Hiển thị các bài đăng có nhãn Ðoan Trang. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ðoan Trang. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

Đoan Trang Phạm - Công an, Tuyên giáo hãy chấm dứt đe dọa ông Mai Phan Lợi và khủng bố báo chí

Ngày 17/6, nhà báo Mai Phan Lợi, Trưởng văn phòng đại diện báo Pháp luật TP.HCM tại Hà Nội, có đưa lên Diễn đàn Nhà báo trẻ một khảo sát (poll) nho nhỏ về nguyên nhân “vì sao CASA tan xác?”.
Ngay sau đó, tờ báo kền kền của “nhà báo cách mạng” Nguyễn Như Phong đã liên tiếp ra đòn chỉ điểm, tố cáo ông Mai Phan Lợi, thậm chí hô hào thanh tra toàn diện Diễn đàn Nhà báo trẻ. Nối gót Petro Times là tờ Người Đưa tin, và đến tối nay, 20/6, là chương trình thời sự “giờ vàng” 19h của VTV. Quan báo Hoàng Hữu Lượng, nhà báo Lê Quang Vinh, và một loạt đồng nghiệp của ông Lợi ở các kênh truyền hình quốc doanh đồng loạt lên sóng chỉ trích ông không giữ đạo đức nghề nghiệp, đưa tin “sai sự thật”, nhưng sai sự thật chỗ nào thì chẳng thấy ai chỉ ra được một từ.

Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

Ðoan Trang - Khi một thiểu số “quần chúng” nắm quyền quyết định

Đây là thành phần chính trong 75 cử tri nắm quyền đại diện cho 90 triệu dân Việt Nam, gần 10 triệu dân Hà Nội và hàng nghìn công dân mạng quyết định việc TS Nguyễn Quang A có xứng đáng được ứng cử đại biểu Quốc hội khóa 14 hay không.

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2016

Đoan Trang - Quan chức “gây tiếng vang” nhờ nói ra điều ai cũng biết


Bài tham luận của Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh gây chấn động dư luận, trước hết bắt nguồn từ “lề phải” (báo chí chính thống), sau đó lan sang truyền thông xã hội. Báo Pháp luật TP.HCM đánh giá đó là bài phát biểu “tâm huyết, thẳng thắn”. VietNamNet mô tả là Bộ trưởng “dốc ruột trước Đại hội”.

Người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam hay có kiểu ghép số vào chữ cho thành công thức, ví dụ “ba phe bốn mâu thuẫn”, “năm dòng thác cách mạng”, “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, v.v. Có thể không liên quan gì đến “truyền thống” này, nhưng bài tham luận của Bộ trưởng KH&ĐT Bùi Quang Vinh cũng đưa ra “ba trụ cột, sáu mũi chuyển đổi lớn”.

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - Từ Nguyễn Hữu Đang đến Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài

Quản giáo hống hách như các "cô mậu" thời bao cấp. - ĐoanTrang
Có lẽ vì tuổi đời chưa được nhiều, và vì không am hiểu rõ về phong tục cùng tập quán của dân tộc Việt nên mới đầu năm/ đầu tháng – thay vì kiêng cữ cho nó lành – blogger Đoan Trang đã buông đôi lời không được nhã nhặn cho lắm đối với bộ công an (nói chung) và giới quản giáo coi tù (nói riêng) như sau:
Quản giáo hống hách như các "cô mậu" thời bao cấp...
Buổi sớm 2/1/2016, Hà Nội vẫn hơi lạnh và mờ mờ tối như những sáng mùa đông khác, nhưng chị Lê Thị Minh Hà (vợ blogger Ba Sàm) và chị Vũ Minh Khánh (vợ luật sư Nguyễn Văn Đài) đã dậy từ sớm để chuẩn bị đồ tiếp tế, mang vào trại B14 nuôi chồng.

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Đoan Trang - Hà Nội hãy biết yêu những gì mình có


Tôi yêu màu lá xanh mướt của mùa xuân. Nổi trong đám lá xà cừ xanh thẫm, đôi khi lại có màu xanh nõn nà của lá bồ đề, lá sấu. Và khi xuân sang, buổi sáng sớm bước ra đường, lẫn trong khói bụi ô nhiễm, vẫn thấy một mùi thơm mát mà tôi gọi là mùi “hoa cỏ mùa xuân”.

Tôi yêu sắc đỏ rực trời của hoa phượng. Đôi khi tình cờ nhớ đến những ngày ở nước Mỹ, tôi nhớ xứ Cali cũng có hoa phượng, nhưng là phượng tím, jacaranda. Có những đoạn đường, hai bên một màu tím ngát, hoa nhiều hơn lá. Phượng tím cũng đẹp lắm. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn yêu cái màu cháy đỏ nao lòng của phượng hồng Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… những thành phố của Việt Nam mà tôi đã đi qua. Nhớ đến phượng là nhớ đến những câu hát xao xuyến: “Phượng hay bâng khuâng, tưởng chừng như cô đơn”, “xuân qua hè tới ta nhớ nhau luôn, phượng ơi”.

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Ðoan Trang - Tại sao, Việt Nam?


Vào đầu tháng 1/2011, vài ngày trước cuộc cách mạng mùa xuân Ả-rập chấn động Ai Cập (25/1/2011), một nhà văn người Thụy Điển từng có thời gian sinh sống ở Việt Nam và quan tâm đến tình hình Việt Nam hỏi tôi: ''Vì sao các blogger Việt Nam ''ít nói'' vậy? Tôi theo dõi và thấy rằng ở Việt Nam chính quyền hà khắc, đàn áp nghiêm trọng ngang với Iraq, Iran, Myanmar… mà dường như thế giới không hề biết điều đó.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Đoan Trang - Bá quyền văn hóa đe dọa Việt Nam


Đoan Trang

Nhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.

Giai điệu chủ

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1987...

Tháng 3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước. Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc và thế giới.

Chính sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu chủ":
  • Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ";
  • Dòng phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)
  • Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quít chín", "Gia tộc Kim Phần"…)
  • Dòng phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)
  • Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)

Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.

Đặc biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu, nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia trong khu vực.

Trong số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).

Phần lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác giữa các đài truyền hình hai nước.

Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"

Song song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình, sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.

Bất chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng.

Với nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác, Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu" (Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.

Lý Mỹ Kỳ (Maggie Q), mẹ là người Việt, cha mang quốc tịch Mỹ,
sinh tại Hawaii, nhưng vẫn bị đa số khán giả Trung Quốc nghĩ là người Hoa

Các ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử Quỳnh, Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam) là người đại lục.

Trung Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.

Đằng sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc

Một nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh hưởng ít ỏi ở thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.

Chẳng riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary, Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-19, những mối quan hệ kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và truyền thông bắt đầu lên ngôi.

Bên cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình thức bá quyền chủ yếu.

Pháp và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này. Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes của Tây Ban Nha.

Và đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam. Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như thế nào.

Ngay trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng phải kiêng nể.

Điều này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như thế.

Khái niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới ra đời. Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.

Hai thủ tướng chứng kiến lễ ký các văn kiện quan trọng, 
gồm cả thỏa thuận thành lập Học viện Khổng Tử tại Việt Nam. 
Ảnh: VGP (bariavungtau.com)

Vấn đề đến từ phía những kẻ bị “xâm lăng”

Bá quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần của những kẻ bị bá quyền.

Riêng trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền.

Như thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.

Điều đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.

Việt Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc, theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung Quốc.

Theo một thống kê được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu sách.

Từ năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là "tiền đồn".

Đã đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10 triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc (2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng Hải.

Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?


*****

Bài đăng trên Nhịp Cầu Thế Giới, 17/5/2009http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1895


Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Đoan Trang - "Nói với mình và các bạn": Ta đi bầu cử tự do



Đoan Trang

Chúng ta đã nghe nói nhiều về giá trị của dân chủ, nhân quyền, tự do. Nhưng, đánh giá như thế nào là dân chủ, “chấm điểm” một nền dân chủ, thì lại đòi hỏi phải có những tiêu chí nhất định, trong đó có một tiêu chí quan trọng là bầu cử tự do tới mức nào. Và đánh giá, “chấm điểm” một cuộc bầu cử, lại cũng đòi hỏi các tiêu chí cụ thể.

