo” (Điều 14 Luật Báo chí).
Người chưa/không được cấp thẻ thì không được công nhận là nhà báo. Từ đây dẫn đến việc họ đương nhiên bị gạt ra khỏi bất kỳ sự kiện nào mà ban tổ chức, cơ quan an ninh, chính quyền… không muốn bị báo chí biết. Ở rất nhiều hội thảo, hội nghị, sự kiện chính trị - xã hội, ban tổ chức luôn đặt điều kiện “phải có thẻ nhà báo” mới gửi giấy mời. Bằng cách này, ban tổ chức đã loại ra ngoài đông đảo phóng viên, là những người hoạt động báo chí y hệt như nhà báo nhưng không được cấp thẻ.
Công an, an ninh, hơn ai hết, là những người được quán triệt chặt chẽ rằng phải có thẻ do Nhà nước cấp mới được gọi là nhà báo, điều này đồng nghĩa với việc tất cả những người đang hoạt động báo chí mà không có thẻ thì đều là “phóng viên tự do”, “tự xưng/ mạo nhận”, và đều có thể bị ngăn chặn triệt để, không được phép tiếp cận thông tin. Ngày 30/10/2012, khi phóng viên Truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Huyền Trang, bị công an đưa về đồn thẩm vấn, cô nói cô là phóng viên. Nhân viên công an liền quát: “Ai công nhận chúng mày là nhà báo hả? Thẻ tác nghiệp của chúng mày đâu? Một lũ ăn không ngồi rồi, rồi rủ nhau phản động hả?”.
Riêng trong hai năm 2011 và 2012, trên cả nước đã xảy ra hàng chục vụ phóng viên bị đánh. Thủ phạm là lưu manh côn đồ, bảo vệ, vệ sĩ, công an, và cả dân thường. Nhưng trong tư duy của chính quyền, nạn nhân nếu chưa có thẻ thì không phải là nhà báo, do vậy sự việc không nghiêm trọng tương đương với “hành hung nhà báo.”
Với blogger, tình hình còn tệ hại hơn: Họ không những không được pháp luật bảo vệ mà ngược lại, còn bị xử lý. Điếu Cày, Tạ Phong Tần, và tất cả các thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do đều “không phải là nhà báo”, nên bị cơ quan công an, an ninh xua đuổi, đàn áp thẳng tay khi họ có mặt tại các điểm nóng để đưa tin, dù chỉ là lên blog của họ.
Một mặt, Đảng và Nhà nước xiết chặt việc “nắm tư tưởng”, “định hướng” báo chí chính thống. Mặt khác, Đảng và Nhà nước nhất định không công nhận blogger là nhà báo.
Làng báo chính thống và blog chính trị ở Việt Nam đều biết đến Trương Duy Nhất, người từng bỏ nghề báo để trở thành blogger, chủ trang mạng “Một góc nhìn khác”. Sau khi ông Nhất bị bắt ngày 26/5/2013, nhà báo Đức Hiển (Facebooker Bố Cu Hưng) bình luận trên Facebook cá nhân rằng “vấn đề của một nhà báo là phải có thông tin. Khi thiếu khả năng hoặc cơ hội tiếp cận thông tin thì góc nhìn nếu khác là chửi đổng mà nếu giống là a dua…”.
Cộng đồng FB và blog chính trị rộ lên một đợt chỉ trích nhà báo Đức Hiển. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ của chính quyền thì ông Đức Hiển nói đúng. Khả năng và cơ hội tiếp cận thông tin chính là cái khác biệt giữa nhà báo và blogger, giữa nhà báo chính thống và nhà báo tự do. Blogger không thể nào có mặt ở các sự kiện chính trị-xã hội quan trọng do Nhà nước tổ chức, không thể nào tham dự hội thảo, hội nghị quốc gia, quốc tế, không thể nào tiếp cận quan chức cấp cao của Đảng và Nhà nước. Và chính quyền ý thức được rằng phải khoét sâu vào điểm yếu ấy của blogger thì mới giữ nền báo chí công dân ở thế yếu hơn báo chí cách mạng được. Song song với đó là việc tạo cuộc chiến vô hình “lề phải – lề trái” để ngăn chặn mọi sự hợp tác, bắt tay nhau giữa nhà báo quốc doanh và nhà dân báo.
Thay cho lời kết
Để kết thúc hai bài viết sơ lược về tự do báo chí kiểu Việt Nam, xin sử dụng một đoạn hội thoại – thẩm vấn điển hình cho tư duy của chính quyền về báo chí và hoạt động của nhà báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa:
AN: Anh Y. ạ, hiện chúng tôi đang làm rõ động cơ, mục đích đằng sau một số bài viết trên blog của anh.
Blogger: Tôi phản đối việc bắt giữ tuỳ tiện. Như tôi đã nói, các bài viết của tôi chỉ có mục đích xây dựng, đóng góp cho Đảng một ý kiến phản biện ôn hoà.
