Hiển thị các bài đăng có nhãn Đinh Yên Thảo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đinh Yên Thảo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 14 tháng 4, 2020

Ðinh Yên Thảo: Operation Babylift, 45 năm một sứ mạng nhân đạo và tình người

Trên một chuyến bay của chương trình Operation Babylift, 1975. (AP Photo/File)

Trong những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam, chiến dịch di tản nhân đạo các trẻ em mồ côi sang Hoa Kỳ với tên gọi Operation Babylift đã được thực hiện theo sự chuẩn thuận của Tổng Thống Gerald Ford. Ông tuyên bố rằng, " Trong khi truy điệu những người đã mất, chúng ta không thể quên những người còn sống" để không chỉ có kế hoạch di tản hàng chục ngàn nhân viên người Việt, mà còn là chiến dịch dành riêng cho trẻ mồ côi sẽ được di tản bằng phi cơquân sự, có ngân sách khoảng hai triệu đô la. Theo số liệu từ bộ phim tài liệu Precious Cargo của PBS, đã có ít nhất 2,700 trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ và khoảng 1,300 em được đưa sang Canada, Úc và Châu Âu trong sứ mạng này.

Rất không may, chiến dịch mở màn bằng một tai nạn thương tâm. Ngày 4 tháng 4 năm 1975, tin chiếc phi cơ C-5 bốc trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Babylift gặp nạn làm thiệt mạng 153 trẻ em, phi hành đoàn, nhân viên thiện nguyện và nhân viên văn phòng DAO tại Sài Gòn, đã gây bàng hoàng và xúc động cho những người theo dõi tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam.

Chiếc phi cơ C-5 mang ký hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang căn cứ Clark Air Base tại Phi Luật Tân vào chiều thứ Sáu, là chuyến bay đầu tiên chở các trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ trong chiến dịch này. Theo kế hoạch dự tính, các em sẽ tiếp tục được chuyển sang máy bay dân sự từ Phi Luật Tân để bay tiếp đến San Diego với sự chờ đón của chính TT Ford ngay phi trường. Dù tai nạn thảm khốc xảy ra đã gây thiệt mạng gần một nửa trẻ em và các nhân viên trên phi cơ, chiến dịch vẫn được tiếp tục. Và cũng không vì điều này mà có thểcản chân hàng chục y tá trẻ người Mỹ, đang làm việc tại Hồng Kông đã quyết định tình nguyện bay sang Sài Gòn để giúp đưa các trẻ em VN về Mỹ.

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2019

Đinh Yên Thảo (RFA): Trung Quốc muốn kiểm duyệt tự do ngôn luận của thế giới

Hình minh họa. Chủ tịch Tập Cận Bình và tự do ở Hong Kong. Tranh biếm họa của họa sĩ Rebel Pepper

Bị Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả (CPJ) xếp vào danh sách những quốc gia có chế độ kiểm duyệt báo chí và internet nghiêm ngặt nhất, không ngạc nhiên gì khi trong báo cáo mới nhất của mình, CPJ đã xếp hạng Trung Cộng đứng đầu danh sách các quốc gia bỏ tù ký giả nhiều nhất, với ít nhất 48 ký giả đã bị bắt và bỏ tù trong năm 2019 này.

Trong vài chục năm qua, chế độ kiểm duyệt và tự kiểm duyệt tại Hoa Lục đã rất nghiêm ngặt. Nguyên tắc "Ba T", tức Tibet, Tienanmen và Taiwan, liên quan đến Tây Tạng, Thiên An Môn và Đài Loan là những vấn đề cấm kỵ. Thời gian qua, danh sách cấm kỵ này còn thêm vào vô số điều, từ Pháp Luân Công cho đến người Duy Ngô Nhĩ và mới nhất là Hồng Kông. Đưa tin về Hồng Kông là một rủi ro lớn. Hồi tháng Mười vừa qua, Trung Cộng đã bắt giữ một ký giả tự do chuyên viết các phóng sự điều tra là Sophia Xueqin ngay sau khi cô này tường thuật trên blog của mình về cuộc tuần hành của giới trẻ Hồng Kông bằng chính trải nghiệm tham gia cá nhân ngay trên đường phố Hồng Kông .

Hình minh họa. Người biểu tình đòi dân chủ cho Hong Kong hôm 26/11/2019 AFP

Những cuộc bắt giữ này đã liên tục gia tăng từ khi Tập Cận Bình thu tóm quyền lực và gia tăng việc kiểm soát truyền thông và internet. Từ sách báo, truyền hình, phim ảnh, âm nhạc cho đến trò chơi điện tử, đặc biệt là các trang mạng xã hội. Hàng ngàn trang mạng lớn và được đông đảo người khắp thế giới sử dụng như Google, Facebook, YouTube, Twitter... đều bị chặn tại Hoa Lục. Việc kiểm duyệt không chỉ trong mục đích chính trị mà còn để kiểm soát và tuyên truyền những gì nhà cầm quyền muốn người dân nghe-đọc và biết đến.