Dưới đây là bài thứ 11 trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị. Bài này sẽ bàn về một vấn đề hết sức cụ thể, căn bản của chính trị, nhưng lại là điều mà hầu như không người dân Việt Nam nào hiểu rõ (kể cả người viết bài này) vì chưa từng được trải nghiệm: Thế nào là bầu cử tự do?


Kỳ 10
TA ĐI BẦU CỬ TỰ DO…

“Ta đi bầu cử tự do
Tìm người xứng đáng mà cho vào hòm”

Câu thơ bút tre này tuy đùa cợt nhưng về mặt chính trị thì nó đúng: Bầu cử tự do nghĩa là người đi bầu (cử tri) có quyền, bằng lá phiếu của mình, đưa người mà họ cho là xứng đáng vào cương vị phù hợp để đại diện cho họ làm một việc gì đấy. Đồng thời, điều đó cũng hàm nghĩa là họ có quyền sử dụng lá phiếu của mình để tống cổ người mà họ cho là không xứng đáng, hoặc không còn xứng đáng, khỏi cương vị nọ.

Bất kỳ nền chính trị nào trong đó người dân có quyền bầu cử tự do – bầu và cách chức lãnh đạo – thì tức là đã đạt một trong các tiêu chí của dân chủ. Xin bạn lưu ý cụm từ “một trong các”: Chỉ bầu cử tự do mà thôi, không đảm bảo dân chủ. Nhưng chắc chắn một nền chính trị không có bầu cử tự do thì không phải là dân chủ. Nói cách khác, bầu cử tự do là điều kiện cần, không phải điều kiện đủ, của dân chủ.

Mở rộng ra, bạn cũng có thể thấy điều tương tự: Đa đảng không đảm bảo dân chủ. Nhưng một đảng thì chắc chắn là độc tài, là không có tự do.

Tuy nhiên, chúng ta sẽ bàn về chuyện đảng phái trong một kỳ khác của loạt bài này. Còn bây giờ trở lại với câu hỏi: Thế nào là bầu cử tự do? Bạn biết không, về cơ bản, có vài tiêu chí sau đây để đánh giá chế độ bầu cử nói chung ở một quốc gia, hoặc một cuộc bầu cử cụ thể nào đó, có tự do hay không. (*)

Bầu cử phải thường xuyên

Các cuộc bầu cử phải diễn ra thường xuyên, định kỳ (và có thể có cả bầu cử bất thường), trong một khoảng thời gian nhất định – khoảng thời gian này dĩ nhiên không được kéo dài, chẳng hạn, nhất định là không thể tới “10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa” và càng không thể là vô thời hạn như ở Bắc Triều Tiên.

Cử tri phải có sự lựa chọn

Với mỗi cương vị cần nhân sự, cử tri phải có ít nhất hai lựa chọn khác biệt. Bạn hãy chú ý cụm từ “ít nhất hai”, “khác biệt”. Bởi vì sẽ là vô nghĩa nếu cử tri chỉ có một lựa chọn duy nhất, hoặc hai lựa chọn na ná nhau.

Nhà khoa học chính trị Austin Ranney đưa ra một ví dụ về sự vi phạm tiêu chí thứ hai này: Suốt 72 năm (1917-1989), Liên Xô thường xuyên tổ chức bầu cử nhân sự vào rất nhiều cơ quan chính quyền, và thường là có tới hơn 90% dân số trưởng thành đi bỏ phiếu. Tuy nhiên, cử tri không có sự lựa chọn. Trong mỗi cuộc bầu cử vào mỗi cơ quan chính quyền, danh sách đều chỉ có một ứng viên, và cử tri chỉ có thể hoặc là chọn ứng viên đó hoặc là không bỏ phiếu.

Sau khi Liên Xô sụp đổ (năm 1991) thì nước Nga đã tổ chức được bầu cử “hai ứng viên trở lên”. Ông Ranney cũng viết thêm rằng, hiện “chỉ còn một vài nước vẫn còn bám lấy chủ nghĩa cộng sản kiểu Xô Viết, đáng chú ý nhất là Cuba, Bắc Triều Tiên, và Việt Nam, là vẫn còn tổ chức bầu cử một-ứng-viên-một-ghế”.

Mở rộng ra, bạn sẽ thấy cái nguyên tắc “hai ứng viên khác nhau trở lên” này hiển nhiên áp dụng cho tất cả các quyết định liên quan tới việc lựa chọn chứ không chỉ trong chuyện bầu cử. Đã gọi là tự do lựa chọn, đương nhiên phải có từ hai phương án trở lên, nếu không thì còn gì là tự do. Thi hoa hậu gia đình giữa bố, mẹ và hai con trai thì còn ai đoạt vương miện vào đây nữa.

Một ví dụ gần đây về sự vi phạm nguyên tắc “hai ứng viên khác nhau trở lên”, là bản “Phiếu lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp” mà Ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân đưa ra. Nó chỉ có một dự thảo duy nhất, trong khi lẽ ra người dân phải có quyền lựa chọn từ ít nhất hai dự thảo hiến pháp trở lên, do ít nhất hai lực lượng khác nhau trong xã hội đưa ra.

Mặt khác, cứ chấp nhận rằng đây là phiếu lấy ý kiến nhân dân về chỉ một bản dự thảo mà thôi, do Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (với các thành viên toàn là đảng viên ĐCSVN) lập ra, thì phiếu này cũng vẫn vi phạm nguyên tắc “hai ứng viên khác nhau trở lên”. Bởi vì nó chỉ đưa ra hai phương án na ná nhau: 1. Đồng ý (hoàn toàn) với nội dung Dự thảo. 2. Đồng ý với những nội dung khác trong Dự thảo (đề nghị ghi rõ…) và có ý kiến góp ý (đề nghị ghi rõ).

Cuối cùng, áp dụng nguyên tắc này vào nền chính trị của chúng ta, bạn có thể thấy ngay:Đa đảng không đảm bảo dân chủ. Nhưng một đảng thì chắc chắn là độc tài, là không có tự do.

Người dân phải được tự do tiến cử ứng viên

Đây là một tiêu chí quan trọng của bầu cử tự do, và nó đòi hỏi một điều kiện bắt buộc đi trước: Mọi công dân đều phải có quyền thành lập và/ hoặc tham gia đảng phái, để từ đó, có quyền được người khác tiến cử, quyền tiến cử người khác, hoặc quyền tự mình ứng cử mà không cần thông qua đảng phái nào.

Nhìn vào Việt Nam, bạn thấy điều này là bất khả thi. Cho dù bạn có quý và tin tưởng ông hàng xóm của bạn đến mấy đi chăng nữa, cho dù ông ấy có tài đức và ham hoạt động xã hội đến mấy, bạn cũng chẳng biết làm cách nào để đưa ông ấy vào chính trường, làm lãnh đạo, hoặc thấp nhất là vào Quốc hội, “cho thiên hạ nhờ”.

Và cả bạn nữa, giả sử bạn muốn tham gia chính trường Việt Nam, bạn có thể làm gì? Tranh cử đại biểu Quốc hội chăng? Xin bạn vui lòng lưu ý: Ngay cả khi luật pháp cho phép bạn tự ứng cử đại biểu quốc hội, cũng có vô vàn rào cản vô hình khiến bạn không thể đứng ra “chường mặt” với thiên hạ. Bạn có nguy cơ bị gắn nhãn “hoang tưởng”, “háo danh”, “tham vọng hão huyền”…

Các bên phải được tự do cạnh tranh

Có nghĩa là: Các ứng viên phải được tự do vận động tranh cử, còn các cử tri phải được tự do tìm hiểu về ứng viên và tự do thể hiện quan điểm. Tiêu chí này đòi hỏi một điều kiện bắt buộc đi trước: tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Nếu có bầu cử giữa đảng Cộng sản Việt Nam, đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, đảng Bia của ông Từ Anh Tú (đạt tiêu chí “hai ứng viên trở lên”), nhưng 700 tờ báo, đặc biệt các cơ quan truyền thông quan trọng như VTV, VOV, hay các báo mà trong tên có từ “nhân dân”, đều chỉ đăng bài ca ngợi “Đảng ta” và/hoặc cương lĩnh của ứng viên “Đảng ta”, thì bầu cử không còn là tự do nữa.

Bush và Al Gore trong cuộc tranh luận truyền hình đầu tiên, ngày 3/10/2000.

Ảnh: Don Emmert, AFP.