AN: Không ai cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng. Nhưng anh có thể chọn những cách khác, hiệu quả hơn.
Blogger: Tôi không đồng ý. Thế nào là hiệu quả hơn? Tôi là blogger, tôi nói lên ý kiến của mình qua công cụ blog của tôi thì sao?
AN (cười độ lượng): Đấy, anh lại thế rồi. Tôi đã nói rồi, không ai cấm anh phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng cả. Nhưng mình là trí thức, là người có ăn có học, nói gì thì nói, phải có cơ sở anh ạ, phải có lý có lẽ, có thông tin, thuyết phục, chứ không phải thích gì nói nấy. Cứ thích thì nói nấy thì anh thành ra mấy cái đứa blogger phản động trên mạng à?
Blogger: Tôi là nhà báo. Tôi có cách tiếp cận và xử lý thông tin của tôi.
AN (nhấn mạnh): Anh không phải nhà báo. Anh làm gì có thẻ tác nghiệp, hả? Nhà báo tự do à? Điếu Cày à?
Blogger: Nhà báo thì sao mà không là nhà báo thì sao? Không lẽ chỉ nhà báo mới được viết? Mà luật nào cấm blogger được viết? Hiến pháp của chúng ta cũng đã quy định…
AN (ngắt lời): Khổ. Anh lại cực đoan rồi, anh Y. Tôi đã nói rất rõ là nói gì thì nói, viết gì thì viết, phải có thông tin xác thực, lập luận thuyết phục trên cơ sở xây dựng anh ạ. Anh xưng anh là nhà báo thì lại càng phải thế, phải có trách nhiệm với những gì mình viết chứ. Anh xem lại các bài viết của mình mà xem, toàn là những bài hết sức cực đoan, phiến diện vì thiếu thông tin.
Blogger: Thế anh nói “có những cách hiệu quả hơn để đóng góp ý kiến” là những cách gì?
AN: Nếu thực sự anh có tinh thần xây dựng, muốn đóng góp ý kiến xây dựng Đảng thì anh sẽ tìm ra cách. Thiếu gì cách. Ví dụ – đây là tôi lấy ví dụ thôi nhé – anh có thể gửi thư riêng đến các đồng chí lãnh đạo cao cấp. Chứ ai lại đi đưa lên blog công cộng như thế cho mấy đứa trên mạng nó đọc, rồi nó lợi dụng, nó bàn ra tán vào này nọ. Mình thấy nó hưởng ứng mình, mình tưởng thế là hay, chứ thực ra bọn nó chỉ lợi dụng mình thôi. Anh xem đấy, đến lúc anh bị bắt thì đứa nào giúp anh? Từ giờ phút này là chỉ có anh mới cứu được anh thôi, anh Y…
Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013
Đoan Trang - Tự do báo chí kiểu Việt Nam (kỳ 1)
Đoan Trang
Theo Báo cáo công tác báo chí năm 2012, do Thứ trưởng Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn trình bày tại Hội nghị cán bộ báo chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ năm 2013, “tính đến tháng 2/2013, số lượng cơ quan báo in trên cả nước là 812 với 1084 ấn phẩm. Trong đó, có 197 tờ báo in (84 báo Trung ương, ban, bộ, ngành, đoàn thể, 113 báo địa phương). Trong lĩnh vực thông tin điện tử, 336 mạng xã hội, 1174 trang thông tin điện tử tổng hợp. Cả nước hiện có 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 02 đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, 01 đài của ngành (Đài Truyền hình KTS VTC); 64 đài phát thanh và truyền hình địa phương với 172 kênh chương trình phát thanh và truyền hình (99 kênh truyền hình, 73 kênh phát thanh). Về đội ngũ cán bộ báo chí, cả nước hiện có gần 17000 người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ, 19000 Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, sinh hoạt tại các chi hội, liên chi hội...”.
Nghe quen quen? Đó là bởi vì mẫu câu này về căn bản vẫn được giữ nguyên qua các năm, chỉ có con số thay đổi chút đỉnh. Ví dụ như năm 2012:
“Truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng hiện nay ở nước ta chưa bao giờ phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, về số lượng, về loại hình như ngày nay. Tính đến tháng 3/2012 nước ta có 786 cơ quan báo chí in (184 báo in, trên 592 tạp chí) với 1016 ấn phẩm trong đó báo có 194 cơ quan gồm 81 báo Trung ương, 113 báo địa phương; tạp chí có 592 cơ quan (475 tạp chí Trung ương và 117 tạp chí địa phương; 1 hãng thông tấn quốc gia; 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia; 1 đài truyền hình ngành; 64 đài phát thanh, truyền hình thành phố, 47 đơn vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 9 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền hình cáp. Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 61 báo, tạp chí điện tử, 191 mạng xã hội, hơn 1.000 trang thông tin điện tử tổng hợp...”.
