Hiển thị các bài đăng có nhãn Đào Trung Đạo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đào Trung Đạo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2023

Đào Trung Đạo: Đọc tiểu thuyết Đổi Vai của Kenzaburo Oë (1935-2023)

Hình bìa cuốn The Changeling 
của Kenzaburo Oë
The Changeling/Đổi Vai xuất bản năm 2000 của Kenzaburo Oë là một tiểu thuyết mang nhiều dấu ấn tự truyện kể lại mối liên hệ giữa một nhà văn về già với một đạo diễn điện ảnh tự sát như một cái cớ để bàn về những chủ đề như mối liên hệ giữa văn chương và đời sống hoặc chủ đích của việc viết văn. Kenzaburo Oë, nhà văn Nhật được trao giải Nobel Văn Chương năm 1994 là một tác giả hàng đầu của văn chương Nhật kể từ cuối thập niên 60s. Trong diễn văn trao giải của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, ông được đánh giá là nhà văn “đã sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng trong đó đời sống và huyền thoại kết tinh đậm đặc với nhau tạo nên một bức tranh đầy kinh ngạc về hoàn cảnh khắc nghiệt của con người hôm nay.” Vì trong tiểu thuyết của Kenzaburo Oë luôn ẩn hiện những nét đời tư của tác giả cho nên muốn thấu hiểu văn chương của ông, ta không thể bỏ qua những chi tiết trong tiểu sử của nhà văn này.


Thứ Ba, 14 tháng 3, 2023

Đào Trung Đạo: Đọc Nhất Cá Nhân Đích Thánh Kinh của Cao Hành Kiện

Hình bìa cuốn sách
"Nhất Cá Nhân Đích Thánh Kinh",
tên tiếng Anh: 
One Man's Bible

Cao Hành Kiện cho xuất bản Nhất Cá Nhân Đích Thánh Kinh, truyện dài thứ nhì sau Linh Sơn (1989) ở Đài Bắc năm 1999, một năm trước khi được trao tặng giải thưởng Văn Chương Nobel. Bản dịch tiếng Pháp do Noel & Liliane Dutrait được Editions de l’Aube xuất bản năm 2000 và bản tiếng Anh do Mabel Lee dịch và được Harper Collins xuất bản năm 2002. Cả hai bản Pháp ngữ với cái tựa Le Livre d’un home tout seul và bản Anh ngữ tựa đề One Man’s Bible có lẽ vì nhu cầu thị trường cần một cái tựa sách bắt mắt quần chúng độc giả hơn nên đều không dịch sát nghĩa tựa đề nguyên bản Nhất Cá Nhân Đích (cái bản ngã đích thực của một người) bao hàm chủ ý của tác giả khi viết cuốn tiểu thuyết này.  Chuyển tựa sách này sang tiếng Việt nghe sao vừa thuận tai vừa văn vẻ thực là khó: chúng tôi đề nghị hãy tạm đặt tên cho cuốn sách này là Tôi Thực Là Tôi. Tuy nhiên với những độc giả Việt đã làm quen với danh từ Hán Việt thì tựa đề nguyên bản cũng không khó hiểu gì mấy.


Thứ Ba, 7 tháng 2, 2023

Đào Trung Đạo: Đọc Underworld (Thế giới ngầm) của Don DeLillo

Don DeLillos thuộc vào những tên tuổi lớn của tiểu thuyết Mỹ nửa sau thế kỷ 20 như Thomas Pynchon, William Gaddis, Tony Morrison…Vào tháng 5 năm 2006, tạp chí The New York Times Book Review trong cuộc bầu chọn quyển tiểu thuyết hay nhất trong vòng 25 năm trở lại đây thì Underworld/Thế Giới Ngầm của Don DeLillo được chọn là tác phẩm chỉ đứng sau quyển Beloved của nhà văn nữ da đen Toni Morrison, người được trao giải Nobel Văn Chương năm 1993.

Trong số hàng chục tiểu thuyết của Don DeLillo, quyển Underworld được coi là tác phẩm quan trọng nhất. Đây là một quyển sách khá đồ sộ, trên 800 trang, mô tả những biến cố ở Mỹ trải dài gần nửa thế kỷ suốt trong thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Theo tác giả cho biết tựa đề quyển sách Underworld/Thế Giới Ngầm đến với ông khi ông nghĩ về những chất thải phóng xạ được đem chôn sâu dưới đất và về thần chết Pluto.


Thứ Ba, 17 tháng 1, 2023

Đào Trung Đạo: Đọc The Boat của Nam Lê

Nam Lê tên thực là Lê Hữu Phúc Nam, một nhà văn Việt Nam trẻ tuổi. Con Thuyền của Nam Lê do nhà xuất bản Knof ở Mỹ ấn hành đã được giới điểm sách đón nhận nồng nhiệt. Tiêu biểu là người điểm sách nổi tiếng “khó tính” của tờ The New York Times là Michiko Kakutani cũng đã có một bài giới thiệu sách đầy thiện cảm. 