Tương tự, cử tri phải được cung cấp thông tin minh bạch, đầy đủ, về các ứng viên, chẳng hạn họ có quyền biết ông Nguyễn Phú Trọng – ứng viên của đảng Cộng sản Việt Nam – có những năng lực gì, chương trình hành động thế nào, gia cảnh ra sao, thu nhập bao nhiêu, v.v.

Bên cạnh tất cả những cái đó, nếu lực lượng công an cứ sốt sắng nhằm người nào có xu hướng ủng hộ đảng Bia, đảng Dân chủ Xã hội mà đến “thăm hỏi”, “trao đổi”, “vận động”, thì bầu cử cũng không còn ý nghĩa. 

Phổ thông đầu phiếu

Mọi công dân đều có quyền bỏ phiếu, bất kể giới tính, khuynh hướng tình dục (đồng/dị tính luyến ái), sắc tộc, tôn giáo/ tín ngưỡng, thành phần xã hội, v.v. Và, bạn hãy lưu ý là công dân cũng có quyền không bỏ phiếu, không đi bầu. Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng người dân lười đi bỏ phiếu đến mức ở một số nước, ví dụ như Úc, chính phủ đã phải áp luật phạt tiền người không chịu tham gia bầu cử.

Việc bỏ phiếu cũng phải xuất phát từ sự lựa chọn sáng suốt và tự nguyện của cử tri, không phải là kết quả của việc họ bị đe dọa, ép buộc hay lừa đảo. Ở ta lâu nay có câu đùa, nhưng cũng đúng sự thật, là: “Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận nhưng không bảo đảm quyền tự do sau ngôn luận”.

“Rút kinh nghiệm” từ đó, bầu cử tự do nghĩa là công dân phải có quyền tự do bỏ phiếu và cả quyền tự do sau khi bỏ phiếu. Giả sử đảng Bia của ông Từ Anh Tú được bình đẳng với đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đi vận động, nhưng cử tri nào ủng hộ đảng Bia cũng nơm nớp lo bị “xử lý” sau bầu cử và do đó họ không dám bầu cho người của đảng Bia, thì bầu cử mất ý nghĩa.

Mọi lá phiếu đều quan trọng như nhau

Điều đó tức là lá phiếu của công dân Từ Anh Tú cũng quan trọng và có ý nghĩa hệt như lá phiếu của công dân Nguyễn Phú Trọng hay công dân Lê Hiếu Đằng. Lá phiếu của ông Trọng không thể được tính ngang giá với hai, ba hoặc nhiều hơn lá phiếu khác.

Chính xác, trung thực, độc lập, minh bạch…

Một điều kiện quan trọng nữa để đảm bảo bầu cử tự do là toàn bộ quá trình hiệp thương (tức là chốt danh sách ứng viên, bố trí ứng viên nào về đơn vị bầu cử nào), kiểm phiếu, công bố kết quả, phải diễn ra chính xác, trung thực. Muốn vậy, hội đồng bầu cử phải độc lập, các thủ tục phân bổ ứng viên, tổ chức bầu cử, kiểm phiếu phải công khai, minh bạch.

Như ở ta, Mặt trận Tổ quốc – cánh tay nối dài của đảng Cộng sản Việt Nam – đứng ra đảm nhận công tác hiệp thương. Và kết quả là một nhà sử học sinh sống ở Hà Nội lại trở thành đại biểu của tỉnh Đồng Nai, hay ông giáo trường Tổng hợp lại làm đại diện của Lạng Sơn… 

----

(*) Cách xác định tiêu chí này dựa theo cuốn Governing (xuất bản lần đầu năm 1958, lần thứ 8 năm 2000, NXB Prentice Hall, Mỹ) của Austin Ranney (1920-2006)


Thứ Năm, 15 tháng 8, 2013

Đoan Trang - Hãy biết quyền của mình (1): Chụp ảnh công an


Đoan Trang


Bốn năm về trước, vào một buổi tối cuối tháng 8, tôi bị “bắt khẩn cấp” tại một quán café ở trung tâm Hà Nội, với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, vi phạm Điều 258 Bộ luật Hình sự.

Tôi vẫn nhớ rõ họ tên, vẻ mặt hầm hầm đe dọa và giọng trấn áp của viên sĩ quan an ninh đọc lệnh bắt ngày hôm đó. Tôi cũng nhớ tôi đã như thế nào những ngày sau đó: ngơ ngác, ngây ngô, và bất lực. Đã có lúc tôi bật khóc trong phòng hỏi cung vì không biết phải làm sao để cơ quan an ninh điều tra tin rằng mình không làm gì thật, không liên quan gì, và không hiểu tại sao đây lại là vấn đề an ninh quốc gia. Đã có nhiều lúc tôi tái mặt, run lẩy bẩy, vì không biết… tội đâu ra mà lắm thế, sao tôi phạm những tội nghiêm trọng thế, như thế này phải ngồi tù bao nhiêu năm đây…

Vào những ngày ấy, tôi không bao giờ nghĩ rằng bốn năm sau, tôi sẽ là một trong những người ký tên vào bản Tuyên bố 258 của Mạng lưới blogger Việt Nam, yêu cầu Nhà nước xoá bỏ Điều 258 Bộ luật Hình sự để chứng tỏ cam kết khi chạy đua vào vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ.

Nhưng có một điều tôi vẫn nghĩ suốt từ đó đến nay, và ngày càng nghĩ nhiều hơn: Luật pháp phải là công cụ bảo vệ quyền tự do của người dân, chứ không phải bảo vệ chế độ; và người dân phải hiểu luật pháp ở mức tối thiểu – tức là hiểu các quyền tự do của mình, nếu không họ sẽ bị Nhà nước lợi dụng, trấn áp, nói nôm na là “bắt nạt”.

Càng chứng kiến những vụ việc công an, an ninh lạm quyền để “được việc mình” mà gây thiệt hại cho xã hội, cho người dân, tôi càng thấy những hiểu biết căn bản về chính trị, về luật pháp, các khái niệm như nhà nước pháp quyền, tinh thần thượng tôn pháp luật, nhân quyền, v.v. đã trở thành nhu cầu khẩn thiết đối với chúng ta. Hãy biết quyền của mình. Hãy biết cách sử dụng pháp luật như công cụ để tự bảo vệ. Và khi hệ thống pháp luật đó bất ổn, hãy biết tìm cách bác bỏ nó.

Trong chừng mực trình độ rất hạn chế của mình, tôi sẽ cố gắng, cả gan làm một việc vượt quá sức, là viết những bài viết rất đơn giản về luật pháp và nhân quyền, gắn với các tình huống cụ thể trong đời thực, để chúng ta cùng tìm hiểu về lĩnh vực rộng lớn, phức tạp và đang cực kỳ cần thiết trong việc cải tạo xã hội này.

Những điều tôi viết chắc chắn không phải là chân lý, và xin để ngỏ mọi khả năng khác để độc giả thảo luận và kết luận.

Câu chuyện hôm nay bắt đầu bằng một tình huống xảy ra mới đây mà tôi có dự phần.

* * *

CHỤP ẢNH CÔNG AN

Tình huống

Vào ngày thứ sáu, 9/8/2013, một nhân viên an ninh đến nhà tôi, như đã hẹn với mẹ tôi trước đó qua điện thoại, gọi là “đến chơi, nói chuyện”. Mẹ tôi không quen biết cô ấy, còn tôi thì biết nhưng lại không có nhà, nói đúng hơn, không ở Việt Nam: Tôi đang ở Bangkok (Thái Lan) để tham gia việc trao Tuyên bố 258 cho một số tổ chức quốc tế đóng tại Bangkok.

Hôm đó trời Hà Nội mưa gió, và cô ấy đã đến nhà tôi đúng hẹn. Ngoài mẹ tôi và cô nhân viên an ninh, trong nhà còn có thêm một số bạn bè của tôi, đều là blogger. Cuộc trò chuyện, tất nhiên, chủ yếu xoay quanh tôi và công việc tôi làm. Không khí hòa nhã. Tuy nhiên, giữa chừng thì thêm một blogger xuất hiện: anh Nguyễn Chí Đức. Anh giơ máy ảnh nhằm vào nhân viên an ninh, bấm “tách”.

Nhân viên an ninh tái mét mặt, nổi giận, mắng anh Chí Đức là “vô văn hoá”, tự ý chụp ảnh mà không xin phép. Mẹ tôi can, nói rằng “đây là nhà tôi kia mà”, “anh ấy thích chụp ảnh bạn anh ấy thì có sao”. Nhưng cô nhân viên an ninh vẫn cực kỳ giận dữ, to tiếng và bỏ về, sau đó gọi điện lại nói với mẹ tôi: “Nếu bác còn mời bạn bè của Đoan Trang đến nữa thì chỉ làm khổ con bác thôi”.

