Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Trường. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2023

Đỗ Trường: Trạch Gầm – Một giọng thơ độc đáo

(Kết thúc chiến tranh, nhớ đến bác Trạch Gầm)

Có lẽ, dính vào viết lách, nên tôi thường nhận được những tác phẩm thơ văn gửi tặng qua bưu điện, hoặc E-mail. Đó cũng là một niềm vui, sự an ủi không nhỏ cho những người cầm bút. Tuần vừa rồi, có một bác từ Houston, Hoa Kỳ gửi cho tôi chùm thơ, và hỏi có biết Trạch Gầm không. Vâng, tất nhiên là tôi đã bắt gặp tên tuổi nhà thơ này, khi đọc và nghiền ngẫm Văn học miền Nam trước đây, và các tác giả sau 1975 ở hải ngoại. Song mới chỉ đọc một vài đoạn trích ở đâu đó của Trạch Gầm, và chưa cho tôi một ấn tượng, hay cảm xúc gì đó đặc biệt. Tuy nhiên, khi nhận chùm thơ này, tôi đọc ngay, và đọc một mạch. Cái tráng khí Trạch Gầm làm cho tôi hơi bị sửng sốt. Do vậy, tôi tìm đọc ông. Và quả thực, thơ văn Trạch Gầm đã cho tôi một cảm xúc thật sâu sắc. Đọc ông, tôi chợt liên tưởng đến nhà thơ Huỳnh Hữu Võ, và Nguyễn Bắc Sơn. Nếu ngôn ngữ thơ của những người lính Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Bắc Sơn mang tính đặc trưng, thì ta có thể thấy rõ cái nét độc đáo trong thi ca Trạch Gầm.

Thứ Ba, 28 tháng 3, 2023

Truyện ký Đỗ Trường: Kẻ gác chuồng người

Gà đầy ự đĩa. Những cái nhìn thăm dò, cân não cùng đòn gió đã được đưa ra, vậy mà không ai có thể ù. Mặt thằng nào cũng phừng phừng đỏ. Đang độ gay cấn, căng thẳng, chợt có tiếng Đỗ Nga Thị the thé từ phòng khách vọng ra: Có đứng dậy đi về hay không, thì bảo.

Tiếng quát làm gã đầu bạc ngồi đối diện với tôi giật mình, mấy lá bài trên tay rơi úp vào lòng. Hai Hiển chủ nhà, một thuyền nhân tị nạn, ngồi cạnh càu nhàu: Bà làm quái gì hắc xì dầu thế. Để ông ấy chơi chút nữa, gà béo, bắt đến nơi rồi.

Không trả lời Hai Hiển, Đỗ Nga Thị vọt ra, đứng sau gã đầu bạc, thúc thúc đầu gối vào lưng: Đứng dậy, đứng dậy, làm thì lười, tá lả sao chăm thế!

Gã đầu bạc ngước mắt, đang định nói gì đó, gặp ngay ánh mắt có lửa của Đỗ Nga Thị, liền cụp vội xuống, lẩm bẩm. Mọi người lắc đầu, mất hứng, hạ bài, định chia gà. Nhưng tôi bảo gã đầu bạc: Để nguyên gà đó, tôi thế chỗ ông. Phần gà của ông bao nhiêu, tôi trả.

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2023

Đỗ Trường: Phạm Tín An Ninh: Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu

Nhà văn Phạm Tín An Ninh và tác phẩm

Sau chiến tranh, tuy bị bức tử, nhưng Văn học miền Nam vẫn hồi sinh, phát triển, để bước sang một trang sử mới. Văn học Hải ngoại, một hình thức, hay tên gọi văn chương tị nạn, là sự nối dài của nền Văn học ấy. Và từ đó, ngoài các nhà văn tên tuổi, ta thấy, xuất hiện một loạt các cây viết mới. Họ xuất thân từ những người lính, tù nhân, thuyền nhân tị nạn, như: Cao Xuân Huy, Song Vũ, hay Phạm Tín An Ninh… Chiến tranh, con đường giải oan cho cuộc bể dâu ấy, là đề tài đã được các nhà văn đào sâu, tìm kiếm làm sáng tỏ một cách chân thực, sinh động. Và khi đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Phạm Tín An Ninh là một trong những nhà văn tiểu biểu nhất viết về đề tài này.