Lê Nam sinh năm 1979, cùng gia đình vượt biển tỵ nạn năm anh mới 3 tháng tuổi. Cha anh, một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, sau khi ở tù cải tạo đã đem gia đình vượt biển đến Pulau Bidong, Malaysia và sau đó gia đình anh được định cư ở Melbourne, Úc Châu. Nam Lê tốt nghiệp luật sư, đi làm một thời gian nhưng sau đó bỏ nghề luật, sang Mỹ theo học lớp viết văn nổi tiếng Iowa Writer’s Workshop, tốt nghiệp và được học bổng Grace Paley Endowed Fellowship để hoàn tất việc học tại Trung Tâm Nghệ Thuật ở Provinetown, bang Massachusetts và tại Phillips Exeter Academy ở New Hampshire. Anh có truyện ngắn đăng trên những tạp chí văn chương thế giá như Conjunctions, Zoetrope, A Public Space, One Story, Best New American Voices, Best Australian Stories, Tuyển Tập Pushcart…và được trao những giải văn chương như giải Pushcart Award, Michener-Corpernicus Society Award. Nam Lê từng là chủ biên mảng tiểu thuyết của Harvard Review. 


Thứ Ba, 10 tháng 1, 2023

Nell Freudenberger: Thư viết từ pháo đài cuối cùng (Letter from the Last Bastion, Phần 3, Đào Trung Đạo dịch)

Nhà văn Nell Freudenberger.
Hình Wikipedia

Nell Freudenberger sinh năm 1975 ở New York City, tốt nghiệp Harvard, từ 2000 đã có bài đăng trên các tạp chí Granta, Paris Review, Harper…Đã xuất bản Lucky Girls (tập truyện ngắn 2003) những truyện dài The Dissident (2006), The newly weds (2012) và Lost and Wanted (2019)

Lẽ ra hai người phải đắn đo suy nghĩ. Cũng giống như việc vị giảng viên có thể sẽ bảo học sinh của mình trong lớp Vệ Sinh rằng: trong cái hừng khí của khoảnh khắc, có lẽ anh/chị sẽ quên khuấy đi mất. Laura chẳng chần chờ cùng với Henry dọn nhà về New York City. Trong căn chung cư đường số 103, hai người bắt đầu ăn chay và ngủ trên sàn. Laura kiếm được một công việc làm nhân viên lễ tân ở Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật Trung Ương, nơi cô có thể gần gũi tranh của Klee.  Vào bữa trưa cô ta có thể đem bọc đồ ăn chay ra ngồi trên bậc thềm ăn với những cô gái khác, ở đó họ có thể ngồi ăn, hút thuốc và chọc phá những du khách đang mua hot dogs và chụp hình kỷ niệm, tóc tai các du khách cứ dựng đứng lên trong gió trông như những cái cánh chim nhỏ.


Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2023

Nell Freudenberger: Thư viết từ pháo đài cuối cùng (Letter from the Last Bastion), (Phần 2, Đào Trung Đạo dịch)

Nhà văn Nell Freudenberger
hình Wikipedia

Nell Freudenberger sinh năm 1975 ở New York City, tốt nghiệp Harvard, từ 2000 đã có bài đăng trên các tạp chí Granta, Paris Review, Harper…Đã xuất bản Lucky Girls (tập truyện ngắn 2003) những truyện dài The Dissident (2006), The newly weds (2012) và Lost and Wanted (2019)


Dĩ nhiên bất kỳ ai đã đọc quyển Binh Nhì Johnson đều biết rõ Henry đang làm gì – ngồi trong một văn phòng viết những bản tường trình để chuyển đến nhân viên các hãng thông tấn tại JUSPAO mỗi buổi chiều. Anh ta đã hoa hòe hoa sói đánh bóng chuyến công tác của anh với Laura (anh ta đã viết là anh ta không thể nói cho cô biết về cái phần hấp dẫn của công việc của anh, vì phần này có liên quan tới “tình báo”). Thực ra, về tình báo, việc Henry hàng ngày đều đặn phải làm đối với cơ quan MACV chỉ là đến đó để lấy cái mẫu đơn đặc biệt cần thiết để khai việc trưng thu những cuộc băng máy chữ cũ kỹ trong văn phòng anh ta. Trong những giờ muốn làm gì thì làm đó, anh ta có thể lang thang trong những khu phố ngoằn ngoèo và các chợ búa, trong đầu tưởng tượng ra cảnh Laura khỏa thân, mãn nguyện và tươi mát giữa làn gió hây hây ban đêm của xứ Bolovia.  Còn anh ta thì lại đang ở Việt Nam, với một dụng cụ cũ mòn và không một chút kinh nghiệm về chiến tranh ngoài cái thứ thống kê được chuyển đến cho một anh chàng trung úy sĩ quan thông tin mới được gắn lon.  Theo vị sĩ quan chỉ huy của anh, công việc của anh là phải làm sao cho những bản báo cáo “rõ ràng, hợp lý, và chó-đẻ-hồ-hởi.” Nếu như bị cưỡng bách nói sự thực thì hẳn Henry sẽ nói đó là một việc làm trọng đại.