Và thống kê của năm 2011:
“Tính đến tháng 3/2011, trên lĩnh vực báo in, cả nước có 745 cơ quan báo chí với 1003 ấn phẩm. Ở lĩnh vực phát thanh và truyền hình, có 67 đài phát thanh, truyền hình gồm 3 đài phát thanh, truyền hình ở trung ương (VOV, VTV, VTC), và 64 đài phát thanh-truyền hình ở các địa phương với 200 kênh sản xuất trong nước và 67 kênh nước ngoài. Trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 46 báo điện tử và tạp chí điện tử, 287 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí và hàng nghìn trang tin điện tử có nội dung thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các đoàn thể, hội, hiệp hội và các doanh nghiệp. Cũng tính đến tháng 3/2001, cả nước có gần 17.000 người đã được cấp thẻ nhà báo và trên 5.000 người đang hoạt động báo chí nhưng chưa có thẻ, trong đó nhiều phóng viên, biên tập viên có trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ khá”.
Đây là những thông tin thường được Đảng và Nhà nước Việt Nam, thông qua báo chí chính thống và mạng lưới dư luận viên, đưa ra mỗi khi cần dẫn bằng chứng cho tự do báo chí ở Việt Nam. Điều này có lẽ xuất phát từ một đặc điểm tâm lý chung của những người cộng sản là rất thích con số, thích sự “lượng hoá” để làm bằng chứng, kiểu như GDP mỗi năm tăng trưởng 7%, hay thu nhập đầu người ở Việt Nam tính trung bình là xyz USD/năm kể từ năm abc, hoặc lượng hoá một cách thô thiển nữa thì thành kiểu “ba phe, bốn mâu thuẫn”, “thanh niên ba sẵn sàng”, “phụ nữ ba đảm đang”…
Có vấn đề là Đảng và Nhà nước lại chỉ sử dụng con số cơ quan báo chí và số lượng nhà báo hoạt động như là bằng chứng rõ nhất và duy nhất cho tự do báo chí ở Việt Nam, còn các cơ quan và con người đó hoạt động như thế nào thì lại không nói đến.
Công khai chỉ đạo trong bí mật
Hàng tuần tại Hà Nội và TP.HCM, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành uỷ, cùng đại diện Bộ Thông tin - Truyền thông và cơ quan an ninh, đều tổ chức một cuộc họp với tất cả tổng biên tập các tờ báo quan trọng (mức độ quan trọng là do Ban Tuyên giáo đánh giá). Ở các tỉnh, thành khác, cơ quan tuyên giáo địa phương cũng có hoạt động tương tự vào thời gian tuỳ họ ấn định.
Cuộc họp này được gọi một cách tế nhị là “giao ban báo chí hàng tuần”, còn thực chất nó là một buổi “định hướng thông tin tuyên truyền”, trong đó, đại diện Ban Tuyên giáo sẽ nhận xét các báo tuần qua làm gì tốt (thì biểu dương), làm gì chưa tốt hoặc sai phạm (thì xử phạt); tuần tới thì sẽ tập trung làm gì và chú ý đừng làm gì. Người được mời dự họp là các tổng biên tập hoặc đại diện có thẩm quyền của các báo, và tất nhiên, 100% phải là đảng viên.
Việc tiến hành những cuộc họp như thế thực sự là hành động xoa đầu, răn dạy, kết hợp đe dọa và trấn áp báo chí, và dĩ nhiên là chẳng theo một quy định pháp luật nào: Thật là chối tỉ khi toàn bộ hệ thống báo chí đều bị coi là “lực lượng tuyên truyền” và do một đảng chính trị đứng ra chỉ đạo, định hướng. Có lẽ Đảng cũng tự thấy rõ việc này là khó chấp nhận, là giẫm lên luật pháp và nguyên tắc báo chí, cho nên ở đây có một việc rất buồn cười là: Một mặt họ yêu cầu tất cả “các đồng chí lãnh đạo cơ quan báo chí” phải quán triệt các định hướng của họ đến anh chị em phóng viên ở toà soạn, nhưng mặt khác họ lại cũng yêu cầu các báo phải tuyệt đối giữ kín chuyện Đảng đứng ra chỉ đạo báo chí, tuyệt đối không bàn đến, không để rò rỉ thông tin ra bên ngoài, nhất là cho các thế lực thù địch, rằng “có một cuộc họp như thế” mỗi tuần ở Hà Nội và TP.HCM.
Biên bản ghi chép một cuộc họp giao ban báo chí như thế vào ngày 29/3/2011 đã bị rò rỉ ra lề trái, với một số chỉ đạo nổi bật như: Không đưa tin về việc diễn viên Hồng Ánh tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội; sắp tới sẽ xét xử vụ Cù Huy Hà Vũ, đề nghị khi nhắc về con người này thì không đưa danh vị tiến sĩ và chức danh luật sư; không nhắc đến vụ chìm tàu tại Hạ Long để tránh ảnh hưởng đến du lịch của đất nước; không đưa tin các vấn đề liên quan đến nhà máy điện nguyên tử của Việt Nam, v.v.