Truyện ký Đỗ Trường: Người đàn bà trong đêm

Mùa đông năm nay, châu Âu không có nhiều tuyết rơi, và những cơn gió lạnh thấu hồn người. Song cái rét cứ dùng dằng, dai dẳng. Gần hết tháng 4 rồi, dường như cái lạnh còn ủ ở đâu đó. Mặt trời đã lấp ló, vậy mà sân ga Leipzig vẫn còn vắng bóng người. Và bất chợt có những cơn gió rít lên từng hồi, như gió bấc nơi quê nhà vậy. Khi tôi đến, tàu Leipzig đi Nürnberg, München đã chuẩn bị rời bến. Nhảy vội lên, và tôi đi ngược về phía đầu tàu. Đến toa Bistro, tôi đứng lại, định mua ly cafe. Bất chợt có tiếng khẽ gọi, và hỏi: Trường! Đỗ Trường phải không?. Tôi giật mình quay lại, thấy đôi vợ chồng già Việt- Đức ngồi ở bàn ăn, bên cửa sổ, với khuôn mặt lạ hoắc. Tôi gật đầu cười cười, nhưng mặt nghệt ra. Người đàn bà đứng dậy, đi về phía tôi: Đúng Đỗ Trường rồi, em không nhận ra chị thật sao? Tôi nhíu mắt, lặng yên... và lắc đầu. Chị vồn vã, nói một thôi một hồi: Giang, Vũ Lê Giang, bạn (nhà văn) Dương Thu Hương, chị của Dương Hoài Nam… Thời Đông Đức, các em đã từng đến thăm chị ở đội may 500 trên đồi…

Tôi sững người, bối rối: Vâng, em nhớ chị, nhà thơ Vũ Lê Giang…nhưng nhìn thấy khác lạ quá…

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2023

Đọc lại thơ Vũ Hoàng Chương

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương
Hình Wikipedia

Sau 50 năm theo đúng quy định, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố danh sách đề cử Giải Nobel Văn học năm 1972. 100 nhà văn đã được đề cử, trong đó có tên một nhà thơ Việt Nam: thi sĩ Vũ Hoàng Chương (19151976). Cuối cùng chủ nhân giải Nobel Văn học năm đó là nhà văn người Đức, Heinrich Böll (1917–1985). Một số tác phẩm của Heinrich Böll đã được xuất bản ở Việt Nam. Mặc dù vậy, chuyện này đã làm cho nhiều người Việt trong, ngoài nước cảm thấy tự hào và hy vọng một ngày nào đó, sau chính trị gia, nhà văn, nhà báo Hồ Hữu Tường (1910–1980, được đề cử giải Nobel Văn học năm 1969) và nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Việt Nam sẽ lại có người được đề cử (và biết đâu, sẽ được chọn) cho giải thưởng văn chương lâu đời và danh giá này.

Báo chí trong nước cũng đưa tin về việc này, nhưng tất nhiên, là lờ đi chi tiết cả hai ông đều bị tù dưới chế độ cộng sản và đều chết vì điều kiện giam giữ hà khắc, tàn bạo của nhà tù cộng sản.

Nhân dịp này, DĐTK xin đăng một số bài viết cũ và mới, về nhà thơ, từng được xưng tụng là thi bá, Vũ Hoàng Chương.

***

ĐỖ TRƯỜNG: VŨ HOÀNG CHƯƠNG, LẠC LOÀI TRONG CÕI NHÂN SINH


(Đỗ Trường viết nhân một trăm năm ngày sinh của thi sĩ Vũ Hoàng Chương 1915-2015)


Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2022

Phạm Tín An Ninh: Đỗ Trường – Người Chuyên Chở Văn Học Miền Nam Qua Vũng Lầy Lịch Sử

Đầu năm 2022, tôi bất ngờ đọc được bài viết “Níu Một Đời, Giữ Một Thời” của tác giả Ban Mai, một nhà văn trẻ trong nước. Cô đang là giáo sư giảng dạy về Khoa Học Công Nghệ và Hợp Tác Quốc Tế tại Trường Đại Học Qui Nhơn

Mở đầu bài viết, tác giả đã vẽ lại bức tranh đen tối, kinh hoàng sau ngày 30.4.75:

“…phần lớn người Miền Nam làm việc cho chính phủ Cộng Hòa đều bị tập trung cải tạo. Cuộc sống của nhiều gia đình đảo lộn. Vì sau khi đổi đời, họ bị thất nghiệp, nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu điều xơ xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và mì sợi. Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thu tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

 Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng giá trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…”

Và tác giả cho biết sự tình cờ được may mắn tiếp cận với dòng văn chương miền Nam:

“Mùa hạ năm 2010, tôi tình cờ đọc bài viết của nhà thơ Du Tử Lê giới thiệu về tác phẩm “Những cơn mưa mùa Đông” của tác giả Lữ Quỳnh do nxb Thư Ấn Quán ở Mỹ xuất bản, thời gian này tôi đang tìm hiểu dòng văn chương Miền Nam nên liên hệ, ngay lập tức nhà văn Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh trả lời, tôi biết họ từ ngày ấy.