 


Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

Nell Freudenberger: Thư viết từ pháo đài cuối cùng (Letter from the Last Bastion) (Phần 1, Đào Trung Đạo dịch)


Nhà văn Nell Freudenberger
Nell Freudenberger sinh năm 1975 ở New York City, tốt nghiệp Harvard, từ 2000 đã có bài đăng trên các tạp chí Granta, Paris Review, Harper…Đã xuất bản Lucky Girls (tập truyện ngắn 2003) những truyện dài The Dissident (2006), The newly weds (2012) và Lost and Wanted (2019)

Thưa Quí Ông hoặc Quí Bà:

 

Tôi viết bức thư này để cho quí vị biết một vài điều quí vị có thể không biết về Nhà văn-Thỉnh cư (Writer-in-Residence) Henry Marks. Có thể quí vị đã biết đôi chút. Nếu như quí vị đã đọc quyển Binh Nhì George Johnson, quyển tiểu thuyết đầu tay của ông ấy, quí vi được biết Henry đã hoàn tất nhiệm vụ quân dịch ở Vịệt Nam vào tháng 11 năm 68.  Và nếu quí vị đã đọc quyển Người Quan Sát Chim (tôi đoán chừng ai mà chẳng đã đọc quyển này), quí vị cũng biết chuyện gì đã xảy đến với ông ấy vào giai đoạn cuối nhiệm vụ đó. Quí vị cũng có thể tìm biết thông tin này một cách dễ ợt từ quyển Tuyển Tập Khảo Luận, đặc biệt là trong bài “Theo Bén Gót Người Quan Sát Chim,” suy tư của ông ta về viết văn, phạm tội, và về chiến tranh, xuất bản năm 1990, cái năm đánh dấu Henry phục hồi sau một giai đoạn ngắn tơi tả vì vụ quyển Tai Nạn in năm 88.  Các nhà phê bình qui sự thất bại của Tai Nạn vào sự ẩu tả; họ nói rằng Henry đã trở thành mất tự chủ vì sự thành công của mình.


Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2022

Linda Lê: Tôi còn nhớ (Je me souviens) (Đào Trung Đạo chuyển ngữ)

http://terresdefemmes.blogs.com/photos/uncategorized/linda_l_1.jpg

Linda Lê sinh năm 1963 tại Dalat, Việt Nam, cha gốc Việt, mẹ gốc Pháp,14 tuổi cùng mẹ và chị em "hồi hương" qua Pháp (cha ở lại Việt Nam), năm 1981 học tại Lycée Henry IV để chuẩn bị thi vào École Normale Supérieure nhưng không đậu nên vào học Sorbonne. Tiểu thuyết đầu tay xuất bản năm 1984. Đã xuất bản trên hai muơi tiểu thuyết và khảo luận: Autres jeux avec le feu, Les aubes, Calomnies, Lettre morte, Les trois Parques, Voix, Personne, Lame de fond... (đều do Christian Bourgois xuất bản), Tu écriras sur le bonheur (Presses Universitaires de France P.U.F. xb), Les évangiles du crime (Julliard xb), Marina Tsvetaieva, Comment ça va la vie? (Jean-Michel Place, col. Poésie xb.) Một vài tác phẩm của Linda Lê đã được dịch sang tiếng Việt như: Tiếng Nói (VOIX Nguyễn Đăng Thường dịch, nxb Văn – USA,) Vu Khống (CALOMNIES Nguyễn Khánh Long dịch, nxb Nhã Nam – VN) và Lại Chơi Với Lửa (AUTRES JEUX AVEC LE FEU Nguyễn Khánh Long dịch dở dang Ba Nữ Thần Số Mệnh (LES TROIS PARQUES), Thư Chết (LETTRE MORTE do Bùi Thu Thủy dịch), Sóng Ngầm (LAME DE FOND do Hà Thanh Vân và Bùi Thu Thủy dịch, nxb Nhã Nam – VN), À l’enfant que je n’aurai pas, In memoriam, Au fond de l’inconnu pour trouver du nouveau…

****

Tôi còn nhớ ngày tôi đến nước Pháp. Tôi đã không được thấy Paris nhưng lại là Sarcelles, vùng ngoại ô ủ rũ trông giống như một người đàn bà chưa tỉnh rượu hẳn. Tại nơi tiếp đón, người ta cho chúng tôi ăn sáng bằng trái lê. Cái vị đầu tiên tôi biết về nước Pháp là vị trái lê của vùng Sarcelles.

   


Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2022

Đào Trung Đạo: Đọc La Place của Annie Ernaux

Annie Arnaux cấu trúc La Place/Vị thế, Chỗ đứng bằng những đoạn văn rời thường không dài quá ba trang, ngoại trừ hai đoạn khá dài nói về lịch sử gia đình (trang 24-30), và đoạn rời gần cuối truyện hồi ức về thời gian cha bệnh rồi từ trần (trang 103-110). Tác giả cố tình xếp đặt những đoạn rời không theo thứ tự thời gian liên tục, mục đích cho người đọc biết La Place không phải là hồi ký hay tự truyện. Annie Ernaux đề từ quyển sách bằng câu văn của Jean Genet “Tôi mạo muội đưa ra một lời giải thích: viết chính là phương cách cuối cùng khi người ta đã phản bội.”[1]