Vị lãnh đạo cơ quan báo chí đứng tên trên văn bản (Phó Giám đốc Truyền hình Kỹ thuật số VTC, ông Vũ Quang Huy) và vài nhân viên liên quan được một phen tá hoả vì sợ bị truy cứu trách nhiệm. Rút kinh nghiệm vụ này, sát trước phiên toà xử ông Cù Huy Hà Vũ, phóng viên nội chính của các tờ báo lớn đều nhận được một văn bản không tiêu đề, không tên người gửi, không cơ quan, không con dấu, chỉ thị rõ các báo đưa tin theo hướng phản ánh tính nghiêm minh của phiên toà và sự xác đáng của bản án, “không mở rộng bình luận”, “không gọi bị cáo là tiến sĩ vì có thể bị cáo lợi dụng”, v.v.
Tháng 12-2012, tại một cuộc họp giao ban báo chí định kỳ, ông Nguyễn Thế Kỷ, ban Tuyên giáo Trung ương, đã quở trách báo chí đưa tin “không đúng” về sự kiện tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam. Theo ông Kỷ, phía Trung Quốc chỉ là “vô tình gây đứt cáp” chứ không có ý cắt cáp, phá hoại “ta”. (Trên thực tế, những người có chuyên môn, chẳng hạn một số kỹ sư ở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Petrovietnam, đều khẳng định rằng không có chuyện Trung Quốc vô tình). Điều đáng chú ý là băng ghi âm ghi lại bài khiển trách của ông Kỷ đã bị tuồn lên mạng, sau đó tờ báo hải ngoại bị coi như “đài địch” là BBC Việt Ngữ liên hệ với ông Kỷ đề nghị phỏng vấn – ông bèn nói tránh rằng mình chỉ “trao đổi nghiệp vụ” với các báo mà thôi. Cả ông Kỷ và Ban Tuyên giáo đều không hài lòng trước việc bị lộ “hoạt động định hướng thông tin tuyên truyền”. Nghe nói (cũng chỉ là “nghe nói”) vào buổi họp giao ban tuần tiếp theo, họ tỏ ra rất cảnh giác trước nguy cơ bị ghi âm, có lẽ chỉ còn thiếu nước khám người tất cả các tổng biên tập và đại diện toà báo tham dự họp để kiểm tra xem có gài thiết bị ghi âm hay không.
Chỉ đạo qua điện thoại, tin nhắn
“Các báo chú ý: Ngày mai, 1/7, là ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các báo tuyệt đối không đưa tin về biểu tình, về tranh chấp chủ quyền Việt Nam-Trung Quốc”. Tin nhắn này, đề ngày 30/6/2012, chỉ là một trong vô số tin nhắn truyền đạt mệnh lệnh của cơ quan quản lý báo chí đến lãnh đạo (tổng biên tập) các báo. Bên cạnh đó là các cú điện thoại của “trên”, ra các chỉ đạo “miệng”: Không đưa tin về vụ này, không làm đậm vụ kia, hạn chế đề tài nọ v.v. Thật là một cách chỉ đạo tuyệt vời khôn ngoan vì nó hiệu quả mà lại rất kín, không để lại văn bản, con dấu, chữ ký… chẳng có bằng chứng gì cho thấy các báo đã được/bị định hướng. Bọn “thế lực thù địch” có muốn rêu rao các luận điệu bôi nhọ, bêu xấu ta cũng chẳng được – bằng chứng đâu? Tất cả chỉ là vu khống.
Hơn ai hết, Đảng – mà đại diện ở đây là bộ máy tuyên giáo và an ninh – ý thức được sức mạnh của sự bí mật. Công khai, minh bạch là tự làm mất mặt mình, tự giết mình. Cũng từ đây, nảy sinh nguy cơ mà Đảng rất không thích và luôn đề cao cảnh giác, đó là sự hợp tác, bắt tay nhau giữa “lề phải” và “lề trái”, hành động tuồn thông tin từ các nhà báo “chính thống” sang giới blogger để blogger tung lên mạng.
(Còn nữa)
Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013
Đoan Trang - "Nói với mình và các bạn": Biểu tình, đình công trong văn hoá chính trị Việt Nam
Đoan Trang
Dưới đây là bài viết thứ 8 trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Ở bài trước, chúng ta đã nói rằng biểu tình, đình công là hình thức hoạt động chính trị có hiệu quả đối với những người tham gia, ở chỗ nó tác động mạnh tới cộng đồng, nó gây chú ý và khiến người biểu tình (hoặc đình công) có thể tạo sức ép chính trị. Nhưng đối với những người khác, biểu tình không thể không gây thiệt hại, nhẹ nhất cũng gây khó chịu.