Ảnh: Nguyễn Chí Đức (blogger Đông Hải Long Vương)

Vấn đề

Câu hỏi đặt ra ở đây là: Hành động chụp ảnh khi chưa xin phép người được/bị chụp của anh Nguyễn Chí Đức có sai không?

Đây là câu trả lời của tôi:

Việc anh Nguyễn Chí Đức chụp ảnh nhân viên an ninh là việc không phải xin phép, và đúng luật. Bởi vì anh Đức đang ghi hình một nhân viên công quyền, nhận tiền thuế của dân để tiến hành một công vụ, cụ thể là đi làm việc với một người dân thường (công dân).

Hành động của anh Đức nằm trong phạm trù giám sát cơ quan công quyền và nhân viên công lực. Nó hợp hiến (Điều 53 Hiến pháp, “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội”), và phù hợp với tinh thần pháp luật “công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”, “công dân có quyền giám sát nhân viên công quyền”.

Nhân viên an ninh có thể lập luận (giả định): “Nhưng tôi chỉ đến nhà bà mẹ của Đoan Trang để chơi, thăm hỏi, nói chuyện cho vui, chứ tôi không làm công vụ. Công dân Nguyễn Chí Đức chụp ảnh tôi là vi phạm Điều 31 Bộ luật Dân sự về quyền của cá nhân đối với hình ảnh”.

Câu trả lời của tôi là: Các nhân viên an ninh, công an (gọi chung là công an) lâu nay thường né tránh yếu tố “công vụ” bằng cách nói rằng họ chỉ “tiếp xúc thân tình”, “mời café, trao đổi” với “đối tượng” mà thôi, không có gì nghiêm trọng. Nhưng có 3 vấn đề ở đây:
  1. Nếu đề nghị gặp gỡ thân mật, vui vẻ, họ phải được sự đồng ý và hưởng ứng cũng vui vẻ như thế của bên kia; và câu chuyện không được liên quan tới những thông tin có thể gây bất lợi cho bên kia hoặc cho một bên thứ ba.
  2. Nếu đề nghị gặp gỡ thân mật, công an không được tự giới thiệu rằng họ là nhân viên công quyền; trong thời gian gặp, tuyệt đối không được khai thác thông tin và không được sử dụng thông tin thu được (nếu có) vào bất kỳ mục đích gì.
  3. Và, quan trọng nhất, khi được/bị công an “mời café, trao đổi”, “tiếp xúc thân tình”, công dân có quyền từ chối.
Toàn bộ thông tin đều cho thấy buổi thăm hỏi hôm đó của nhân viên an ninh chính xác là thi hành một công vụ, và do vậy, nhân viên công quyền hoàn toàn có thể bị công dân chụp ảnh và đưa lên mạng sau đó mà không được hỏi ý kiến trước.

Ảnh: AFP

Trích dẫn

“Việc thực hiện quay phim, chụp ảnh là quyền của người dân và đó là hoạt động thể hiện chức năng kiểm tra, giám sát của người dân đối với hoạt động của cơ quan công an. Do đó người dân sử dụng máy quay phim, chụp ảnh đối với công an không phải là sai phạm” (Thượng tướng Lê Thế Tiệm trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ, bài đăng ngày 4/12/2010 tại:http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/414203/quay-phim-chup-anh-la-quyen-cua-dan.html)

“Khủng bố tinh thần người thân và bạn bè là "nghiệp vụ" cơ bản và quen thuộc của những viên an ninh điều tra, nhất là với những người được/bị cho là bất đồng chính kiến với chính quyền. Tiếc rằng không mấy người dân hiền lành nào biết cách đối phó với những thủ đoạn có tính chất "bụi đời chợ Lớn" nhưng khoác trên mình tấm vỏ bọc màu xanh. Đôi khi sự sợ hãi làm cho nhiều người quên mất một điều cơ bản rằng: mình liên quan gì đến việc này mà phải khai báo với mấy ông công an về chuyện của con mình, bạn mình? Hậu quả là, họ càng sợ hãi bao nhiêu, công an càng khai thác họ nhiều bấy nhiêu” (Luật gia - nhà báo Trịnh Hữu Long).



Hãy biết quyền của mình (2): Chống bắt giữ tùy tiện

Tình huống

Vào 19h30 ngày thứ ba, 13/8/2013, một nhóm 6 bạn trẻ đang cùng học tiếng Anh ở một căn hộ trong ngõ Giếng Mứt (phố Bạch Mai, Hà Nội), thì chủ nhà gọi điện cho bạn Trần Quang Trung (là người thuê nhà), bảo xuống mở cửa. Trung xuống nhà, vừa mở cửa thì có hai người lạ mặt ập vào, một trong hai kẻ này bóp cổ Trung để khống chế, kẻ còn lại giật điện thoại của Trung.

Sau đó, có khoảng 20 người – dáng vẻ như dân phòng, công an mặc thường phục – xông vào nhà, kéo lên gác, bắt mọi người xuất trình giấy tờ và bỏ hết điện thoại đặt lên bàn. Trong số đó, chỉ có một người mặc đồ công an. Họ cầm theo ba máy quay phim, chĩa vào mặt nhóm bạn trẻ, ghi hình liên tục.

Một bạn trẻ, tên là Thùy Linh, lên tiếng yêu cầu toán người xuất trình giấy tờ và dừng quay phim, nếu không họ có thể bị kiện về tội xâm nhập gia cư bất hợp pháp. Song, không ai trong số những kẻ đột nhập xuất trình giấy tờ. Một bạn trẻ khác, Hồ Đức Thành, rút điện thoại định gọi cho bạn thì trong số người đột nhập, một kẻ hét lên: “Tôi là dân phòng ở đây, hôm nay tôi đến kiểm tra tạm trú tạm vắng, yêu cầu anh ngồi im”. Do Thành không chịu “ngồi im”, nên đồng chí “dân phòng” này xông vào giật điện thoại của Thành, xô đẩy và làm vỡ một tấm kính trong nhà.

Tới 20h30, tất cả nhóm bạn trẻ bị áp giải về công an phường Trương Định. Tới nơi, công an phường yêu cầu mọi người bỏ điện thoại và máy tính ra để niêm phong, “tạm thời thu giữ, làm việc xong sẽ trả”. Mỗi chiếc điện thoại đều được đựng trong phong bì niêm phong, lấy chữ ký giáp lai của mọi người. Mỗi máy tính cũng đều được dán băng dính niêm phong và lấy chữ ký giáp lai.

Một người mặc thường phục bảo công an phường lập biên bản tạm giữ số đồ đạc, có người giao, người nhận và người làm chứng. Công an phường làm theo. Các bạn trẻ không biết biên bản ghi những gì, không ký và cũng không được giữ bản nào.

Sau đó, toàn bộ máy tính, điện thoại, biên bản đều bị mang đi. (Biên bản không có chữ ký của người bị thu đồ mà chỉ có chữ ký của công an và người làm chứng của phía công an). Còn cả nhóm thì bị chia nhỏ để “làm việc”: Người bị đưa về công an quận Hai Bà Trưng, người bị thẩm vấn ngay tại công an phường Trương Định. Các câu hỏi xoay quanh: nhân thân, tại sao biết lớp học tiếng Anh này, tham gia lâu chưa, ai tổ chức, giáo trình ai soạn, nội dung có liên quan gì đến chính trị-pháp luật không, mọi người có tham gia tổ chức chính trị nào không, có biết anh A, chị B… không, v.v.

Cuối cùng mọi người được thả ra, nhưng một số máy tính và điện thoại vẫn bị giữ.

Nguồn ảnh: ẩn danh

Vấn đề

Câu hỏi đặt ra là: Việc làm của cơ quan công quyền (nếu thực đó là cơ quan công quyền) có gì sai luật?

Câu trả lời: Đây là một trường hợp điển hình của việc “bắt giữ tùy tiện”.

Bắt giữ tùy tiện là hành vi bắt giữ người mà không có chứng cớ về việc người đó phạm tội, và/ hoặc hành vi bắt giữ người được tiến hành không đảm bảo trình tự, thủ tục pháp lý.