Ảnh chụp màn hình Gallimard


Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Đào Trung Đạo - bài ai điệu cho thanh tâm tuyền

Thanh Tâm Tuyền
Tôi rất ngần ngại viết ai điệu mỗi khi có một người bạn nằm xuống. Vì tôi sợ sẽ thất bại: hoặc mình không viết được hoặc cái mình viết ra cuối cùng không phải là một tặng phẩm mình muốn gửi/dành cho bạn. Ngoài ra cũng có thể thất bại vì không tránh được những hiểm nguy rất đời thường: cường điệu về một cái gì tưởng như có trong quá khứ nhưng lại dường như hôm nay không còn là có thực (tình bạn, những kỷ niệm không cứ phải là bạn với nhau mới có. Tôi ngần ngại viết vì tôi đặt tiêu chí đạo đức là tiêu chí ưu tiên của ai điệu. Thất bại cũng có thể vì không tìm được đúng lời, đúng chữ cho cái chết độc nhất đó. Đã nhiều lần trang giấy trước mặt tôi chỉ được khởi đầu bằng hai chữ ai điệu và ngừng ở đấy. Ngừng bặt, lặng thinh, câm nín. Không có một cái tên tiếp theo sau. Mặt đất nghĩa trang chỉ có huyệt sâu nhưng không có mộ bia. Tôi biến mất trong khoảng trống. Trốn chạy, đầu hàng cái chết có phải, tôi tự hỏi? Trong tuyệt vọng, nhiều lần tôi đã định viết tiếp vào chỗ trống "cho Đào Trung Đạo” mà không sợ mình nói gở, nói dại. Vì như tôi hiểu, ngay khi có một cái tên, được người khác gọi tên, cái tên đó đánh dấu ngày một ngưòi bắt đầu một đời sống và đồng thời cũng để loại cái thân xác ấy khỏi đời sống. Nhưng thân xác dù có mất đi, cái tên lại vẫn còn đấy. Bạn đã chết, tôi có hét lớn tên bạn, bạn tôi cũng chẳng thể nghe. Nhưng tên bạn thì tôi chẳng thể quên. Vòng luẩn quẩn! Cái tên cũng là ký ức, được ghi lại nơi tha nhân. Nhưng tên cũng là dấu chỉ cái chết. Vậy nếu tôi có đặt tên mình sau hai chữ ai điệu trước khi mình chết đi cũng là đã qui phục luật lệ của ai điệu mà thôi : Nếu tôi không làm việc này hôm nay, mai mốt khi tôi chết đi, nếu quả thực tôi có những người bạn, thế nào bạn bè tôi cũng sẽ viết tên tôi sau hai chữ ai điệu. Vì ta không thể trực tiếp có kinh nghiệm về cái chết mà chỉ có nhận thức về cái chết qua cái chết của tha nhân cho nên ai điệu một người bạn cũng là một lần mình tìm cách tiếp cận cái chết. Cái thế giới riêng chỉ của mình và bạn đã chấm dứt, đã xụp đổ. Nhưng ai điệu cũng là một bản viết cho tương lai.

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Đào Trung Đạo - Đọc Dạ Tiệc Quỷ của VÕ THỊ HẢO

Nhà văn Ðào Trung Ðạo (Hình: Uyên Nguyên)
Trong bài BẠT cho quyển Chọn Lựa Cùng Nguyên Mẫu (2) tôi viết về Võ Thị Hảo tác giả truyện ngắn Dây Leo Trần Gian trong tuyển tập này: “Sự chết không biến đi sau khi chiến tranh chấm dứt trên một xứ sở tan hoang, rữa nát. Cả về vật chất lẫn tinh thần…Tư duy về tử sinh từ nay đặt cơ sở trên ý chí xác định bản thân [của người phụ nữ] chứ không là âm bản của ý chí quyền lực chủ trì của ý thức hệ. Tư duy ấy cuối cùng tạo nên sức mạnh nhấc bổng con người tung bay trong tình yêu người. Và diễn ngôn văn chương đích thực là diễn ngôn của nguyên ủy đời sống, có sức mạnh đảo nghịch và xóa bỏ những khẩu hiệu gào thét bạo động thù hận giết chóc đã diễn ra suốt trong một giai đoạn lịch sử tối thẳm kéo dài.” (3) Vào dịp Giáng Sinh 2006 nhân dịp gặp nhau ở Saigon Võ Thị Hảo cho tôi biết chị mới viết xong tiểu thuyết Dạ Tiệc Quỷ (DTQ). Tuy Võ Thị Hảo thừa hiểu rằng quyển truyện này khi nạp bản để được cấp giấy phép xuất bản phần chắc sẽ bị từ chối theo lệnh của Ban Tuyên giáo, nhưng chị vẫn đem tác phẩm đến một số những cơ sở xuất bản như một thách thức: Nếu cấm xuất bản quyển tiểu thuyết này thì hãy chính thức làm văn bản từ chối. Nhưng những nhân viên quản lý văn hóa phụ trách cấp giấy phép xuất bản sách chỉ biết cúi đầu im lặng. Cuối cùng Dạ Tiệc Quỷ của Võ Thị Hảo ra mắt độc giả do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương do nhà văn Uyên Thao chủ trương ở Virginia ấn hành. Không nhiều thì ít chắc chắn độc giả trong nước bằng nhiều cách sẽ đọc được và phổ biến quyển sách này. 