Nói cách khác, ở Việt Nam, nó còn gây tranh cãi, ít nhất là cũng có một số người dân hiện nay căm ghét nó – con số này không hề nhỏ. Vì sao? - Phạm Đoan Trang
* * *
Kỳ 8
BIỂU TÌNH, ĐÌNH CÔNG TRONG VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Mùa đông năm 2008, nhà báo Nguyễn Hoàng Linh (Tổng Biên tập tờ Nhịp Cầu Thế Giới của cộng đồng người Việt ở Hungary) chuẩn bị rời Budapest về Hà Nội nghỉ Giáng sinh. Vé máy bay đã mua, đồ đạc đã đóng gói, đã hẹn hò đầy đủ với người thân, bạn bè ở Việt Nam, nhưng sát ngày khởi hành, ông Linh sững sờ trước nguy cơ không đi được: Toàn bộ nhân viên Sân bay Quốc tế Budapest, giới tài xế xe buýt của Công ty Giao thông Công cộng Budapest BKV, phối hợp cùng ngành đường sắt, đang tổng đình công đòi tăng lương. Giao thông cả nước bị đình trệ. Hành khách và hành lý đều vạ vật, ngổn ngang trên sân bay.
Ông Linh gọi điện về Việt Nam báo rằng chuyến bay có thể bị hoãn vô thời hạn. Người thân, bạn bè của ông nghe tin, ai cũng bực bội “cái bọn đình công”: Ích kỷ, nhỏ nhen, lợi dụng đúng thời điểm mùa Giáng sinh, nhu cầu đi lại của nhân dân đang cao, để đình công, thật hãm tài.
Điều kỳ lạ là chính những người trong cuộc – dân Hungary và du khách ngoại quốc, “nạn nhân” trực tiếp của cuộc đình công – thì lại rất chịu đựng và không có ý kiến gì đặc biệt. Nhà báo Nguyễn Hoàng Linh tìm hiểu và thấy tuyệt nhiên không thấy ai có thái độ cáu kỉnh, trách móc. Thậm chí mọi người còn tỏ ra thông cảm với giới nhân viên đình công và ai cũng nhất trí là phải có sự phối hợp giữa sân bay, xe buýt với đường sắt, sao cho… thiệt hại lên đến mức cao nhất, bởi có vậy mới mong Chính phủ Hungary lùi bước trước các nghiệp đoàn.
Hành khách bị kẹt trên Sân bay Quốc tế Budapest, tháng 12/2008. (Ảnh: Nguyễn Hoàng Linh)
Vì sao khác biệt?
Điều gì làm nên sự khác biệt giữa thái độ của người Việt Nam và người Hungary trước biểu tình và/hoặc đình công? Có thể đến lúc này bạn đã nhìn ra nguyên nhân rồi: Đó là sự khác biệt trong văn hoá chính trị của hai nước.
Các nhà khoa học định nghĩa văn hoá chính trị là “tập hợp các thái độ, giá trị, tình cảm, thông tin và kỹ năng về / liên quan đến chính trị của người dân trong một xã hội”, văn hoá chính trị “tạo nên môi trường tâm lý - xã hội, nơi diễn ra các xung đột chính trị, nơi người ta ban hành chính sách”.
Để dễ hiểu, bạn có thể hình dung văn hoá chính trị gồm hai thành tố căn bản: nhận thức chính trị (hiểu biết của người dân về chính trị) và tình cảm chính trị (cảm xúc, sở thích, yêu/ghét liên quan đến chính trị).
Đương nhiên là nhận thức chính trị và tình cảm chính trị của người dân mỗi nước mỗi khác. Nói về nhận thức chính trị, nếu bạn hỏi một người Mỹ xem Tổng thống Mỹ sống và làm việc ở đâu, nhiều khả năng ông/bà ta sẽ trả lời đúng, là Nhà Trắng. Còn nếu bạn hỏi ông bác và bà dì của bạn xem Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam sống và làm việc ở đâu, có khi bác và dì bạn mỗi người sẽ có một câu trả lời khác nhau, và ta chẳng biết câu nào đúng.
Nói như vậy, không có nghĩa là tác giả bài viết này cho rằng dân Mỹ nhận thức chính trị cao hơn dân Việt Nam, bởi vì một câu hỏi và câu trả lời khó nói lên được gì. Ngoài ra, giả sử có nghĩ thế thật, tác giả cũng không dám nói, vì… sợ cái thành tố thứ hai trong văn hoá chính trị, là tình cảm chính trị.