Việc nhóm người tự xưng là công an (trong đó chỉ có một người mặc đồ công an, và không ai xuất trình giấy tờ chứng minh thân phận của họ) ập vào nhà bắt nhóm bạn trẻ về đồn, vào ban đêm, mà không có lệnh bắt, chính là “bắt giữ tùy tiện”, vì không kèm theo chứng cứ phạm tội mà cũng không đảm bảo thủ tục pháp lý, chẳng hạn, thiếu lệnh bắt.

Theo Điều 80 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

• Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.

• Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. (…)

• Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã (…).

Nhóm công an (cứ giả sử họ là công an thật) bắt các bạn sinh viên về đồn vào ban đêm, tịch thu tài sản (điện thoại và máy tính) mà không có lệnh bắt, trong khi đó, tất cả các bạn đều hoàn toàn không phạm tội quả tang, không thuộc diện truy nã.

Như vậy, đã đúng là “bắt giữ tùy tiện” chưa, thưa cơ quan công an?

Các sai phạm khác của CA

Trong vụ bắt người tùy tiện tối 13/8, cơ quan công an còn vi phạm Điều 31 Bộ luật Dân sự về “quyền của cá nhân đối với hình ảnh” khi họ dùng camera ghi hình các bạn trẻ: Công dân có quyền đối với hình ảnh của mình; việc sử dụng hình ảnh của công dân phải được công dân đồng ý.

Tham chiếu với bài trước (“Chụp ảnh công an”), chúng ta thấy nổi lên một nguyên tắc: Công dân có quyền quay phim, chụp ảnh nhân viên công lực; nhưng ngược lại thì không! Ở đây, phía công an đã lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tóm lại là lạm dụng sức mạnh của họ để ghi hình các công dân.

Cơ quan công an vi phạm cả Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự khi họ khám xét, tạm giữ đồ đạc của nhóm bạn trẻ mà không hề có lệnh bắt hay quyết định khởi tố vụ án. (Trình tự pháp luật là: Phải có “khởi tố” thì mới có “vụ án”, và phải có “vụ án” thì mới có việc thu giữ các đồ vật là “vật chứng và tài liệu có liên quan đến vụ án”).

Cuối cùng, cơ quan công an còn có dấu hiệu vi phạm Điều 124 Bộ luật Hình sự, “Tội xâm phạm chỗ ở của công dân”: Họ đã khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; phạm tội một cách có tổ chức, lợi dụng chức vụ, quyền hạn… Tội này có thể bị phạt tù từ một đến ba năm.




Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

Đoan Trang - Lạm dụng luật pháp - Abusing Laws

Đoan Trang

Bản tiếng Anh ở phía dưới. Scroll down for the English translation.

Vào khoảng 20h ngày thứ năm, 18/7, 69 blogger và facebooker (gọi chung là blogger) Việt Nam đã đồng loạt công bố trên mạng bản Tuyên bố của mạng lưới blogger Việt Nam. Tựa đề và nội dung chính của Tuyên bố này là yêu cầu “Việt Nam phải sửa đổi pháp luật để chứng minh cam kết tranh cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc”.


Đây là lần đầu tiên giới blogger chính trị ở Việt Nam có một hành động tập thể nhằm nói lên quan điểm chung của họ về việc Chính phủ Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (và nghiễm nhiên gạt người dân ra ngoài trong quá trình thể hiện thành tích và chạy đua vào chiếc ghế đó).

Nhà nước với “bề dày” lạm dụng luật

Thực ra, nếu có thể được bày tỏ ý kiến một cách công khai, có tổ chức và thẳng thắn hơn, các blogger có quyền nói rằng: Nhà nước Việt Nam phải chấm dứt việc lạm dụng luật pháp cho mục đích “quản lý” mà thực chất là để có lợi cho mình và gây thiệt hại cho người dân, cho xã hội.

“Để thuận tiện cho hoạt động quản lý” là cái tư duy ăn sâu bám rễ đằng sau việc Nhà nước Việt Nam sử dụng hệ thống luật pháp và các văn bản dưới luật một cách tùy tiện, thỏa thích trong hàng chục năm qua, kể từ ngày thành lập chính quyền (năm 1945).

Tuy nhiên, nếu chỉ giới hạn trong hai năm 2012 và 2013 thôi thì chúng ta cũng đã chứng kiến thứ công cụ luật pháp ấy thể hiện sức mạnh của nó trong hàng loạt chính sách ích kỷ và vô tâm của chính quyền: Nghị định quản lý Internet cấm việc công dân phát biểu “vi phạm thuần phong mỹ tục” trên mạng; Thông tư về áp dụng mẫu chứng minh thư nhân dân mới có cả tên cha mẹ; Nghị định về xử phạt xe không chính chủ; cùng hàng chục quyết định tăng giá xăng dầu rất thoải mái của Bộ Tài chính.

Một bộ luật tối quan trọng của bất cứ nền luật pháp nào là Bộ luật Hình sự cũng bao gồm rất nhiều điều khoản chứng tỏ sự lạm quyền, hà khắc tới mức vô lý của Nhà nước. Điều 79, “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, không gì khác là sự đàn áp quyền lập hội và hoạt động đảng phái, tham gia chính trị. Điều 88, “Tội tuyên truyền chống Nhà nước”, và Điều 258, “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, tiêu diệt tự do ngôn luận, cấm công dân được “nói xấu” nhà nước hay là nói những điều Nhà nước không thích nghe.

Lạm dụng luật pháp – điểm chung của các chế độ độc tài

Cần nói thêm rằng không phải chỉ chính quyền Việt Nam mới nghĩ ra việc lạm dụng luật pháp để có thể trục lợi, hoặc dành phần lợi cho mình (gọi là “tạo thuận lợi cho công tác quản lý, điều hành”) và đẩy khó khăn, thiệt thòi về phía người dân.

Sử dụng luật pháp làm công cụ trấn áp, vẽ ra luật để xiết dân, là đặc điểm chung của mọi chế độ độc tài, toàn trị. Liên Xô từng luật hóa việc đàn áp đối lập chính trị bằng Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 1927, theo đó, chính quyền có thể bắt giữ tất cả những công dân bị tình nghi là “có hoạt động phản cách mạng”, “kẻ thù của giai cấp công nhân”. Cũng nước Nga, năm 2012, chính quyền đã đưa ra một đạo luật tai tiếng nhằm vào các tổ chức phi chính phủ, kể cả tổ chức quốc tế như Ân xá Quốc tế, Giám sát Nhân quyền, và Minh bạch Quốc tế. Hàng trăm tổ chức ở Nga bị thanh tra, lục soát, thu giữ tài liệu. Luật “nhân viên nước ngoài” này của Nga bị coi như một đạo luật vi phạm nhân quyền và phá hoại xã hội dân sự.

Quyền lực nào cũng tha hóa nếu không bị kiểm soát. Nhà nước nào cũng lạm dụng luật pháp, nhưng chế độ càng độc tài thì càng lạm dụng luật pháp nhiều hơn.

Ở Việt Nam, cho đến nay, rất nhiều người, trong đó có những người ủng hộ dân chủ-tự do-nhân quyền, vẫn quan niệm rằng “gì thì gì, phải sống và làm việc theo đúng hiến pháp và pháp luật đã”, “chấp hành trước, đấu tranh thay đổi sau”. Quan điểm đó nghe có vẻ rất hợp lý, chỉ có điều người ta chưa trả lời được câu hỏi: Vậy nếu nhà nước cố ý tận dụng luật pháp làm công cụ để xâm phạm tự do của công dân, vi phạm nhân quyền, thì sao? Vẫn cứ phải chấp hành (không biết đến bao giờ)?

Không có cơ chế bảo hiến, không có tòa án độc lập, không có quốc hội đại diện thực sự, người dân Việt Nam còn biết làm gì để bảo vệ tự do của họ trước Nhà nước? Đây là lý do đưa đến câu cửa miệng của nhiều người: “Thì làm thế nào được, luật pháp trong tay chúng nó, luật là của chúng nó mà”.

Trong lúc chưa thể có một sức ép nào đó buộc chính quyền phải xem xét lại hệ thống luật pháp, đặc biệt là những đạo luật quan trọng như Bộ luật Hình sự, thì việc vận động để xóa bỏ những điều khoản vi hiến như Điều 258 có thể được xem như một bước khởi đầu.

Luật pháp, theo đúng nghĩa, là để bảo vệ tự do của người dân chứ không phải để bảo vệ quyền lợi của chính quyền. 