Bắt đầu từ đó, tôi tìm đọc dòng văn chương Miền Nam Việt Nam do nxb Thư Ấn Quán phát hành, vì ngày xưa trước năm 1975 tôi còn quá nhỏ chưa hiểu biết gì, tôi sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn, thuộc Miền Nam Việt Nam vì vậy tôi không muốn văn chương Miền Nam bị thất lạc và bôi xoá, tôi cần phải tìm hiểu và phổ biến lại cho thế hệ trẻ ở trong nước biết.


Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2021

Đỗ Trường: Vua Là Phật - Phật Là Vua: Một tác Phẩm mang Giá Trị Lịch Sử Và Hiện Thực Của Hòa Thượng Thích Như Điển


Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của tác giả.

Vẫn nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, mở rộng, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi phân tích, hay dẫn chứng như tiểu thuyết Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa trước đây, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua đưa người đọc đến với (một giai đoạn) lịch sử một cách chân thực nhất của nhà văn Thích Như Điển. Và, Vua Là Phật - Phật Là Vua như một sự tiếp nối những vấn đề mà tiểu thuyết Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa trước đó chưa được phân tích, làm sáng tỏ thật đầy đủ chuyển tải đến người đọc vậy. Từ chính những quan điểm, tư tưởng hiện sinh, tính hiện thực: “Tâm mới là chủ động, còn thân là bị động. Thân chỉ làm theo mệnh lệnh của tâm, chứ tâm không làm theo mệnh lệnh của thân. Do vậy, nếu tâm biết ngăn dừng thì mọi việc sẽ yên lặng… Họ đang ở trên ngai vàng, nhưng không đắm trước mùi tục lụy, như vua Trần Thái Tông hay Nhân Tông sau này thì chính họ là những vị Phật. Vậy Vua là Phật, Phật là Vua, cũng từ quan điểm này mà ra vậy.“ (Sách đã dẫn) là cơ sở để nhà văn Thích Như Điển viết nên tác phẩm này.

* Tư tưởng Phật giáo linh hồn của một vương triều.


Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2018

Đỗ Trường: NGUYỄN NHO SA MẠC - MỘT NGÔI SAO XẸT QUA BẦU TRỜI THI CA

 (Viết nhân ngày mất thứ 54 của nhà thơ)

Nguyễn Nho Sa Mạc

Có thể nói, chưa khi nào dòng sông Thu (Bồn) đã vật mình sinh cho xứ Quảng nhiều thi nhân, văn sĩ như những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi. Nhưng khi nhà thơ trẻ Phạm Hầu đột ngột rời bỏ cõi tạm, với thời gian hai mươi năm dài đằng đẵng ấy, tưởng chừng nỗi đau đã được khép lại. Thế rồi, ngôi sao Mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, thì dòng sông Thu như một dải khăn trắng vấn lên vòm trời thi ca xứ Quảng.

Tuy không bộc lộ cái thiên tài như Điêu Tàn của chàng thiếu niên Chế Lan Viên, hay hồn nhiên, trong trẻo như Nghẹn Ngào ở tuổi mười bảy của Tế Hanh, nhưng cùng với thi tập Vàng Lạnh, người học trò trung học Nguyễn Nho Sa Mạc đã gây sửng sốt cho người đọc. Bởi, hai mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời, và chỉ vỏn vẹn hai mươi bốn bài thơ, nhưng Nguyễn Nho Sa Mạc để lại dấu ấn thật rõ ràng. Thơ Nguyễn Nho Sa Mạc già dặn, có thể nói, chín sớm, vượt rất xa cái tuổi học trò của mình. Tình yêu và khát vọng, gắn liền với nỗi đau của đất nước, thân phận con người là tư tưởng, bộc lộ rõ nét trong thơ ông. Có thể nói, Nguyễn Nho Sa Mạc là hiện tượng đặc biệt trong văn học sử Việt Nam.

Nguyễn Nho Sa Mạc tên thật là Nguyễn Nho Bửu, sinh năm 1944 trong một gia đình có truyền thống hiếu học và yêu văn học, nghệ thuật ở Điện Bàn, Quảng Nam. Nơi đây là một trong những chiếc nôi của văn học Việt Nam. Cùng với bài thơ Vàng Lạnh, năm 1962, (dưới cái tên Nguyễn Thị Liên Phượng) trên tạp chí Mai, Nguyễn Nho Sa Mạc đĩnh đạc bước thẳng vào làng văn. Trong lúc văn học miền Nam đang loay hoay tìm tòi, đổi mới thi pháp sáng tác, thì Vàng Lạnh như một luồng gió lạ, thổi vào tâm hồn người đọc.

Năm 1964 đang học năm cuối trung học, Nguyễn Nho Sa Mạc đột ngột qua đời tại Đà Nẵng, ở cái tuổi hai mươi. Ông mất đi, không chỉ để lại nỗi đau cho gia đình, bạn bè, mà còn là sự mất mát của văn học miền Nam, cũng như sự tiếc nuối của người đọc.