Về tình cảm chính trị cũng vậy, nó rất đa dạng. Ngay trong cùng một nước Mỹ, tại cùng một thời điểm, có người xem việc Mỹ phát động chiến tranh chống khủng bố, bắt đầu từ Afghanistan (năm 2001), là cần thiết, nên làm, đáng ủng hộ; ngược lại, có người thì căm ghét, phản đối. Tuy nhiên, cũng có những tình cảm chung của cả một cộng đồng, trên cơ sở những giá trị chung, hay là những quan niệm chung về cái tốt, cái xấu. Ví dụ ta có thể tin rằng đại đa số người Mỹ thích sự độc lập, thích quan niệm rằng dân chủ thì lành mạnh hơn là độc tài. Tình cảm ấy của họ dựa trên một giá trị chung mà họ đề cao, là tự do.
Tương tự, đại đa số người Việt Nam, nếu được khảo sát, sẽ nói rằng họ có thiện cảm với nước Lào hơn với Trung Quốc, mặc dù trên thực tế có thể họ chẳng biết nhiều về Lào, hoặc biết về Lào ít hơn về Trung Quốc. Vì một trong các giá trị chung của dân Việt Nam hiện nay có lẽ là tinh thần dân tộc chủ nghĩa (nationalism). Chúng ta tin rằng nationalism là một phẩm chất tốt đẹp, ngược với ở châu Âu, nơi nó lại đang bị coi là xấu, tiêu cực.
Và, tình cảm chính trị có thể khiến cho nhiều bạn đọc Việt Nam “ném đá” một tác giả nào đó ngay tắp lự nếu hắn dám nói rằng dân Mỹ nhận thức chính trị cao hơn dân Việt Nam.
Vì chúng ta thuộc về văn hoá chính trị Việt Nam…
Văn hoá chính trị - gồm nhận thức chính trị và tình cảm chính trị - là cái tạo nên sự khác biệt trong thái độ của một xã hội, một cộng đồng nào đó đối với biểu tình, đình công, và các hoạt động chính trị khác như thành lập đảng phái, vận động, kiện tụng, làm truyền thông, v.v.
Văn hoá chính trị là cái khiến cho, sau khi ba sinh viên Đại học Luật TP.HCM ra tuyên bố kêu gọi “công lý cho Đoàn Văn Vươn”, những người ra mặt phản đối họ nhất lại chính là… Đoàn trường. Và khi họ đòi Đoàn trường xin lỗi, nếu không sẽ kiện, một số “luật gia, luật sư tương lai”, bạn của họ, đã mở một chiến dịch công kích họ, thành lập cả “Hội những người bảo vệ hình ảnh của sinh viên Luật”. Nếu ở một nền văn hoá chính trị khác, với nhận thức chính trị khác, có lẽ các “luật gia, luật sư tương lai” đó phải phấn khởi khi có một vụ kiện như thế, và hơn ai hết, phải ủng hộ việc đồng nghiệp, đồng môn của mình làm.
Văn hoá chính trị là cái khiến cho một số người dân, khi ra công viên Nghĩa Đô ở Hà Nội sáng chủ nhật 5/5/2013 để tham gia “dã ngoại nhân quyền”, phải đối diện với ánh nhìn thiếu thiện cảm của những người khác. Và đây là một comment thể hiện tình cảm chính trị của nhiều người Việt Nam với “đám biểu tình”: “Họ đứng nói chán họ đi một vòng hồ, họ nói chán chẳng có ai nghe nên họ chuyển sang nói bằng loa nhưng cũng chẳng có ai quan tâm, nên họ về. Cả công viên bao nhiêu người qua lại chơi đùa, có ai để ý họ đâu? Người ta vẫn cứ chơi, hai quả đồi vẫn đông tấp nập mà”.
Đến đây câu hỏi đặt ra là: Vậy, có văn hoá chính trị tốt, văn hoá chính trị xấu không? Trả lời: Điều chắc chắn là văn hoá chính trị mỗi nơi mỗi khác, và thật khó tuyên bố cụ thể văn hoá chính trị nước này thì tốt, nước kia thì xấu. Thế nhưng, cũng có những giá trị chung, những giá trị phổ quát, mà nếu đã coi mình thuộc về nhân loại tiến bộ thì chúng ta sẽ tự nhiên thừa nhận, ví dụ những quyền căn bản của con người. Chúng ta khó có thể chấp nhận một xã hội nơi phụ nữ ngoại tình bị ném đá đến chết, người đồng tính bị xử tử, rồi ta bảo rằng “vì luật pháp, vì văn hoá chính trị của họ là như thế, tốt xấu kệ họ, nói chung đều đáng tôn trọng cả”.
Người viết xin để bạn đọc tuỳ ý đánh giá xem văn hoá chính trị Việt Nam hay dở thế nào. Còn về phong trào đình công ở Hungary tháng 12/2008, sau nhiều ngày giao thông bị tê liệt, Chính phủ Hungary và các nghiệp đoàn của bên đình công đã đạt được thỏa thuận vào phút cuối với sự nhượng bộ của chính quyền. Và nhà báo Nguyễn Hoàng Linh về Việt Nam, mang theo một trải nghiệm hồi hộp và thú vị về "bất tuân dân sự".