* * *

ABUSING LAWS 

At 8 p.m. Thursday, July 18, 69 Vietnamese bloggers and facebookers (referred to as “bloggers”) released a statement, calling the government to “amend law todemonstrate Human Rights Council candidacy commitment.”

This is the first collective action by political bloggers in Vietnam who voice their opinions about Vietnam’s running for its membership in the United Nations Human Rights Council for the 2014-2016 tenure and, during the process, ignoring the role of its people.

Much experience in abusing laws

If they were able to openly express their opinions in an organized and straightforward way, the signers must have said that the Vietnamese State must stop abusing laws for the sake of “management”, which actually aims to benefit the State at the expense of the people.

“To facilitate public management” is a deep-rooted mindset accounting for the fact that Vietnamese Government has used its system of laws, regulations and fiats at its discretion and out of its interest for dozens of years since the making of the nation in 1945.

In the two recent years alone, Vietnam has seen many repressive laws manifested in a series of irrelevant, government-oriented policies: an Internet-controlling decree preventing Internet users from “violating fine customs and traditions” (but what is a fine custom and/or tradition?); a circular on the application of a new ID card form requiring the bearer to submit their parents’ names ((what if I were an illegitimate child wanting to protect his privacy?); a decree on fining any citizen who fails to prove the ownership of their vehicle (does it mean I shall have to bring loads of documents with me whenever I go out?); and dozens of discretionary decisions by the Ministry of Finance to increase fuel prices despite skyrocketing inflation.

A crucial code of any legal system, the Penal Code, includes a range of repressive provisions. Article 79, “Carrying out activities aimed at overthrowing the people’s administration”, is nothing more than the suppression of the right to association and political participation. Article 88, “Conducting propaganda against the State”, and Article 258, “Abusing democratic freedoms to infringe upon the interests of the State”, inhibit freedom of speech in banning people to express any idea against the government or anything the government dislikes.

A common feature of dictatorships

It must be said that the Vietnamese Government is not alone in using laws for its benefits, even to seek rents literally (or “to create favorable conditions for management activities” in its euphemistic words) although that may mean “to put people at a disadvantage.”

Using legislations as a tool of repression is likely a common feature of all dictatorships and totalitarian regimes. The Soviet Union, for example, legalized repression of political opposition with Article 58 of the 1927 Russian SFSR Penal Code, according to which any suspect of counter revolutionary activities and enemy of workers is subject to detention. 85 years later, the Russian authorities issued a notorious legal policy targeting non-government organizations, including international ones such as Amnesty International, Human Right Watch, and Transparency International. Hundreds of NGOs were audited and raided, their documents confiscated. Russian “foreign agent” law is criticized for violating human rights and undermining civil society organizations.

Power always becomes corrupt if it goes without a check-and-balance system. Every state tends to abuse laws; the more dictatorial it is, the more abusive of laws it becomes.

In Vietnam, until recently, many people, including those favor liberal democracy, keep opining that “no matter what you do, you must first and foremost obey the law.” Although their opinions seem right, those people fail to answer one question, “So what if the state deliberately uses law as a tool to violate citizens’ rights? Would we obey those laws still?”

Without judicial review, an independent judiciary system or a truly representative legislature, what can the Vietnamese do to protect their freedom rights against their repressive state? This leads to a popular slip, “Then what can we do? Law is in their hands; law is theirs.”

While the Vietnamese government is still free from any pressure to conduct judicial review, especially to revise such important law as the Penal Code, an effort to urge it to abrogate unconstitutional provisions, including Article 258, can be deemed as one of the first steps.

Law, in its true sense, is created to protect the people’s liberty, not to protect the State’s interest.






Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

Đoan Trang - "Nói với mình và các bạn": Biểu tình, đình công và tẩy chay



Đoan Trang


Dưới đây là bài viết thứ bảy trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị, về sự tham gia, về tự do ngôn luận và sự phân biệt giữa tự do ngôn luận với xúc phạm người khác, về hiến pháp, quyền lập hiến và quyền tẩy chay hiến pháp, bất tuân dân sự, về kỹ thuật bầu cử và làm thế nào để có bầu cử tự do, công bằng.
Còn mục đích của bài này là nói về một vài hình thức hoạt động chính trị khác: biểu tình, đình công, và một hình thức vẫn còn tương đối xa lạ với người dân Việt Nam, đó là tẩy chay.
Phạm Đoan Trang

* * *

Kỳ 7

BIỂU TÌNH, ĐÌNH CÔNG VÀ TẨY CHAY

Sau những cuộc biểu tình (có thể chỉ vài chục, cũng có lần tới vài trăm người tham gia) ở Hà Nội và TP. HCM để chống chính sách đối ngoại hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, đến giờ, số đông chúng ta hẳn là đã hình thành một khái niệm nào đó về biểu tình – cho dù là tán đồng hay phản đối hành động đó.

Trên lý thuyết, biểu tình được định nghĩa là một hành động chính trị, trong đó nhiều người tham gia tuần hành cùng nhau nhằm thể hiện một chính kiến, ví dụ bày tỏ sự ủng hộ hoặc phản đối một cá nhân/ tổ chức/ sự việc nào đó. Việc tuần hành có thể được thực hiện bằng đi bộ, đạp xe hoặc sử dụng phương tiện khác. Việc tuần hành có thể kết hợp với gây tiếng động – gọi loa, gõ trống, khua chiêng, thổi kèn, hô khẩu hiệu, hát. Trong nhiều cuộc biểu tình ở nước ngoài, người ta còn đốt cả ảnh, hình nộm của quan chức. Tuần hành thường bắt đầu và/ hoặc kết thúc bằng một cuộc tụ tập tại một địa điểm nhất định, tại đây người ta cùng đọc và nghe diễn văn, tuyên cáo, tuyên bố, v.v. Phong toả đường đi lối lại, và ngồi bệt (tọa kháng) cũng được coi là biểu tình – trường hợp sau được gọi là “biểu tình ngồi”. 

Chẳng hạn, để phản đối chính quyền Trung Quốc tham lam, ưa gây hấn và bắt nạt các quốc gia nhỏ yếu, hoặc để phản đối chính sách đối ngoại thiếu minh bạch và thiếu nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, một nhóm công dân ở Hà Nội có thể tuần hành đến Đại sứ quán Trung Quốc hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam, tụ tập trước cổng các cơ quan này, tổ chức mít-tinh, ra thông cáo, đọc diễn văn, v.v. 

Biểu tình có thể là phi bạo lực hoặc bạo lực, hoặc lúc đầu thì ôn hoà nhưng về sau lại nảy sinh bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những người tuần hành, hoặc giữa chính những người tham gia với nhau, ví dụ nhóm ủng hộ mâu thuẫn, đánh lộn với nhóm phản đối. Cho nên, luật pháp ở các quốc gia đa phần đều loại bỏ bạo lực, chỉ chấp nhận biểu tình ôn hoà; và sự hiện diện của lực lượng công an, cảnh sát chỉ là để ngăn chặn bạo lực xảy ra. 

Một cuộc biểu tình ở Hà Nội, sáng 9/12/2012. Ảnh: AFP.

Với những hành động được chấp nhận (tuần hành, hô khẩu hiệu, hát, v.v.), các bạn có thể thấy ngay là không cuộc biểu tình nào lại không mang tính chất “gây rối trật tự công cộng” ở một mức độ nào đó. Nói cách khác, đã là biểu tình thì phải tạo chú ý, mà đã tạo chú ý thì những người biểu tình không thể không làm ồn; chưa nói đã là một cuộc tụ tập nơi công cộng thì đương nhiên phải có tổ chức. Lấy lý do “gây rối trật tự công cộng” để giải tán biểu tình chỉ là một chiêu bài để đàn áp quyền tự do tụ tập (freedom of assembly) và tự do thể hiện chính kiến (freedom of expression, còn được dịch là “tự do biểu đạt”) của người dân.

(Chúng ta sẽ bàn về những mặt hạn chế của biểu tình trong kỳ sau của bài viết này.)

Đình công – quyền của người lao động

Theo nghĩa nguyên thuỷ, đình công chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, khi những người làm công tổ chức ngừng làm việc trên quy mô tập thể để phản đối hoặc ra yêu sách nào đó với giới chủ: tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện vệ sinh, an toàn lao động, v.v. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng có khi đình công vươn ra ngoài quan hệ giữa người lao động và giới chủ và dẫn đến thay đổi trong chính sách của nhà nước, thậm chí thay đổi chính thể. Ví dụ đáng nhớ nhất là những cuộc đình công của phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan những năm 1980.

