Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021
Giáo Sư Đàm Trung Pháp: “Gìn Vàng Giữ Ngọc” Cho Các “Hàng Hàng Gấm Thêu” (Phiên Bản Hoàn Chỉnh 2021)
Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Johann Wolfgang von Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Francois-René Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và William Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc.
Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên Die Leiden des jungen Werthers (Nỗi ưu sầu chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một số thanh niên đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện tự kết liễu cuộc đời mà trong túi quần vẫn còn cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết Atala, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Samuel Taylor Coleridge xuất bản tập thơ Lyrical Ballads, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong nền văn học quốc gia ấy.
Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath Tagore (1861-1941, giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac (1883-1940) đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh). Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều “mười phân vẹn mười” cả, nhưng riêng đối với tôi thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của các vị ngoại quốc kia, vì tôi là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2020
Đàm Trung Pháp: Ấn Bản Tháng 12, 2020 Tập San Việt Học
Lá Thư Chủ Biên
Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2020
Đàm Trung Pháp: Lý Giải Thứ Tiếng Anh “Cười Ra Nước Mắt”
Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2020
Đàm Trung Pháp: Cuốn Sách Giáo Khoa * Thượng Đẳng Về Cú Pháp Tiếng Việt Của Gs Nguyễn Đình Hòa (1924-2000)
Phiên Bản Bổ Sung Rộng Rãi Và Sau Cùng Năm 2020 Của Gs Đàm Trung Pháp **
Được soạn thảo nghiêm túc và tôi luyện kỹ càng trong nhiều thập niên giảng dạy ngôn ngữ Việt tại các đại học Mỹ (khởi thủy tại Columbia vào năm 1953 và kết thúc tại Southern Illinois vào năm 1990), VIETNAMESE của Giáo sư Nguyễn Đình-Hòa là một cuốn sách giáo khoa thượng đẳng. Với 11 chương sắp xếp theo thứ tự rành mạch, hai phụ bản, một thư tịch liệt kê 210 nguồn khảo cứu của các tác giả khắp năm châu viết về tiếng Việt, và một “index” hơn 13 trang, cuốn sách là một đóng góp uyên bác hiếm quý cho thế giới bên ngoài muốn tìm hiểu về cấu trúc tiếng Việt. Bằng một lối viết trong sáng vui tươi và với những thí dụ đầy tình tự dân tộc, tác giả đã miêu tả những nét chính yếu và đặc thù của âm pháp (phonology), từ pháp (morphology) và cú pháp (syntax) tiếng Việt qua các nguyên lý của khoa ngôn ngữ học hiện đại.
Trong lời tựa, tác giả cho biết ông giữ lập trường bảo thủ (conservative) của trường phái “miêu tả” (descriptive school) khi soạn thảo cuốn sách, nhưng người viết thấy cần phải nói thêm rằng khảo hướng của ông cũng rõ nét chiết trung (eclectic). Khảo hướng chiết trung rất lành mạnh và cần thiết để duy trì được một cái nhìn quân bình trong bộ môn ngôn ngữ học. Thật vậy, tác giả đã miêu tả cấu trúc của “tiếng Việt không son phấn” qua các bình diện lịch sử (historical), công năng (functional), so sánh (comparative), tương phản (contrastive), pháp vị (tagmemic), ngữ dụng (pragmatic), biến tạo (transformational), và đại đồng (universal). Kiến thức chuyên môn quảng bác cũng như kinh nghiệm thâm sâu về giảng dạy ngôn ngữ đã giúp tác giả thành công trong nỗ lực áp dụng khảo hướng chiết trung khi soạn thảo cuốn sách giáo khoa này, để giúp cho người đọc có được một cái nhìn quân bình về cấu trúc tổng thể tiếng Việt. Có hai điểm son nữa của cuốn sách có tính cách sư phạm, mà người sử dụng sẽ trân quý, cần được nêu ra:
Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2020
Thanh Nam: Spring Poem Written In Exile - “Thơ Xuân Đất Khách” (Đàm Trung Pháp dịch)
Spring Poem Written In Exile
“Thơ Xuân Đất Khách”
Vietnamese poem by Thanh Nam (1977) English translation by Đàm Trung Pháp (2020)
THANH NAM (1931-1985)
One of the most cherished literati in pre-1975 Saigon was the writer and poet Thanh Nam [1]. This popular author of more than twenty novels was also noted for his exquisite poetry. People loved Thanh Nam because of his intellectual probity – he wrote about life as he had actually lived it. Thus, his prose and his poetry were all about real life. “Thanh Nam’s real soul penetrates his literary works,” noted Bình Nguyên Lộc [2]. “The style is the man himself. This saying fits Thanh Nam perfectly,” declared Mai Thảo [3]. Although his first novel was published in Saigon in 1957, he started writing in Hanoi in the early 1950s. In 1952, he moved to Saigon and flourished in the literary circle there until the collapse of South Vietnam in 1975. If we needed just one publication to introduce Thanh Nam, that would be his 1983 poetic collection “Đất khách” (“In exile”); and if we needed to read just one poem typical of him, that would be his “Thơ xuân đất khách” (“Spring poem written in exile”). Thanh Nam penned “Thơ xuân đất khách” in Seattle on February 18, 1977, which was also the first day of the Lunar Year of the Snake (Đinh Tỵ). This first day of the lunar year is a most solemn time, during which the Vietnamese honor their ancestors, visit relatives and friends, wear their nicest clothes, and rejoice. His suffering from culture shock and nostalgia imbues the content of this poem [4].
SPRING POEM WRITTEN IN EXILE
THƠ XUÂN ĐẤT KHÁCH
Nonchalantly dropped the calendar leaf marking the new year
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Which reminded me that seasons had changed
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Since the day I left as an expatriate
Ra đi từ thuở làm ly khách
Two springs of homesickness had willy-nilly gone by
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Drifting from the East to the North
Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2020
Ấn Bản Oct 15, 2020 • Tập San Việt Học - viethocjournal.com

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020
Đàm Trung Pháp: “The Trưng Sisters” (A poem by Lê Ngô Cát and Phạm Đình Toái)

Vietnam’s revered heroines Trưng Trắc and Trưng Nhị were sisters, who in the year 40 recruited thousands of followers who helped them rout the greedy and cruel Chinese governor Su Ding (Tô Định), who had killed Trưng Trắc’s husband Thi Sách. Su Ding’s cowardly escape to China marked the end of Vietnam’s first Chinese occupation, which had lasted 150 years [1]. Trưng Trắc became the reigning queen of Vietnam until the year 43, when she and her younger sister were defeated by the Chinese marshal Ma Yuan (Mã Viện) and subsequently killed themselves by jumping into a river. Since their deaths almost two thousand years ago, they have been reverently commemorated as the nation’s paragons of heroism on their death anniversary (the sixth day of the second month of the lunar year). Shrines in their honor exist in many places, even in southern Guangdong (Quảng Đông) in China, but the two best-known ones are in Đồng Nhân village near Hà Nội and Hát Môn village in Sơn Tây province.