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

Đào Trung Đạo - Khả năng thành công/thất bại của ‘Vụ Xử’ Nhã Thuyên


Đào Trung Đạo

Tôi muốn mượn tựa đề truyện ‘Vụ Xử’ của Kafka để nói đến tính chất mông muội vây bủa quanh vụ truy sát Nhã Thuyên, một nữ giảng viên đại học và một cây viết trẻ có bản lãnh đang được giới trẻ quan tâm tới văn học nghệ thuật tìm đọc. Vụ việc đã xảy ra ngót nghét tháng nay, khởi đầu bùng lên với phát biểu báo động và chỉ điểm của Chu Giang Nguyễn văn Lưu vào ngày chót của hội nghị Lý luận Phê bình Toàn quốc do đảng tổ chức ở Tam Đảo. Với những người để ý theo dõi ‘hành tung’ của ‘vệ binh’ Chu Giang thì tuyên bố chỉ điểm này ở Tam Đảo không có gì lạ, hơn thế nữa: thôi đành chặc lưỡi ‘miễn bàn’. Vì Chu Giang cũng chính là ‘cây bút phê bình’ (sic) đã dai dẳng truy sát Nguyễn Huy Thiệp bằng những bài báo ‘luận chiến’ đăng trên Tuần báo Văn nghệ Tp HCM năm ngoái nhưng không đem lại kết quả nào. Tiếp theo Chu Giang, báo đảng xông lên với nào là Cẩm Khê trên tờ Nhân Dân, Tuyên Hóa trên tờ Quân Đội Nhân Dân, và mới đây nhất là ‘nhà phê bình’ Nguyễn Văn Dân trên VanVn.net. Về những tiếng nói phản biện chúng ta có bài ‘Cú giẫy cuối cùng của nền phê bình chính huấn’ của Phạm Thị Hoài trên mạng Pro/Contra, và mới nhất là bài ‘Phê bình kiểm dịch’ của Gs Trần Đình Sử. Qua bài viết của mình vị giáo sư này cho thấy ông có sự trong sáng trí thức (probité intellectuelle), tuy không trực tiếp đề cập tới án xử Nhã Thuyên nhưng trên một diện rộng gián tiếp báo động giới làm văn học nghệ thuật về sự trỗi dậy của những ‘phê bình gia kiểm dịch’ trong hiện tình văn học nghệ thuật hiện tại, và đồng thời cũng có ý đánh thức lương năng của những nhà phê bình kiểm dịch với giả thuyết họ còn lương năng.

Nhà văn Nhã Thuyên
Thông tin về hậu quả tức thời của án xử Nhã Thuyên đã được các trang mạng lề dân loan tải: Nhã Thuyên bị cho thôi việc ở Đại học Sư phạm Hà nội, PGS TS Nguyễn Thị Hòa Bình, người bảo trợ cho luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên sẽ ‘nghỉ hưu non’.

Nhưng vì câu hỏi của giới bình luận gần đây được nêu lên nhân vụ việc này là: ‘Phải chăng một vụ án dập khuôn Vụ án Nhân văn Giai phẩm (NVGP) một lần nữa lại tái diễn?’ nên chúng tôi thiết nghĩ để tìm được câu trả lời cho câu hỏi này trước hết chúng ta thử nêu câu hỏi: Trong tình thế hiện nay Tuyên giáo TW tính toán ra sao? Chúng tôi đặt câu hỏi này ra và thử đưa ra những dự đoán.

Ta hãy quay lại vụ án NVGP. Trước hết là điểm mặt những nhà phê bình kiểm dịch thời xảy ra vụ án này. Nhà văn Phạm Thi Hoài đã liệt kê khá đầy đủ:
Trong cuộc truy sát Nhân văn-Giai phẩm, ít ra chúng ta biết: Người “vạch trần bộ mặt thật” “trụy lạc phản động” của Trần Dần là nhạc sĩ Đỗ Nhuận; người hô hào cả nước “phải chặn lại không cho Trương Tửu được tự do truyền bá những tư tưởng phản động, những tác phong đồi bại” là nhà phê bình Hoài Thanh, cũng chính là người xác định tính chất “xuyên tạc”, “vu khống”, “phản động” của bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần; người tố giác cả một “hệ thống những sai lầm xấu xa”, những “dụng ý rất đen tối” của Tử Phác là nhạc sĩ Lương Ngọc Trác; người lột “cái mặt gian xảo” của Lê Đạt như “một kẻ ẩn núp, tàng hình, đã từng quay quắt được một thời gian, nhưng rốt cục cái bản chất phản lại giai cấp vô sản lòi ra mồn một” là nhà thơ Xuân Diệu, cũng chính là người phát hiện Văn Cao “gài mìn chống phá Đảng và nhân dân”; người quyết “vạch rõ tội lỗi của Phan Khôi đã bao nhiêu năm làm tay sai cho đế quốc, nịnh hót phong kiến, huyễn hoặc, lừa bịp, đầu độc nhân dân để kiếm bát cơm, manh áo”, “chống Đảng, chống cách mạng, phản nhân dân, phản Tổ quốc”, “từ bé đến già bóc lột của nông dân, ăn cướp của nhân dân” là nhà văn Nguyễn Công Hoan; người gọi tác phẩm của Trần Duy là cái thứ “văn nghệ vô nhân đạo của thần chết”, là “những thứ cỏ độc, mà chúng ta phải nhổ sạch, quét sạch, để vứt vào rác, hoặc làm một thứ phân bón cho những bông hoa chân chính trong vườn văn nghệ của ta” là nhà phê bình Vũ Đức Phúc…; chưa kể hàng trăm văn nghệ sĩ không kém danh tiếng khác – từ Thế Lữ, Bửu Tiến, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Đoàn Giỏi, Tú Mỡ, Đoàn Văn Cừ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tuân…, đến Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Đình Thi, Võ Huy Tâm, Đào Vũ, Bùi Huy Phồn… – hăng hái góp đinh cho những chiếc búa tạ nêu trên chốt quan tài những đồng nghiệp “nổi loạn” của họ. (Trích Pro/Contra).