Ở Việt Nam, theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động, từ khi Luật Lao động có hiệu lực (năm 1995) cho đến năm 2012, cả nước xảy ra 4.922 cuộc đình công (nguồn: Dân Trí ngày 6/4/2013). Bài báo của Dân Trí cũng cho biết, hầu hết đình công đều tự phát, “100% không do công đoàn cơ sở tổ chức và lãnh đạo”, “không theo đúng trình tự pháp luật quy định, có xu hướng lây lan từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác”.   

Nếu điều này là có thật, nhà hoạch định chính sách có trách nhiệm sẽ phải nhận thấy ít nhất hai câu hỏi đặt ra: 1. Trình tự pháp luật quy định có vấn đề gì không? 2. Công đoàn cơ sở đã thật sự đại diện cho người lao động chưa? Trong một xã hội dân chủ, nếu nhà hoạch định chính sách không nhận ra vấn đề thì sẽ có những cá nhân, tổ chức dân sự vận động để ông/bà ta phải “làm gì đó cho công nhân đi”, bằng không sẽ mất chức. Ở Việt Nam thì chưa được như vậy, thậm chí, ngay cả chuyện bạn đến gặp Chủ tịch Công đoàn đề nghị tổ chức đình công cũng đã là việc không nên làm – vì… bạn có chắc là Công đoàn đứng về phía bạn không?

Tẩy chay các chú”

Tẩy chay là việc một số người/ nhóm (tức là cá nhân hoặc tổ chức) từ chối giao thiệp, giao dịch mua bán với một đối tượng nào đó, ví dụ một doanh nghiệp bóc lột lao động, hoặc toàn bộ hàng hoá của các doanh nghiệp bán hàng giả hàng rởm, gây ô nhiễm môi trường, đối xử thô lỗ và từng lăng mạ khách hàng v.v.

Chuyện tẩy chay không còn là mới mẻ, nhất là trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Ví dụ, ở Hàn Quốc từng có phong trào tẩy chay thịt bò Mỹ (năm 2008), còn tại Trung Quốc, khi tranh chấp biển đảo với Nhật Bản leo thang, nhiều hiệu sách Bắc Kinh đã ngừng bán các ấn phẩm của Nhật. Tương tự, doanh nghiệp xuất khẩu chuối Philippines khốn đốn khi đối tác Trung Quốc đồng loạt từ chối nhập khẩu để trả đũa Philippines trong tranh chấp chủ quyền. Ngay sau sự cố này, cơ quan xúc tiến thương mại của Philippines đã phải tính đến khả năng tìm kiếm, mở rộng thị trường hoa quả ở các nước khác, như châu Âu.

Tại Việt Nam, vào năm 1919, cũng từng có phong trào “tẩy chay các chú”, tức là tẩy chay các chú khách (doanh nhân Hoa kiều). Tinh thần chung là “người Việt Nam buôn bán với nhau, không mua hàng của Hoa kiều”. Có tài liệu nói rằng phong trào được sự hưởng ứng của cả giới doanh thương lẫn sinh viên, viên chức tại Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định… 89 năm sau, vào năm 2008, với sự cố Vedan xả nước “giết” sông Thị Vải, một chiến dịch tẩy chay đã nổi lên, khởi đầu từ những lời kêu gọi trên mạng Internet. Nhiều siêu thị lớn tại Hà Nội và TP.HCM đồng loạt ngừng phân phối sản phẩm bột ngọt Vedan. Không rõ chiến dịch này kéo dài bao lâu.

Tuy nhiên, về căn bản, tẩy chay rất hiếm xảy ra ở Việt Nam, ngay cả trong những chuyện không liên quan gì đến chính quyền, nghĩa là chẳng có gì nhạy cảm: Như các hàng “phở quát, cháo chửi” khét tiếng ở thủ đô Hà Nội chẳng hạn, chưa bao giờ họ nghĩ đến khả năng bị tẩy chay. 
Poster của một phong trào kêu gọi tẩy chay hàng hoá sản xuất tại Trung Quốc.

Một nhân viên kiểm toán xã hội ở tập đoàn Bureau Veritas từng cho người viết bài này biết: “
Người tiêu dùng có ý thức cao là người không chỉ quan tâm tới chất lượng và giá cả, mà còn rất quan tâm tới một điểm thứ ba, là sản phẩm được làm ra như thế nào. Ở các nước phát triển, người ta sẵn sàng tẩy chay một sản phẩm nếu họ biết rằng nhà sản xuất ra nó sử dụng lao động trẻ em, hay gây ảnh hưởng độc hại đến môi trường. Chỉ cần một lần vi phạm bị phát hiện, cả một thương hiệu nổi tiếng có thể đi tong”. Đối chiếu với đó, các bạn có thể thấy là người tiêu dùng Việt Nam còn chưa có ý thức bảo vệ chính mình, nói gì đến ý thức bảo vệ môi trường hay quan tâm đến quyền lợi của những người lao động khác.

Bên cạnh việc người dân thiếu hiểu biết về quyền lợi của mình, sự thiếu vắng các tổ chức dân sự đúng nghĩa cũng là nguyên nhân dẫn đến chuyện tẩy chay – với ý nghĩa là một hành động chính trị – hầu như không được sử dụng để gây áp lực. Kêu gọi tẩy chay trên mạng (như với vụ Vedan) có lẽ vẫn quá yếu, không đủ tạo hiệu quả đáng kể nào.
Đình công, biểu tình trong văn hoá chính trị Việt Nam

Trở lại với chuyện biểu tình, có thể bạn cũng đã nhận thấy đó là một hình thức hoạt động chính trị có hiệu quả đối với những người tham gia, ở chỗ nó tác động mạnh tới cộng đồng, nó gây chú ý và khiến người biểu tình có thể tạo sức ép chính trị. Nhưng đối với những người khác, nó không thể không gây thiệt hại dù ít dù nhiều: Chẳng hạn, nó cản trở quyền tự do đi lại của một số công dân, có khi là rất nhiều công dân. Với đình công cũng vậy. Trên thế giới, từng có những cuộc biểu tình và đình công của ngành hàng không, đường sắt, taxi, làm trì trệ, thậm chí gây tê liệt giao thông của cả một thành phố.   

Do vậy, để nhìn nhận sự việc một cách khách quan, đến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào các khía cạnh có thể gây tranh cãi của biểu tình trong bối cảnh văn hoá chính trị Việt Nam, nơi số đông dân chúng vẫn giữ tâm lý sợ nhà nước, chưa suy nghĩ nhiều về nhân quyền và chưa biết cách “thực hành dân chủ”.

Tuy nhiên, đó là câu chuyện của kỳ sau.


Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013

Đoan Trang - “Nói với mình và các bạn”: Kiện, tại sao không?



Đoan Trang

Dưới đây là bài viết thứ sáu trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị, về sự tham gia, về tự do ngôn luận và sự phân biệt giữa tự do ngôn luận với xúc phạm người khác, về hiến pháp, quyền lập hiến và quyền tẩy chay hiến pháp, bất tuân dân sự. 


Còn mục đích của bài này là nói về một vài hình thức hoạt động chính trị khác, trong đó có một hình thức mà có thể nhiều người trong số chúng ta không ngờ rằng đó chính là “hành động chính trị”: việc chúng ta đâm đơn và theo đuổi kiện tụng nói chung. 

* * *

Kỳ 6:

KIỆN, TẠI SAO KHÔNG?

Năm 2012, UBND TP. Hà Nội có một báo cáo, theo đó, trong 9 tháng đầu năm đã có “178 đoàn đông người đi khiếu kiện”, nổi bật như “vụ việc của 100 công dân phường Dương Nội, 70 người phường Kiến Hưng, 40 người phường Yên Nghĩa (Hà Đông), 150 tiểu thương chợ Nghĩa Tân (Cầu Giấy), đoàn 200 người dân xã Tiên Dương (Đông Anh), bệnh binh 5 xã ở huyện Quốc Oai, 160 người dân phố Tân Mai (thị xã Xuân Mai)...”. (nguồn: VnExpress, 27/9/2012)

VnExpress dẫn lời Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị kể, buổi sáng ông mở cửa là đã thấy dân đứng chờ đưa đơn, 19h trở về nhà cũng có người chờ đưa đơn, chưa kể ở cơ quan cũng thường nhận đơn khiếu nại. 