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

Đinh Yên Thảo, Dallas, Texas: Hội chứng "Đổ lỗi nạn nhân" và những cái chết trong tâm hồn người Việt

Ảnh hai nạn nhân chết ngạt và chiếc xe tải chở họ

Thói thường, những gì xảy ra cho mình thì thường được đổ "tại, bị, do, bởi vì..." một điều gì đó. Nhưng nếu xảy ra cho người khác thì rõ ràng nó phải là lỗi của họ, vì họ sai, dốt, tham, gian... hay gì đó. Đó là một hội chứng tâm lý học, gọi là "đổ lỗi nạn nhân" khá phổ biến trong bất cứ nền văn hóa nào. Nhưng đáng buồn hơn khi sự nhẫn tâm đã lên ngôi đến độ người ta đổ lỗi, kết án với những nạn nhân đã chết. Và đó là câu chuyện những người chỉ trích, lên án các nạn nhân người Việt bị chết thảm tại Anh. Lẽ nào tâm cảm một dân tộc từng dạy nhau "bầu ơi thương lấy bí cùng" đã xuống đến mức này?

Ngành "Nạn Nhân Học" (Victimology) thuộc khoa Tâm Lý Học và Tội Phạm Học chuyên nghiên cứu về nạn nhân của tội ác nào đó cùng các ảnh hưởng tâm lý nạn nhân, về mối liên hệ giữa nạn nhân và kẻ tội phạm, sự tương tác giữa nạn nhân cùng hệ thống hình luật, thường đứng về phía nạn nhân và tìm cách giảm nhẹ những định kiến cùng nhận thức chống lại nạn nhân, xem họ là những người chịu trách nhiệm một phần hay toàn bộ những bi kịch nào đó đã xảy ra với họ.

Điều thông thường gặp ở phương Tây là những đổ lỗi cho nạn nhân liên quan đến các cuộc tấn công tình dục hay bị cưỡng hiếp, đại loại là do nạn nhân ăn bận khêu gợi, say rượu, lả lơi hay mời chào đã kích thích kẻ cưỡng hiếp phạm tội. Hoặc những vụ bạo hành gia đình là do nạn nhân đã làm điều gì sai quấy nên dẫn đến sự tấn công của người phối ngẫu. Đây là một dạng phản ứng tiêu cực của xã hội được các nhà tâm lý xã hội học nghiên cứu và tìm giải pháp khắc phục. Nó bị các nhóm dân quyền phản đối, cũng như hệ thống pháp lý không xem là yếu tố truy xét trách nhiệm của nạn nhân hay kẻ phạm tội.

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019

Đinh Yên Thảo (VOA): Văn hóa ‘mày có biết tao là ai không?’

Nữ đại úy công an Lê Thị Hiền "đại náo" sân bay Tân Sơn Nhất.
Câu chuyện nữ đại úy công an Lê Thị Hiền hành hung, chửi bới nhân viên hàng không tại sân bay Tân Sơn Nhất vài tuần trước tưởng đã nguội bớt đi vì những tin tức thời sự chồng chất, nào ngờ lại một lần nữa gây xôn xao dư luận. 

Chứng cứ, thái độ lỗ mãng của người nữ đại úy này như thế nào thế nào thì những thước phim mộc được quay tại chỗ và đưa lên mạng đã thể hiện rõ ràng với bất cứ ai xem qua. Nhưng nay bà bỗng tố ngược là phim đã bị "chỉnh sửa, photoshop ", phim thiếu cảnh bà "bị sỉ nhục, hành hung trước" nên mới nổi cơn thịnh nộ và người nữ nhân viên bị bà chửi mắng, ôm mặt khóc là "diễn sâu" đóng kịch. Cũng như cả hai mẹ con đã bị "giam lỏng" như thế nào. 

Tất nhiên những điều này chỉ làm công luận nếu không cười nụ thì cũng khiến họ giận dữ công kích những lời tự bào chữa đầy vô lý và lố bịch này thêm nặng nề hơn. Nhưng khi người nhân viên hàng không đưa clip phim lên mạng đã phải tháo gỡ phim và đóng tài khoản facebook của mình, cũng như cơ quan an ninh hàng không bối rối giải thích rằng đã bị bà "hiểu lầm" và công an Quận Đống Đa đang "tiếp tục xem xét và báo cáo lên thành phố" (!?), thì người ta có quyền hỏi rằng, "thật ra người nữ công an này là ai, con cháu của "thần mặt trời" nào?" mới có thể tiếp tục ngang ngược, thách thức lại công luận khi xem mình là nạn nhân và tố ngược lại cho những người đã bị bà ta hành hung, chửi mắng và các cơ quan liên quan phải dè chừng như vậy.