Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Hồng Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Hồng Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2021
Đỗ Hồng Ngọc: Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên” (Tiểu thuyết Milan Kundera, Trịnh Y Thư dịch)
Đó là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. (Kundera)
Je pense donc je suis… (Descartes).
Mà vì hình như, suy nghĩ một mình không thể tìm ra bản ngã, tác giả phải tạo ra nhiều mình khác qua nhân vật, gọi là tiểu thuyết để cùng đi tìm: tìm trong cái phông nền lịch sử, trong tình dục, trong tình yêu, hạnh phúc, đớn đau…
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self).
Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Diễn viên, kịch sĩ cũng sắm nhiều “bản ngã” cho mình, như lúc sắm vai vua, lúc sắm vai ăn mày… nếu “thức tỉnh” cũng dễ vượt thoát. Nhà viết tiểu thuyết còn có ưu thế hơn: tiểu thuyết nói được những điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói được (Kundera). Hài hước, châm biếm, ẩn dụ, châm ngôn, giả định, khoa đại, bông lơn, gây hấn, huyễn hoặc,… và dĩ nhiên cũng không tách khỏi cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” dù giãy nảy: Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia (Kundera). Cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” đó dù làm người ta nôn ói, người ta bị điều khiển ngay cả cách làm tình thì cũng đã tạo cái cớ cho tiểu thuyết gia vung chiêu. Dĩ nhiên lịch sử chỉ là… những lời nói dối (thơ ĐN).
Chỉ có một cách thoát, như Vạn Hạnh thiền sư dạy đệ tử hơn ngàn năm trước:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vạn Hạnh thiền sư)
Thứ Tư, 8 tháng 4, 2020
Đỗ Hồng Ngọc: Về “Độc cư, Thiền định, Kham nhẫn, Tri túc” trong mùa “Cô-Vi 19”
Cảm ơn bạn đã hỏi thêm câu mình nói hôm trước: Thời buổi “Cô-Vi 19” hoành hành khắp thế giới này, thì với những người đã có “tuổi hơi cứng” như tụi mình nên thực hành các hạnh Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc mà Phật đã dạy từ hơn hai ngàn sáu trăm năm trước để có một nếp sống An Lạc và Hạnh Phúc. Thực ra không chỉ với bọn mình mà cả những người bạn trẻ cũng nên học để có một cuốc sống an vui, mạnh khỏe, không mắc phải những thứ bệnh “thời đại” là những bệnh như S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: Trầm cảm), hay “3 cao 1 thấp” (3 cao là Cao đường, Cao mỡ, Cao máu và 1 thấp là… Thấp khớp) cùng rất nhiều các thứ bệnh khác do hành vi lối sống gây ra…
Độc Cư
là “Ở một mình” “sống một mình”. Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone, nhớ không?). Mọi người nên Stayhome trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi cần thiết, và phải luôn đeo khẩu trang để tránh lây bệnh cho người khác và cũng để nhắc nhở mình đang mùa có dịch. Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.
Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình” nhớ không? Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. Họ an nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).
Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” bởi trong lòng còn mang mang : quân tử trả thù mười năm chưa muộn… nhớ không?
Thiền định
một người bạn phương xa vừa gởi mình tấm hình này, rất dễ thương. Tự nó đã nói lên nhiều điều. Xin được chia sẻ:
![]() |
Internet |
Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019
Đỗ Hồng Ngọc: “Để Làm Gì?”
André Maurois trong cuốn “Nghệ thuật già” (L’art de vieillir) có nói rằng khi nào trong đầu mình nảy ra cái ý “Để làm gì?” thì lúc đó mình đã già thiệt rồi!
Tôi vừa mới nói “già thiệt” phải không? Ấy, bởi vì lâu nay mình vẫn biết là đã già, đang già tốc hành, già khú đế mà vẫn cứ nghĩ là mình đang “già giả” thôi! Mà không phải mình tôi nghĩ đâu nha. Ông họa sĩ “trời ơi” là Picasso có cái hình này bạn coi nè.