Kỳ sau: Mặt trái của biểu tình và “bất tuân dân sự”
Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013
Đoan Trang - Văn Giang và chuyện làm báo thời “có định hướng”
Đoan Trang
Mô típ “chúng ta nói gì với con cháu chúng ta” hẳn là đã được sử dụng nhiều trong văn học, sách báo, phim ảnh. Như nhà văn Phan Tứ (1930-1995) viết trong tiểu thuyết nổi tiếng “Mẫn và tôi” về tình yêu thời chiến tranh: “Bầy cháu nội ngoại sẽ nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. (…) Đành vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào bùn”.
“Phải không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon, và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng?”.
Nghe nhà văn viết những dòng thủ thỉ, thấy tình yêu của hai nhân vật chính – Mẫn và Thiêm – sao mà đẹp đến lý tưởng. Đúng là cuốn tiểu thuyết “một thời khuấy động hàng triệu con tim” thanh niên miền Bắc, cũng chẳng khác gì “những nhạc phẩm lừng danh của Trịnh Công Sơn”, “đầy phẫn nộ, khát khao cho một niềm hy vọng chung của cả dân tộc”… (*)
Lũ nhà báo bây giờ sau này kể lại cho con cháu nghe chuyện làm báo của mình thời nay, sợ rằng không được đẹp, oai hùng như thế. Nó thảm hại hơn nhiều, lố bịch hơn nhiều, hèn nhát hơn nhiều…
* * *
Nó là câu chuyện của những nhà báo hễ xuất hiện ở điểm nóng nào là chỉ đi cùng “lực lượng chức năng”, áo nhiều túi, máy ảnh trước ngực, vẻ mặt nghiêm trọng. Cũng là câu chuyện của những phóng viên về Văn Giang lúc xế chiều để chứng kiến một cánh đồng tung tóe, cây cối đổ nát nghiêng ngửa. Dân quê thấy người lạ vào, chẳng ai buồn ngẩng lên, vẫn cắm cúi đào bới, nhặt nhạnh, xúc, đổ đất… Nhưng đến khi thấy “người lạ” lúi húi lấy máy ghi âm, sổ và bút ra, thì họ vây lấy, thẫn thờ: “Sao đến giờ nhà báo mới về? Mất rồi. Mất hết rồi!”.
Rồi họ nhất định kéo nhà báo vào nhà, để họ pha trà, mời nước, và nghe họ kể lể chuyện “mất hết rồi”. Hàng xóm lục tục kéo đến, người nào cũng phải xán lại, nhìn, chạm tay vào áo khách một cái, khẩn khoản: “Nếu nhà báo giúp được chúng tôi đòi lại được đất, thì chúng tôi mang ơn nhà báo suốt đời”. Màn đêm buông xuống, trai tráng trong làng rầm rập đưa xe máy hộ tống nhà báo về. Người dân nông thôn bao giờ cũng vậy, họ có thể khôn ngoan hay thực dụng, nhưng vẫn có cái hồn hậu chất phác – nên không để ý thấy nhà báo đang cúi gằm mặt rời khỏi hiện trường.
Và từ ấy, ngày nào họ cũng ngong ngóng ra bưu điện huyện, chờ xem có báo nào đưa tin, viết bài “về xã mình” không. Những mảnh báo hiếm hoi nhắc đến vụ việc của làng họ được photocopy ra hàng chục bản, và truyền tay nhau nhiều quá, đã nát ra rồi…
Những bức ảnh chân thực nhất về vụ cưỡng chế ở Văn Giang
có xuất hiện đầu tiên trên báo chí không?
Không, hoàn toàn là từ mạng xã hội và blog. Vì sao thế hả Ban Tuyên giáo?
* * *
Họ không nhìn thấy cảnh nhà báo phóng xe máy rời làng, đầu cúi gằm. Họ cũng không biết đến chuyện, có những lần, nhà báo về làng khi trời vẫn còn chưa tối. Trên đường đi, dưới ánh hoàng hôn, cây lá trong vùng vẫn xanh biếc như thế, triền đê vẫn mườn mượt cỏ, gió vẫn lồng lộng, và nhà báo dở hơi bỗng nghĩ tới lời thề của danh tướng Trần Quốc Tuấn thời xưa: “Trận này không phá xong giặc Nguyên, quyết không về bến sông này nữa”. Thì chúng cháu cũng vậy, Cụ ạ! Chúng cháu cũng muốn đứng trên đê, nhìn xuống cánh đồng xanh mượt mà thề: “Chuyến này không đăng được bài, quyết không về chốn này nữa”. Nhưng nói vậy thôi, chúng cháu sao dám gở miệng như thế - vì chúng cháu hiểu, sẽ còn nhiều, rất nhiều những vụ cưỡng chế đất đai, những bạo lực, đổ máu, hận thù, bất mãn… mà nếu còn nghĩ tới chuyện làm báo thì còn phải chứng kiến, và viết. Không ở đây thì cũng ở nơi khác mà thôi.