According to the book Lĩnh Nam Chích Quái (Wonders Plucked from the Dust of Lingnan) written in the fifteenth century, the Trưng sisters were born in Mê Linh village, Phong prefecture. Their father was a Lạc lord in Giao prefecture. Trưng Trắc was a strong and brave woman who was married to Thi Sách, a resident of Diên prefecture. When the egregious Chinese governor Su Ding killed Thi Sách, Trưng Trắc and her sister Trưng Nhị started an uprising against the Chinese occupation. Supported by the people of Cửu Chân, Nhật Nam, and Hợp Phố districts, the sisters pacified sixty-five strongholds throughout Lĩnh Nam [2]. As the country’s new sovereign, Queen Trưng Trắc set up her court in Mê Linh, abolished the insidious tribute taxes imposed by the Chinese, and restored a simpler form of government
Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2020
Giới Thiệu Tập San Việt Học Ấn Bản Oct 01, 2020 • Tập San Việt Học - Viethocjournal.Com
Lá thư chủ biên
Kính gửi quý độc giả:
Dịch vụ miễn phí Google Analytics cho biết sau gần 3 năm hoạt động liên tục, “audience overview” của TSVH coi như khá ổn định. Trong tháng August vừa qua, tổng số độc giả cá nhân (unique readers) vào thăm là 4.329 người và tổng số lượt vào đọc (pageviews) của họ là 11.916. Đại đa số độc giả cá nhân vào thăm TSVH là từ Việt Nam (3.456), theo sau bởi Mỹ (491), Canada (85), và số còn lại từ vài quốc gia khác. Google Analytics cũng cho thấy TSVH đang có ảnh hưởng (influential) vì độc giả tự kiếm ra TSVH qua Google search. Đây là một tín hiệu đáng mừng vì nó đang được hệ thống tìm kiếm của Google lưu ý và ưu ái • Tò mò, mỗ tôi “google” hàng chữ tiếng Việt khá tổng quát “cấu trúc tiếng việt theo lý thuyết noam chomsky ra sao” thì thấy hiện ngay ra 10 trạm nối (links), trong đó có 3 links dẫn tới 3 bài viết trong viethocjournal.com: (1) Noam Chomsky: Linh hồn lý thuyết ngữ pháp từ nửa thế kỷ nay, (2) Nghĩ về văn phạm vs ngữ pháp, (3) Cơ cấu Việt ngữ • Để các độc giả vào thăm homepage lần đầu khỏi bỡ ngỡ (vì cái menu khá hùng hậu cuả nó) mỗ tôi vừa đặt thêm mục MỜI ĐỌC ẤN BẢN MỚI NHẤT vào trên đỉnh menu. Chúng ta bây giờ có thể coi mỗi ấn bản là một “số báo” TSVH với lá thư chủ biên giới thiệu các bài trong ấn bản, và một mục lục trong đó các bài viết đã có sẳn permalink để độc giả chỉ click vào là toàn bài sẽ hiện ra ngay trên screen • Ngoài ra, tiểu mục Văn học so sánh đa ngữ đã được thêm vào mục VĂN HỌC THẾ GIỚI để post các bài văn học so sánh (comparative literature) liên hệ đến ít nhất là 3 ngôn ngữ khác nhau, và tiểu mục Gìn vàng giữ ngọc đã được thêm vào mục VĂN HỌC.
Thơ mùa thu (Mục Văn học so sánh đa ngữ) là một đóng góp đồ sộ của đồng tác giả và dịch giả David Lý Lãng Nhânvà Thomas Lê. Hai văn hữu này của chúng ta quán triệt tam ngữ Anh, Pháp, Việt và có khả năng dịch thơ khó có ai vượt qua, từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia và ngược lại • Mỗ tôi xin ngả mũ tán thưởng công trình dịch thơ xuất sắc của Lý tiên sinh và Lê tiên sinh, sau khi đã đọc hết 23 bài nguyên tác cộng thêm 25 bài dịch thuật từ các nguyên tác. Những bài nguyên tác là của các đại danh thế giới như Lamartine, Verlaine, Baudelaire, Shakespeare, Keats, Blake; và các đại danh Việt Nam như Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận • Đã lâu, từ khi đọc bài thơ quái dị “Gửi người dưới mộ” của Đinh Hùng đến nay (Trời cuối thu rồi … Em ở đâu / Nằm bên đất lạnh chắc em sầu / Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy / Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu …) định kiến của mỗ tôi là thi ca về mùa thu thì buồn rất nhiều và vui chẳng bao nhiêu. Giờ đây, 48 bài thơ này cho thấy cái định kiến ấy của mỗ tôi không đến nỗi … quá chớn – chúng buồn lắm, tuy rất
Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2020
Giới thiệu Tập San Việt Học: Ấn Bản Sept 15, 2020 • Tập San Việt Học - http://viethocjournal.com
Lá thư chủ biên
Thưa quý độc giả:
Mỗ chủ biên sẽ mãi mãi ghi nhớ và biết ơn quý vị về những lời khen tặng rộng lượng, những điện thư động viên tinh thần mạnh mẽ, những nỗ lực đóng góp bài vở thường xuyên, và nhất là quyết tâm tiếp tay thăng hoa giá trị hàn lâm cho TSVH và Viện Việt Học. Thậm chí một số tác giả và độc giả còn coi hai thực thể giáo dục này như một “thư viện chọn lọc trực tuyến” hoặc một “virtual college of Vietnamese humanities”!