Ông vẽ cái “già” chẳng qua chỉ là cái mặt nạ thôi, đeo chơi vậy, trong khi trong ta là một cậu thanh niên trai trẻ, tươi non, hừng hực lửa yêu thương đó thôi. Tôi vừa gọi Picasso là ông họa sĩ “trời ơi” phải không? Là bởi vì theo tôi, trường phái “trườu tượng” của ông thực ra chỉ vì ông có quá nhiều người yêu, vẽ mà như thực chắc chịu hổng nổi với mấy bà, bèn vẽ bà này cái mũi, bà kia cái mắt, bà nọ cái môi… rồi chồng chéo lên nhau thế là ổn cả, mặc cho các nhà phê bình nghệ thuật diễn giải, ổng chỉ cười tủm tỉm một mình thôi!
Tôi bây giờ cứ định làm gì đó thì bỗng nảy ra ý: Để làm gì? Chẳng hạn gặp một chuyện gì đó vui vui, hay hay, xưa thì đã “thư gởi bạn xa xôi” kể cho bạn nghe, hoặc cũng “Ghi chép lang thang” chút gì đó, nhưng nay “Để làm gì?”. Ngay cả những vấn đề cần tranh luận, cần giải thích, cần đưa quan điểm chung riêng gì đó, nhưng rồi cũng… “để làm gì?”. Vậy đó.
Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015
Đỗ Hồng Ngọc - “Một cốt cách ở đời”
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến,
NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối
Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẽ sợi tóc làm tư, lặn lội
vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng hiện ra trước
mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ đặt ở
trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây…
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội… (Trịnh Công Sơn).
Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều
người tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy. Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều
đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ của trần gian nữa. Dù có khi
anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015
Đỗ Hồng Ngọc - THỞ và THIỀN
Tôi đến với Thiền
rất trễ. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc thiền, biết
thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh…
nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó
huyền bí xa vời, có phần như mê tín dị đoan nên chỉ “kính nhi viễn chi”. Tôi là
một bác sĩ, hơn 12 năm làm ở Cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng Saigon, rồi hơn 20 năm
phụ trách Trung tâm truyền thông và Giáo dục sức khỏe, thực hiện các chương
trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care), tham gia giảng dạy ở đại
học Y, viết sách báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa
tôi đi bệnh viện để mổ sọ não cấp cứu vì tai biến mạch máu não. Từ lúc lơ mơ
đến lúc tỉnh dậy ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu
kỳ thú! Khi bước đi được trên nền đất những bước đầu tiên lẩm đẩm như một em
bé, tôi thấy quả là một phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc
mà thấy tức cười. Bạn bè trong ngành ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi
chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc mà phải
thay đổi cách sống, cách nghĩ, cách làm. Phải tìm một con đường khác thôi. Rồi
tình cờ tôi đọc lại Tâm Kinh “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa
thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết
khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ lạ lùng với tôi. Phải
rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Tôi vừa tìm
hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để
tìm kiếm con đường mới mẻ này. Thì ra đã sẵn có một con đường mà bấy lâu tôi
mãi xa lạ. “Đây là con đường
độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí, chứng đắc Niết Bàn…” (Satipatthana, Tứ Niệm Xứ). Con đường độc nhất ư? Có thể dẫn tới thanh tịnh ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống trong một
thời đại đầy “điên đảo mộng tưởng”. Có thể diệt trừ khổ ưu ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống một nếp sống
đầy khổ đau và phiền muộn. Rồi còn thành tựu chánh trí nữa ư?... Thì ra cái “trí” của ta bấy lâu chỉ là cái trí tích cóp, cái
“thức” của ta bấy lâu chỉ là cái thức phân biệt, thị phi…
Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015
Đỗ Hồng Ngọc - Thăm nhà văn Trang Thế Hy
![]() |
Từ trái: Nguyên Tùng, Đỗ Hồng Ngọc, Trang Thế Hy |
Tôi vốn không ưa thuốc
lá, không ưa cả người hút thuốc lá. Cũng bởi mình là thầy thuốc, lại làm việc
trong Chương trình phòng chống tác hại thuốc lá. Nhưng lần này tôi bỗng thấy mê
một người hút thuốc lá. Mê thiệt. Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một
bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một
bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến. Một người gần 90 tuổi, ghiền thuốc lá từ
ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa
lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa…
có cái gì đó như một nghi lễ tôn giáo, khiến tôi chỉ biết ngồi im, lặng ngắm,
không dám hó hé. Tôi biết thứ thuốc lá ông hút chẳng phải nhẹ nhàng gì, nhưng
người ta đặt tên dịu dàng với bao bì thanh mảnh dễ thương chẳng qua để người
hút tưởng nó nhẹ, nó không nhiều chất độc vậy thôi. Người đàn ông đó, người đàn
ông hút thuốc lá mê hoặc được tôi đó chính là nhà văn Trang Thế Hy, buổi trưa nắng
gắt ngày 10/11/2009 tại nhà riêng của ông ở dưới chân cầu Rạch Miễu, Bến Tre mà
tôi có dịp lần đầu đến thăm sau nhiều lần dự định mà không thành.
Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013
Đỗ Hồng Ngọc - Những “hạt mầm” đã vươn lên!
Đỗ Hồng Ngọc
Bài viết “Đi tìm mộ ông Nguyễn Hiến Lê” của Trần Thị Trung Thu in từ năm 2009 trên Nguyệt san báo Pháp luật gần đây được các cư dân mạng dẫn lại và nhận được nhiều sự quan tâm của giới trí thức cũng như cộng đồng mạng yêu kính Nguyễn Hiến Lê.
Tôi nhận được email cùng lúc của Bùi Văn Nam Sơn, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Duy Chính (Mỹ)… và nhiều bạn bè khác hỏi thăm thêm một số chi tiết, và nhất là về chuyện tôi kể trên một trang mạng gần đây rằng có một số bạn trẻ ở miền Bắc đi xe máy 2200 km vào tận Lấp Vò, Đồng Tháp thăm mộ Nguyễn Hiến Lê.
Năm 1984 khi cụ Lê mất thì tro cốt được cụ bà Nguyễn Thị Liệp đưa về Long Xuyên, để trong một ngôi tháp mộ nhỏ, khiêm cung, đặt ngay trong sân nhà ở 92 đường Tôn Đức Thắng. Sau đó, bà dời tháp mộ về chùa Phước Ân ở ngả tư Cái Bường, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Nếu đi từ Long Xuyên về Saigon, qua bắc Vàm Cống một quãng thì tới ngả tư Cái Bường, quẹo phải chừng cây số sẽ đến chùa. Lâu nay cũng có nhiều đoàn ghé thăm thắp nén nhang cho cụ Lê.
Năm 2003, trong cuốn NGUYỄN HIẾN LÊ, Con người & Tác phẩm (NXB TRẺ) của nhiều tác giả: Trần Huiền Ân, Trần Văn Chánh, Lê Phương Chi, Nguyễn Duy Chính, Lê Anh Dũng, Nguyễn Hướng Dương, Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Minh Đức, Dương Hội, Xuân Huy, Nguiễn Ngu Í, Trần Khuyết Nghi, Đỗ Hồng Ngọc, Văn Phố, Minh Quân, Quách Tấn, Lê Ký Thương, Nguyễn Hoàng Xanh cũng đã cung cấp nhiều hình ảnh về ngôi nhà, căn phòng, nơi làm việc… rất giản dị của Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên và cả hình ảnh địa chỉ ngôi tháp mộ của Nguyễn Hiến Lê ở chùa Phước Ân (ảnh của Nghê Dũ Lan). Nếu tác giả Trần Thị Trung Thu được đọc cuốn này sớm thì không phải vất vả đến thế.
Ở Úc, có một cuốn sách viết về Nguyễn Hiến Lê do những học trò của ông biên soạn, đặc biệt kể về những ngày ông nằm bệnh và qua đời tại Bệnh viện An Bình.
Cũng đã có những nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê như luận văn thạc sĩ về “Vấn đề lao động nhà văn trong các trước tác của Nguyễn Hiến Lê” của Nguyễn Ngọc Điệp, bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM 12 năm trước đây do TS Huỳnh Như Phương hướng dẫn và gần đây Huỳnh Như Phương cũng đang hướng dẫn một luận văn khác “Sự nghiệp nghiên cứu văn hóa, văn học của Nguyễn Hiến Lê” cho một nhà báo ở Cần Thơ.