Thôi thì đủ mặt ‘anh hào’ lưu xú danh hậu thế.

Câu hỏi: với ‘Vụ Xử’ Nhã Thuyên trong tình thế hiện nay liệu Tuyên huấn TW có khả năng huy động được con số đông đảo những tay phê bình kiểm dịch như thời trước không?

Dự đoán của chúng tôi là: Không. Củng cố cho dự đoán này là những lý do sau.

Thứ nhất, chính quyền hiện tại không còn có quyền năng tuyệt đối như ở những năm cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 thế kỷ trước. Tình thế nay đã khác, điều này hẳn những vị lãnh đạo Tuyên giáo TW phải hiểu rõ hơn ai hết. Trong giới làm văn học nghệ thuật hiện nay, việc áp lực đông đảo giới này làm theo lệnh Tuyên giáo TW là bất khả. Thế nên, khi những đội trưởng truy sát như Phong Lê, Phan Trọng Thương, tốt đen Chu Giang, Cẩm Khê, Tuyên Hóa, và Nguyễn văn Dân (chỉ cần đọc sơ bài ‘Văn học nhìn từ lý thuyết trung tâm – ngoại vi’ của vị GSTS này cũng thấy ngay tiến sĩ (sic) của chúng ta đã “lạc đề”, “gượng gạo”, “viết /nói về hùa đánh hôi” như thế nào) có xếp hàng sẵn sàng ra tay chờ chỉ thị thì Tuyên giáo TW – nhìn quanh quất chỉ thấy lèo tèo vài vệ binh - quá lắm cũng chỉ đành liếc mắt bảo “các chú mày để từ từ”, và vì vụ việc đã loan truyền rộng rãi cả trong lẫn ngoài nước nên chẳng đặng đừng đành phải xử lý hành chính cô giáo Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan và giáo sư Nguyễn Thị Hòa Bình. Và rất có thể hồ sơ vụ xử này sẽ tạm thời được khép lại ở thời điểm này. Để củng cố cho hành xử răn đe này (nói theo kiểu TBT Nguyễn Phú Trọng về hiệu quả việc chỉnh đốn đảng vừa qua là cũng khiến “khối anh run đấy!”. Một kết luận mượn cách đùa cợt nhẹ nhàng để che dấu sự bất lực và thất bại. Nhưng câu nói nửa đùa nửa thật này của TBT NPT không phải là không có phần đúng) là Lớp tập huấn “Quan điểm của Đảng về văn học, nghệ thuật và hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật năm 2013″ diễn ra khắp các tỉnh thành trong nước. Chúng tôi đánh giá đây là những động thái chỉ có mục đích răn đe, chỉnh đốn mà thôi. Về hình thức xử lý hành chính đối với giảng viên Đỗ Thi Thoan, chúng tôi nghĩ hiệu quả không đáng kể vì chức vụ giảng viên không còn có cái danh giá và quyền lợi như trước đây nên hiện nay chẳng đáng quan tâm (vì mới chỉ nhận chức vụ giảng viên trên dưới một năm nên việc bảo vệ ‘sổ lương’ dĩ nhiên là không thành vấn đề đối với Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan). Còn với Gs Nguyễn Thị Hòa Bình chúng tôi nghĩ ‘hưu non’ là giải pháp tối hảo để cho lương tâm được bình yên, trong sáng trí tuệ và thanh danh được bảo toàn. Vả lại thời nay kinh tế thị trường việc “thắt bao tử”, trù dập vây bủa kinh tế không còn hữu hiệu: Gs Nguyễn Thi Hòa Bình và giảng viên Đỗ Thị thoan hẳn không đến nỗi phải về quê đập đá mưu sinh như thi sĩ Hữu Loan trước đây! Ngoài ra cũng phải kể đến hậu quả ngược của vụ xử: đối với giới trẻ, nhất là những sinh viên ở đại học sư phạm Hà Nội, rất có thể họ không đồng tình, và khinh bỉ, cách ứng xử của Tuyên giáo TW và các quản lý giáo dục, sự bày tỏ này sẽ lan rộng, có tác động tiêu cực trong xã hội. Xa hơn nữa, từ không đồng tình, khinh bỉ đến phản kháng, con đường dẫn đến bày tỏ thái độ phản biện bấy lâu chưa hiện rõ để được trung thành với bản thân và lương tâm trong sáng của giới trẻ sẽ không xa.