Những người dân quê chất phác. Họ chẳng biết gì tới sự căng thẳng của ban biên tập, nỗi dằn vặt của phóng viên. Họ cũng chẳng biết đến Internet, cùng những cuộc cãi vã xô xát trên đó, bảo rằng họ tham lam, đã nhận tiền rồi nay thấy ít nên lại đòi tăng, rằng họ bất mãn nên bị bọn phản động lợi dụng, rằng cưỡng chế đất đai là việc không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam (chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tóm lại là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”).
Họ càng không biết tới Hiến pháp, tới bài toán phát triển kinh tế của đất nước – toàn những thứ vĩ mô đến thế. Họ chỉ biết vào cái buổi sáng hôm ấy, hàng chục xe cam nhông, xe tải chở lính, đã bò như cua vào thôn làng họ, và họ bị xô đẩy, dồn ra ngoài cái mảnh đất cho đến rạng sáng vẫn còn là của họ trong tiếng loa oang oang nhắc nhở: “Không phận sự miễn vào”. Không chống lại được thì họ phản ứng, họ chửi, khóc, ngồi bệt, rồi lăn cả ra đấy, uất ức như những đứa trẻ bị cướp đồ ăn.
Lúc ấy, ai còn dám lý luận với họ về những vấn đề cao siêu, ví dụ, về sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất?
Nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, rằng giả sử cuộc cưỡng chế diễn ra căng thẳng và khốc liệt, rồi một nhân viên công vụ bị đánh trọng thương, máu me be bét, lực lượng cưỡng chế buộc phải rút lui trong thất bại, thì có ai vui mừng hả hê với chiến thắng của “phe nhân dân” không? Câu trả lời, với những người làm báo nghiêm túc, sẽ là không. Đơn giản bởi vì người ta ai cũng xương cũng thịt. Ai cũng là tinh cha huyết mẹ mà thành.
Báo chí không thể ủng hộ, cổ vũ bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Một điều mà các nhân viên an ninh ít chữ rất hay muốn làm rõ là “Anh/chị viết bài vì động cơ gì?”. Họ không hiểu rằng với nhà báo, sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là “động cơ”, thì nhà báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật. Đôi khi, một nhà báo viết hết, phản ánh hết – đúng 100% - những gì một bên đưa ra (ý kiến, bằng chứng…), mà vẫn là không chấp nhận được. Bởi vì như vậy là không đủ khách quan, công bằng: Mọi bên đều phải có cơ hội thể hiện quan điểm như nhau.
Nếu dân sai thì ngay cả có bị dí súng vào đầu bắt viết “vu vạ” cho công an, người làm báo cũng không viết. (Ở đây, phải giới hạn là không phải tất cả các nhà báo đều như nhau, ngoài ra, nhiều khi họ không viết xấu về chính quyền không phải vì tôn trọng sự thật khách quan, mà là vì không đủ bằng chứng, hoặc vì sợ bị trừng trị). Ngược lại, nếu chính quyền sai thì dù có cố đến đâu cũng khó lòng bênh nổi.
Ai đó đã nói về “chiến dịch” đưa tin của báo chí trong và sau các vụ Tiên Lãng, Văn Giang như sau: “Một cuộc vật lộn để được nói sự thật”. Thực tế còn hơn thế nữa: Một cuộc vật lộn để được biết sự thật, để được viết sự thật, và để được khách quan (tất nhiên cũng chỉ dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến giờ, cái đích ấy vẫn chưa đạt được.
* * *
Chuyện đất đai và “tam nông” ở Việt Nam năm 2012 được đánh dấu bằng hai vụ cưỡng chế điển hình tai tiếng: Tiên Lãng (5/1) và Văn Giang (24/4).
37 năm sau ngày thống nhất đất nước. Hơn nửa thế kỷ sau cải cách ruộng đất. 67 năm sau ngày thành lập nước. Sáu thế kỷ sau thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy ở phương Tây. Bước vào thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, ở Việt Nam, vẫn còn diễn ra những cuộc cưỡng chế đất đai nhốn nháo, tiếng la hét chửi bới của dân lẫn trong khói hơi cay và tiếng oàng oàng chói tai của “quả nổ nghiệp vụ”.
Tệ hơn nữa là chuyện ấy lại diễn ra cùng với đây đó những mệnh lệnh (miệng) yêu cầu báo chí “hạn chế đưa tin”, và những cuộc tranh cãi ầm ĩ, đầy ngụy biện, trên mạng, về quan tham, dân gian và bọn báo chí lề phải, blogger lề trái ngu dốt, phản động.
“Các bạn trẻ ạ, ngày xưa chúng tôi làm báo thế đấy”.
(*) Lời giới thiệu album "Sơn Ca 7" của Khánh Ly - Trịnh Công Sơn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)