Và thật thú vị, ảnh hưởng Nguyễn Hiến Lê ngày càng thấm sâu trên đất Bắc. Ngày 10.7. 2012, tôi nhận được email của một bạn trẻ không quen biết từ Hà Nội, Trần Văn Thuấn, 28 tuổi, cho biết về chuyến “Hành trình Xuyên Việt vượt 2200km bằng xe máy tri ân thầy Nguyễn Hiến Lê”. Trong thư Thuấn cho biết nhóm của em hiện có Nguyễn Trung và Nguyễn Tiến đang đi xuyên Việt bằng xe máy, vượt hành trình dài 2200km từ Hà Nội vào thẳng chùa Phước Ân tại Lấp Vò, Đồng Tháp “để thắp hương tri ân tới thầy Nguyễn Hiến Lê”. Em viết: “sách của thầy viết giản dị, chân thành, là thầy mà cũng như là bạn, chúng con rất vui là đã lan tỏa được sách của thầy tới anh em thanh niên, vì trước đây sách của thầy ngoài Bắc cũng hiếm ạ”. Em cho biết các em Trung và Tiến rất mong gặp tôi để được “ hiểu thêm về cuộc sống của thầy Lê qua những trải nghiệm thực tế của bác với thầy, bác thật may mắn!” Trong thư, em gởi kèm một số hình ảnh của nhóm vừa đến Ninh Bình, Thnah Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình…. "Chuyến đi sẽ vất vả lắm, nhưng anh em chúng con rất vui vì luôn tâm nguyện rằng thầy Lê sẽ che chở cho chúng con [...]".
Tôi vừa cảm kích, vừa băn khoăn. Cảm kích vì tấm lòng của các bạn trẻ từ phương Bắc như đã vừa phát hiện ra một Nguyễn Hiến Lê tận phương Nam xa xôi, còn ngại ngần vì thấy hình ảnh các em mặc áo phông in hình cụ Lê, mang cờ có ảnh NHL và câu chữ “Học làm người với Nguyễn Hiến Lê”… Vì thế, tôi đã trả lời: rất cảm kích, nhưng các cháu nên nhớ cụ Lê là một người rất khiêm cung, không thích sự ồn ào, vì thế các cháu nên học với cụ tinh thần tự học và giữ sự tĩnh lặng, không khoa trương. Bác thấy(…) đó không phải là tính cách của Cụ Lê (...)
Rồi tôi giới thiệu các em liên hệ với Phùng Hoàng Anh, giáo viên, cháu gọi em ruột cụ Lê bằng Bà nội, đã từng vào Nam nhiều lần thăm nhà và tháp mộ cụ Lê ở Đồng Tháp để biết đường đi nước bước. Phùng Hoàng Anh hiện đang sống ở Phương Khê, xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Hà Nội, nơi có nhà thờ họ và đã lập được một thư viện với hàng ngàn cuốn sách của Nguyễn Hiến Lê.
Thuấn có vẻ không vui. Em trả lời: “…thực ra đối với thanh niên ở ngoài Bắc có thiệt thòi hơn trong Nam nhiều, là ít được tiếp xúc với sách của cụ Lê(…), chúng con cũng phải dằn vặt mãi, mới quyết định làm, cũng xuất phát từ sự chân thành mong muốn tri thức Nguyễn Hiến Lê đến gần hơn, giúp đỡ cho thanh niên được nhiều hơn (…); nếu vì tri thức của cụ mà được mang lên tận các tỉnh miền núi như Lào Cai, Tuyên Quang, Sơn La, Thái Nguyên....giúp ích cho thanh niên ở đó, thì chúng con xin phép vẫn tiếp tục ạ." [...]
Phùng Hoàng Anh cho tôi biết sau chuyến đi từ Bắc vào Nam thăm mộ cụ Lê, các em Tiến và Trung đã có đến gặp, cà phê cà pháo với nhau một buổi, kể về chuyến đi rất thành công của các em. Tôi cũng vui vì đã “ráp” được các bạn trẻ đó với nhau. Sau này, Tiến gởi tôi email nói em rất hiểu tôi, và sẽ nhớ lời tôi dặn về tính cách Nguyễn Hiến Lê.
Hiện cụ Lê còn có cô cháu gọi bằng bác ruột là Nguyễn Thị Hạnh đang sống ở Cần Thơ. Ngôi nhà 92 Tôn Đức Thắng, Long Xuyên phía trong vẫn là trường Mẫu giáo, bên ngoài rào cho thuê làm một quán cà phê.
Trọn đời Nguyễn Hiến Lê đã chọn con đường “văn hóa”, và nay những “hạt mầm” đã vươn lên.
Đỗ Hồng Ngọc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)