Thứ nhì, vì những vấn đề Tuyên giáo TW cấp thiết, sinh tử, phải ứng phó như những vụ bắt nhốt những blogger như Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào…, những việc khuấy động dư luận xã hội như vụ tuyệt thực của Cù Huy Hà vũ, Điếu cày Nguyễn văn Hải, vụ xét xử Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Khang cũng như nhiều vụ án chính trị khác trong mấy tháng nay, và làm sao bịt miệng được những tiếng nói phản biện ‘không trung thành’ ngày càng mạnh dạn lên tiếng nhắm vào tử huyệt, triệt hủy tính chính danh của đảng về toàn vẹn lãnh thổ và biển đảo. Cũng phải kể ngay đến nan đề thành tích nhân quyền tệ hại của chính quyền VN đang bị đặt dưới áp lực ngày càng đè nặng từ những nước phương Tây, nhất là từ quốc hội và chính quyền Mỹ vào thời điểm xảy ra chuyến công du Mỹ để gặp tổng thống Obama của chủ tịch nước Trương Tấn Sang v.v… Đấy là chưa kể đến một yếu tố ‘ngầm’ quan trọng hơn cả: trong cơn lốc xoay chiều chính trị đang diễn ra, những vị trong Tuyên giáo TW rất có thể nếu không ‘nín thở chờ thời’ thì cũng càng ‘bất động’ được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Do đó không khó nhận ra nhóm các ‘phê bình gia kiểm dịch’ đã tính toán sai lầm về thời điểm (timing) để đưa ra ‘án xử’. Vào thời điểm này “chuyện lý luận (ný niếc) phê bình (phê biếc) hãy tạm thời dẹp sang một bên! Sao các chú rách việc quá!” [Các chú phải biết thân biết phận, các chú có hiểu địa vị của các chú chỉ ở bậc gần như thấp nhất trong các bậc thang quyền lực không?] Đó là sách lược tưởng như khó hiểu của người cộng sản với bản chất muôn thuở của anh du kích chuyên trị ‘đối phó’ để tồn tại. Do đó khả năng thất bại của mưu toan truy sát của những vệ binh đỏ bảo vệ đường lối chính thống này nhiều phần đang lộ rõ.

Lý do sau chót: nhóm Mở Miệng – nhất là thành viên Bùi Chát – hiện đang trong tầm ngắm của chính quyền, nhất là sau vụ việc Bùi Chát cùng hai người bạn học lập nhóm chủ trương trang mạng kêu gọi hậu thuẫn xã hội cho “tiếng súng hoa cải Đoàn Văn Vươn,” và tiếp đó là công khai thách thức những người lãnh đạo của đại học Luật TP HCM công khai tranh luận về việc phỉ báng và vi phạm pháp luật khi công bố nhân thân cũng như thành tích học tập của nhóm này. Việc lãnh đạo TP HCM và đại học Luật của thành phố này “ngậm tăm” không có nghĩa Bùi Chát và hai bạn học cũng như Mở Miệng đã ra khỏi tầm ngắm trả thù.

Để kết luận chúng tôi cũng nhân ‘án xử’ Nhã Thuyên không thể không đặt câu hỏi: Không kể “nền” phê bình văn học tản mạn cảm tính của những Hoài Thanh Hoài Chân, Đặng Thái Mai, Vũ Ngọc Phan… tụt hậu so với thế giới cả thế kỷ ở thời điểm của nền phê bình này xuất hiện, nhận định nói ra tuy đau lòng nhưng là sự thực: rằng từ 1955 đến nay không những không hề có lý thuyết và phê bình văn học đích thực, vậy đến bao giờ lý thuyết và phê bình văn học nước ta mới thoát khỏi thảm họa do sự ngu xuẩn mông muội đã vây bủa hơn nửa thế kỷ nay để mở ra một sinh khí, một tinh thần mới?