Nếu hiện tại, bạn đang là người không có gì liên quan đến “cửa quan”, thì nghe nói vậy, chắc bạn cũng thấy… sốt ruột. Cho nên, có thể bạn sẽ đồng tình với ý kiến của Chủ tịch TP Hà Nội, ông Nguyễn Thế Thảo. Ông Thảo bảo, việc bà con đi kiện, “mặc áo màu Quốc kỳ, mang theo khẩu hiệu đòi đất đã làm xấu hình ảnh thủ đô, ảnh hưởng đến ngoại giao”. Tất nhiên, ông cũng thừa nhận, khiếu kiện là “bày tỏ nguyện vọng cá nhân”. 

Dù sao cũng may cho ông Thảo là ông phát biểu như vậy ở Việt Nam. Chứ nếu ông phát ngôn tương tự tại một quốc gia dân chủ, nơi có nền truyền thông phát triển và (phần nào vì thế) nhận thức chính trị của người dân cao hơn, ông có thể phải lãnh nhiều hậu quả nghiêm trọng sau đó: bị báo chí phê phán, bị công chúng khiển trách, thậm chí bị mất chức. Có lẽ bạn cũng thấy: Ở các quốc gia dân chủ, quan chức rất hạn chế việc chê dân – kể cả khi dân sai đi nữa. Huống chi, kiện tụng lại còn là một hình thức sinh hoạt chính trị của người dân. 

“Đáo tụng đình”, có gì mà vô phúc

Khiếu kiện (khiếu nại + khởi kiện) là việc một cá nhân/ tổ chức yêu cầu cơ quan hành chính (trong trường hợp khiếu nại) hoặc toà án (trong trường hợp khởi kiện) buộc một cá nhân/ tổ chức khác phải làm, hoặc ngừng làm, điều gì đó. Đối chiếu với cách hiểu “hoạt động chính trị, theo nghĩa rộng, là tất cả những gì bạn làm để tạo áp lực lên một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức, nhằm thuyết phục họ hành động như ý bạn muốn”, thì bạn sẽ thấy khiếu kiện cũng là hành động chính trị. 

Quốc gia vô địch về việc người dân tham gia chính trị bằng cách kiện có lẽ là Mỹ. Tại đây, chuyện một công dân đâm đơn kiện quan chức chính quyền hoặc công dân khác xâm hại quyền lợi của mình là “chuyện thường ngày ở huyện”. Hàng xóm không chăm sóc vườn, để cây leo mọc tràn lan sang vườn nhà mình: kiện. Đi xin việc, công ty tuyển dụng ưu tiên người ngoại hình đẹp: kiện. Uống café nóng bị bỏng: kiện. Để tăng khả năng thắng kiện thì phải thuê luật sư, kết quả là nước Mỹ có mật độ luật sư trên đầu người cao nhất thế giới. Nhà khoa học chính trị Austin Ranney đưa ra con số, cứ 440 người Mỹ thì có một luật sư, trong khi ở Nhật Bản tỷ lệ này là 10.000:1. 

Quá nhiều luật sư, điều này đã khơi nguồn cho nhiều chuyện cười ở Mỹ và về Mỹ, như là quốc gia đầy một bọn ăn không ngồi rồi, rảnh rỗi sinh ra đâm bị thóc chọc bị gạo v.v. Nhưng nhìn từ góc độ chính trị, quản lý xã hội, thì sẽ thấy đó là biểu hiện của việc người Mỹ tin vào luật pháp, luôn có ý thức sử dụng luật pháp làm công cụ giải quyết các rắc rối và bảo vệ quyền lợi của mình. Trong văn hoá chính trị Mỹ, không có khái niệm “vô phúc đáo tụng đình” – nghĩa là vô phúc thì mới phải đến chỗ xử kiện, ra toà, tóm lại là “đến cửa quan” – như ở Trung Quốc hay Việt Nam ta. 

Chắc chắn rằng, không một quan chức nào trong bộ máy chính quyền Mỹ dám nói dân chúng “đi kiện làm xấu hình ảnh đất nước”; và nói chung là hệ thống tư pháp Mỹ không đợi đến khi dân chúng kéo nhau đi khiếu kiện tập thể thì mới “xin chủ trương giải quyết”. 

Thực tế nào đáng lo ngại?

Xu hướng gần đây của quan chức Việt Nam và những người ủng hộ chính quyền là vin vào chuyện người dân khiếu kiện sai để tìm cách “xiết” hoạt động này lại. Ví dụ, UBND TP. Hà Nội cho rằng: “Năm 2012, trong 23.629 đơn thư khiếu nại-tố cáo có nội dung chủ yếu liên quan đến các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, giải phóng mặt bằng, quản lý trật tự xây dựng, giao đất nông nghiệp, chỉ có 12% khiếu nại đúng, 14% khiếu nại có đúng, có sai, còn lại có tới 70% khiếu nại sai”. Quan chức coi đây như một “thực tế đáng lo ngại”, và từ đó, có ý kiến là phải tìm kiếm chế tài cụ thể để xử lý các trường hợp khiếu nại-tố cáo sai sự thật. (nguồn: Hà Nội Mới, 13/4/2013)

Ở đây, xin các bạn chú ý: Nếu tố cáo sai sự thật (tức là bịa đặt người khác phạm tội), theo luật pháp Việt Nam hiện hành, người tố cáo có thể phải chịu hình phạt cho tội vu khống. Nhưng với khiếu nại, kiện tụng, không nền luật pháp tiến bộ nào lại quan niệm đó là “thực tế đáng lo ngại” do người dân gây ra và cần chế tài xử lý. Nếu có vấn đề gì nghiêm trọng với việc khiếu nại xảy ra nhiều quá, thì vấn đề đó nằm ở chỗ chính quyền: Họ đã làm gì, đã ra quyết định hay chính sách gì sai lầm để khiếu nại tràn lan? (Theo định nghĩa của Luật Khiếu nại-Tố cáo 2011, khiếu nại hiểu nôm na là công dân đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước). 

Thực tế đáng lo ngại ở đây là: 1. Pháp luật chưa được sử dụng như một công cụ hiệu quả để bảo vệ người dân; 2. Nhận thức chính trị yếu kém của quan chức Nhà nước. 

Hãy biết bảo vệ mình!

Còn bạn, những lúc bạn hoặc người thân của bạn dính líu vào tranh chấp, mâu thuẫn, hay cảm thấy quyền lợi chính đáng của mình bị thiệt thòi, đã bao giờ bạn thử nghĩ tới chuyện đi kiện chưa? Bạn hãy quan niệm đó là một việc bình thường để tự bảo vệ mình và bảo vệ người có liên quan. Có khi chỉ đơn giản như là trường hợp ba sinh viên Đại học Luật TP.HCM mới đây đã gửi thư yêu cầu Đoàn trường xin lỗi họ vì hành vi xâm phạm bí mật đời tư (tự tiện công bố kết quả học tập của hai sinh viên lên mạng), và nếu Đoàn không chịu xin lỗi, họ sẽ kiện.  

Đây là một câu chuyện có thật, để các bạn tham khảo: Một nữ nhân viên văn phòng 29 tuổi ở Hà Nội cho biết, chị nhớ như in nỗi xấu hổ của mình vào năm thứ ba đại học, khi chị là sinh viên duy nhất trong lớp thi trượt một môn chuyên ngành. Điều này được giáo viên bộ môn thông báo công khai trước hơn 100 sinh viên của lớp và những tràng cười nhanh chóng lan đi khắp cả khoa, vì môn đó được cho là rất dễ, tưởng như ai thi cũng đỗ. 

Đặt sang một bên những chuyện như “sự tế nhị”, “phép lịch sự”, “tâm lý sư phạm” v.v. thì cái đáng nói ở đây là ý thức về quyền riêng tư: Người dân Việt Nam gần như không có khái niệm về nó, nên nhiều khi vô tư vi phạm quyền riêng tư của người khác và cũng không có ý thức bảo vệ sự riêng tư của bản thân mình. Và chúng ta lại càng chưa biết, chưa nghĩ đến việc dùng đến công cụ luật pháp để “đòi lại công bằng cho bản thân”, khi quyền ấy cũng như nhiều quyền khác bị xâm phạm. Nhưng lỗi không hoàn toàn thuộc về chúng ta, bởi thực tế là chính quyền đâu có thích chúng ta đi kiện, “làm xấu hình ảnh đất nước”. 

Kỳ sau: Biểu tình, đình công và tẩy chay