Để cải tiến việc sắp xếp nội dung ngày càng đa dạng, “menu” TSVH nay mở thêm tiểu mục “Diễn đàn tuổi trẻ gốc Việt” (thuộc mục “Văn học”) và tiểu mục “Địa danh lịch sử thế giới” (thuộc mục “Giáo dục”). Homepage TSVH cũng đã được sắp xếp lại giản dị hơn để tăng gia tối đa mức “user-friendliness” cho độc giả.
Trong ấn bản này, TSVH hân hạnh được đăng tải các bài viết gửi đến mỗ tôi từ quý tác giả Trần Huy Bích, Nguyễn Lương Duyên, Sóng Việt Đàm Giang, Nguyễn Tuấn Huy, và Đàm Trung Phán. Tiến sĩ Trần Huy Bích từng nhiều năm đặc trách Á châu học tại thư viện của đại học UCLA và đại học USC tại Nam California. Tác giả Nguyễn Lương Duyênmột thời là hiệu trưởng Trường Nông Lâm Súc Pleiku trước 1975. Tác giả Sóng Việt Đàm Giang đã du lịch nhiều nơi để viết lên những du ký thế giới thật hấp dẫn và mãn nhãn với những tấm hình bà chụp. Tác giả Nguyễn Tuấn Huy (cựu môn sinh Việt ngữ của Thầy Nguyễn Văn Sâm) là một nhà văn trẻ tuổi đầy hứa hẹn. Sau hết, bào đệ Đàm Trung Pháncủa mỗ tôi đã về hưu sau hơn 30 năm dạy đại học, nhưng đang còn hăng say phục vụ cộng đồng người Việt tỵ nạn tại thành phố Mississauga, Canada.
Một vị Thầy được sinh viên quý trọng của Đại học Văn khoa Saigon: Giáo sư Nguyễn Đăng Thục (1908-1999) (mục Văn học Việt) là một tiểu sử biên niên soạn thảo rất công phu về một học giả lỗi lạc bởi tác giả Trần Huy Bích. Đây là một tài liệu tôn vinh một nhà giáo tài đức vẹn toàn từng làm Khoa trưởng Đại học Văn khoa Saigon trước 1975. Truyền thống tôn sư trọng đạo – tỏa sáng trong tang lễ ngày 2 tháng 6 năm 1999 tại Saigon – được Trần quân kể lại: “Trong những ngày linh cữu quàn tại gia, hàng ngàn sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Vạn hạnh tấp nập tới viếng […] Sinh viên Văn khoa để tang tập thể: nam mặc sơ-mi trắng, quần đen, thắt cà-vạt đen; nữ mặc áo dài trắng; tất cả đều thắt khăn tang” • Trong niên học 1970-1971, lúc thỉnh giảng văn chương Anh tại Đại học Vạn hạnh, mỗ tôi có dịp được hầu chuyện Thầy Khoa trưởng Nguyễn Đăng Thục, và đến nay còn nhớ phong cách rất nhã nhặn và thân thiết của Thầy.
Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020
Đàm Trung Pháp: Lối Viết Văn “Bỏ Lửng” Của Ernest Hemingway
CON MÈO TRONG MƯA (Bản dịch của Đàm Trung Pháp)

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2020
Tập San Việt Học - Ấn Bản Sept 01, 2020 - Viethocjournal.Com
Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020
Đàm Trung Pháp: Lá Thư Chủ Biên - Viethocjournal.Com - Tập San Việt Học - Ấn bản 15-8-2020
Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2020
Đàm Trung Pháp (giới thiệu và dịch thuật): Sáu bài thơ tình chọn lọc của Pablo Neruda
Nhà thơ kiêm nhà ngoại giao nước Chile PABLONERUDA(1904-1973) đoạt giải Nobel văn chương năm 1971. Có thể nói Neruda là nhà thơ Nam Mỹ được thế giới biết đến nhiều nhất, với thi tập đầu tay của ông viết năm 20 tuổi tựa đề Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (Veinte poemas de amor y una canción desesperada) đã bán được trên một triệu cuốn và đã được dịch sang hơn 20 ngôn ngữ từ đó đến nay.
Tốt nghiệp văn chương Pháp tại Universidad de Chile,Neruda đã lẫy lừng danh tiếng thế giới sau khi xuất bản thi tập đầu đời nêu trên, dựa vào một mối tình tan vỡ đắng cay. Hoạn lộ củaNeruda bắt đầu khá sớm khi nhà thơđược bổ nhiệm làm lãnh sự Chile tại Miến Điện. Những năm sau đó ông được thuyên chuyển đến các nhiệm sở ngoại giao tại các quốc gia khác ở Á Châu và Âu Châu và tiếp tục viết cho các chuyên san văn học cũng như báo chí. Neruda gia nhập chính trường, đắc cử vào thượng viện, gia nhập đảng cộng sản, từng bị lưu vong, rồi chán ngán chủ thuyết cộng sản sau khi được biết những tội ác tầy trời xảy ra dưới triều đại Stalin.
Mặc dù đã thành công lớn trong lãnh vực ngoại giao và chính trị,làm thơ vẫn là mối đam mê lớn nhất của Neruda. Thi tập Cơ ngơi trên trái đất (Residencia en la tierra) gồm các bài thơ viết từ 1933 đến 1947 nói lên sự suy thoái xã hội cùng sự cô lập cá nhân. Thi tập đồ sộ Bài ca tổng quát (Canto general) gồm 340 bài thơ xuất bản năm 1950 là một thiên anh hùng ca đề cao Mỹ Châu La Tinh. Những năm sau cùng cuộc đời, danh vọng Neruda lại càng lên cao — ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1971,khi đang làm đại sứ Chile tại Paris từ năm 1970 đến năm 1972.
Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020
Đàm Trung Pháp: “Nước non ta, ai ngăn trở ta về …” (Lý Đông A, 1943)
Đàm Trung Pháp: Một tuyệt tác thi ca Ý ngữ - Un’ ape esser vorrei (Ta muốn là con ong)
![]() |
Nghĩa: Tiếng nói ngọt ngào. Hình minh hoạ FreePik |
Lối phát âm tiếng Ý nghe ngọt ngào êm tai nhất trong sáu ngoại ngữ tôi đã học hỏi (Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây ban nha, và Hoa quan thoại). Hệ thống mẫu âm khá giản dị của tiếng Ý gồm năm mẫu âm căn bản là [a], [i], [u], [e], và [o]. Ba âm đầu phát âm như tiếng Việt, và hai âm còn lại thường phát âm giống [ê] và [ô] trong ngôn ngữ chúng ta. Những mẫu âm nhiều nhạc tính này xuất hiện ê hề trong mọi vị trí, nhất là hai âm [i] và [e] ở vị trí sau cùng của các danh từ và tính từ số nhiều. Khi hai tình nhân người Ý muốn cho nhau biết rằng họ yêu nhau thắm thiết thì họ thốt lên câu: Amore mio, io ti voglio molte bene! – nghe có khác nào một câu ca thánh thót? Động từ voglio phát âm là [vô-li-ô] thực ra có nghĩa là tôi muốn cơ đấy.