Đào Trung Đạo


Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011

Mấy nhận xét về Hôi nghị viết văn trẻ toàn quốc ngày 9/9/2011

Đào Trung Đạo

Một trong những sách lược cai trị chính của các chế độ độc tài toàn trị là cách ly, chia để trị một cách tinh vi, người dân khỏi những mối liên hệ giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với tập thể, không cho người dân có cơ hội tập hợp thành những đám đông không đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền. Trong những ngày đầu cộng sản ở Trung quốc và ở Việt Nam lên nắm chính quyền chúng ta thường nghe nói tới “tổ tam tam” nghĩa là dân chúng ở trong một làng hay phố được tổ chức thành những nhóm ba người để kiểm soát, báo cáo nhau. Trong giai đoạn đó đã xảy ra những sự việc đau lòng như con cái tố cha mẹ, anh em trong nhà báo cáo nhau, trong một đơn vị chức năng người nọ canh chừng và tố cáo người kia. Cực điểm của chính sách này là cuộc cải cách ruộng đất. Suốt trong một giai đoạn dài nhiều thập kỷ con người sống trong khủng hoảng niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau. Để củng cố và che đậy chính sách phân hóa này chính quyền đứng ra lập những hội đoàn, mặt trận, hay phong trào…, mới nhìn tưởng như để đoàn kết một bộ phân dân chúng, nhưng thật ra là để dễ bề kiểm soát. Từ sau Đổi Mới tình trạng này đã bớt cường độ nhưng về sách lược thì cho đến nay vẫn không có gì thay đổi: Những hội, đoàn, tổ chức… được chính quyền lập ra dĩ nhiên hoàn toàn phải đặt dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Chính vì vậy ở Viêt Nam Cọng sản từ hơn nửa thế kỷ nay – trước Tháng Tư 1975 ở Miền Bắc và sau Tháng Tư trên toàn cõi, bất kỳ một hội đoàn, phong trào, mặt trận… nào – từ chính trị, chuyên môn, đến xã hội hay thiện nguyện, giải trí v.v…- một khi được chính quyền cho phép chính thức hoạt động đều nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền thông qua những cán bộ được Đảng tin cậy cài đặt vào những chức vụ lãnh đạo, dù cho những cán bộ này đa số không đủ những phẩm tính chuyên môn, uy tín, hay có những thành tựu được giới làm nghề hay xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên, cứ mỗi khi có một Hội nghị nào đó được tổ chức là những cán bộ lãnh đạo này được giao việc phát biểu khai mạc, một hình thức ra chỉ thị cho các hội viên.

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2011

Giới thiệu nhà văn Trung Quốc Lưu Diệc Vũ mới đào tỵ

Đào Trung Đạo

Nhân dịp nhà văn Trung Quốc Liao Yiwu/Liêu Diệc Vũ đã đào tỵ thành công và hiện tỵ nạn ở Đức chúng tôi xin giới thiệu quyển tiểu thuyết được nhiều người biết đến ở Âu-Mỹ The Corpse Walker/Cửu Vạn Xác Chết qua bản Anh ngữ của Wen Huang.

Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

Giải mã cổ thi để giác ngộ lãnh đạo đương thời

Đào Trung Đạo, RFA


Trên trang mạng Lý luận & Nghiên cứu Văn học số tháng 6, 2011 Thượng Tọa Trí Siêu – Lê Mạnh Thát cho đăng một bài luận văn khá lý thú có đầu đề “Bài thơ vận nước và tư tưởng chính trị của Thiền sư Pháp Thuận”. Thoạt nhìn cái tựa đề người ta có thể cho rằng đây là một bài nghiên cứu hàn lâm về tư tưởng chính trị Phật giáo nhưng nếu đọc kỹ bài này và qui chiếu vào thực trạng chính trị Việt Nam hiện nay người đọc có thể nhận ra thâm ý của tác giả. Như chúng ta đã biết Thượng Tọa Trí Siêu – Lê Mạnh Thát là một học giả Phật giáo tầm vóc không những ở Việt Nam mà còn cả trong vùng Đông Nam Á. Mấy năm trước đây khi Việt Nam được chọn là nước đăng cai tổ chức Đại Hội Phật giáo Thế giới ở Hà Nội chính quyền cộng sản, trong một tình huống chẳng đặng đừng, để sơn phết bộ mặt chính sách tôn giáo của Đảng, đã phải nhất thời sử dụng Thượng Tọa Trí Siêu – nhân vật Phật giáo Việt Nam có uy tín quốc tế - để tiếp đón khách mời năm châu đến tham dự Đại Hội. Về thái độ chính trị của Thượng tọa Trí Siêu trước đây chúng ta được biết ông là một trong số những lãnh tụ cùng với Hòa Thượng thích Quảng Độ của Giáo Hôi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất từ sau biến cố Tháng Tư 1975 giữ vị trí đối lập chính quyền trong một thời gian dài, nhưng mấy năm gần đây ông rời Thanh Minh Thiền Viện ra sống bên ngoài. Nhưng căn cứ vào những bài viết và tác phẩm chúng ta thấy ông đã không thay đổi tên mà vẫn ghi là Thượng Tọa Trí Siêu – Lê Mạnh Thát. Như vậy có thể nói ông vẫn giữ nguyên phẩm vị trong hàng ngũ Phật Giáo tuy có thể khi ra đời sống bên ngoài việc giữ nguyên trang phục với ông không là điều quan trọng. Chúng ta cũng không có thông tin nào cho thấy ông đã hợp tác với Giáo Hội Phật Giáo Quốc doanh do chính quyền dựng lên.

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

Sự chuyển hướng chính trị trong ĐCSVN đang xảy ra?

Đào Trung Đạo

Trong tựa đề bài chúng tôi đặt dấu hỏi (?) không có nghĩa những ý kiến được trình bày sau đây là một sự suy diễn. Ngược lại, tuy dấu hỏi không mang ý nghĩa một sự nghi ngờ, nhưng chúng tôi có ý đặt vấn đề “sẽ như thế nào?”