Thêm vào đó là những kết hợp rất êm tai của một số tử âm và mẫu âm, chẳng hạn: • Khi tử âm [s] nằm giữa hai mẫu âm (như trong hai chữ musicale” và “melodioso) thì nó phát âm như mẫu tự [d] trong tính từ [du dương] của chúng ta • Tử âm [c] khi đi với [i] và [e] thì đọc như [chi] và [chê] trong tiếng Việt • Các âm tiết [gia] và [gio] trong tiếng Ý được phát âm mạnh mẽ đôi chút hơn là [gia] và [giô] trong tiếng Việt. Thực vậy, khi muốn diễn tả ý nghĩ “Trong vườn hoa văn chương Ý có nhiều thi nhân trữ tình và lãng mạn” thì người dân thành phố La Mã sẽ rót mật vào tai người nghe như thế này: Nel giardino letterario d’Italia ci sono molti poeti lirici e romantici. Mới chỉ nghe “người thường” nói tiếng Ý mà đã thích như
Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2020
Đàm Trung Pháp: Tâm huyết Tản Đà trong “Thề non nước”
Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020
Đàm Trung Pháp: Tiếng Việt Hữu Ích Ra Sao Khi Học Sinh Gốc Việt Học Tiếng Anh?
Hai Loại Tiếng Anh
Học Sinh Ngoại Quốc Thủ Đắc Tiếng Anh Thế Nào?
Kiến Thức Bối Cảnh
Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2020
Giáo Sư Đàm Trung Pháp [1]: Tại Sao Nhiều Học Trò Ngoại Quốc Viết Tiếng Anh Quá Kém?
Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2020
Đàm Trung Pháp: Trở Lại Nghề Cũ Nơi Tạm Dung Mới (Tự Truyện Của Nhà Giáo Đàm Trung Pháp 2020)
SAN ANTONIO, TEXAS – HÈ 1976
Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020
Đàm Trung Pháp: Một Thoáng Thi Ca Trữ Tình Tây Ban Nha Ngữ* (Giới Thiệu Và Dịch Thuật - Sơ Thảo 2010, Hoàn Chỉnh 2020)
Tuổi thanh xuân, kho tàng thượng đế
đã ra đi không thể trở về
lúc muốn khóc, ta không khóc nổi
nhưng nhiều khi bất chợt lệ rơi
Tuổi thanh xuân thường đồng nghĩa với mộng mơ. Người ta kể rằng thời còn trẻ Gustavo Bécquer (1836-1870), người nước Tây ban nha, có một cô bạn gái kháu khỉnh mê chàng như điếu đổ. Một hôm nàng âu yếm nhìn Gustavo đang ngồi làm thơ trong vườn, rồi bất thần lên tiếng hỏi, “Anh ơi, thơ là cái chi chi mà anh mê nó thế hả anh?” Có ai đâu ngờ câu trả lời chẳng cần suy nghĩ của Gustavo “Poesía … eres tú” (Thơ … chính là em đấy) đã trở thành cách định nghĩa thần tình nhất cho tình yêu từ đó đến nay! Nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu cũng đã chẳng để lỡ cơ hội cho tiếng lòng đang thổn thức rót thêm những lời đường mật vào tai cô bạn gái mà chàng vừa xác nhận là nguồn thơ lai láng cho mình:
Một thế giới cho từng ánh mắt
một trời xanh mỗi lúc em cười
mỗi nụ hôn ... anh còn suy đoán
biết tặng gì mỗi lượt em hôn
Tuyển tập những bài thơ mang danh “Rimas y leyendas” (Những vần thơ và truyện thần kỳ) --mà từ đó bốn câu trên được trích dẫn-- đã được in thành sách năm 1871, tức là một năm sau khi Bécquer qua đời. Kể từ đó đến nay tập thơ khả ái ấy vẫn còn là những bài thơ tình trinh nguyên được giới trẻ trong thế giới Tây ban nha ngữ ngưỡng mộ.