Thứ Sáu, 19 tháng 5, 2023

Truyện Ngắn Mạc Ngôn: Con Bò (Bull), Ngu Yên chuyển ngữ

Mạc Ngôn (Giải Nobel Văn học 2012). Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của Howard Goldblatt và giới thiệu.

Mạc Ngôn, (Mo Yan 㥿㿔), tên khai sinh Guan Moye ᄣ䇳Ϯ năm 1955, được trao giải Nobel Văn học năm 2012, sản phẩm phong phú phong cách sáng tạo đã mang lại cho ông gần như mọi giải thưởng quốc gia tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) kể từ khi bắt đầu xuất bản năm 1981. Ông cũng đã giành được danh tiếng quốc tế với kịch bản phim “Cao Lương Đỏ” (Red Sorghum) (㑶指㊅, 1987). Mạc Ngôn đã góp phần định hình dòng tiểu thuyết Trung Quốc bằng cách giới thiệu một phong cách văn học pha trộn giữa hiện thực siêu nhiên, giống như hiện thực hóa ảo của Gabriel García Márquez. Ông công nhận điều này” (Mạc Ngôn 1991: ix), mặc dù đã không đọc cuốn tiểu thuyết này cho đến sau khi viết tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Cao lương đỏ (㑶指㊅ᆊᮣ฀, 1986).

Tác phẩm oella “Củ cà rốt trong suốt” (䗣฀㑶㧱, 1984), đã ngay lập tức khiến Mạc Ngôn nổi tiếng nhờ những miêu tả sắc nét, mờ ảo đến mức siêu thực. Bởi cốt truyện lấy bối cảnh ở một vùng nông thôn trong Cách mạng Văn hóa, tác phẩm của Mạc Ngôn được xác định một phần của phong trào “văn học tìm về cội nguồn” (ᇏḍ฀ᄺ) đương đại. Tuy nhiên, khác với nhiều nhà văn trong cùng trào lưu, Mạc Ngôn không phải thanh niên thành thị “bị gửi xuống” xa lạ với nông thôn, thực tế, ông sinh ra trong một gia đình nông dân, và nhiều tác phẩm của ông tả cuộc sống ở quê hương.

***

Chính Cũ A người đã phát minh ra phương pháp khoa học đưa nước có áp suất vào động mạch phổi của động vật bị giết mổ, làm gia tăng cân nặng. Với phương pháp này, có thể đổ một xô nước đầy vào con lợn hai trăm ký, trong khi với phương pháp cũ, chỉ có thể đổ nửa xô nước vào xác con bò chết. Con số mà đám dân thị trấn khôn ngoan đã trả tiền nước cho phát minh mới của làng chúng tôi, chắc chắn là những số lớn đến kinh ngạc, nhưng họ tưởng lầm đã trả tiền mua thịt.

Cũ A có cái bụng phệ và đôi má hồng hào. Giọng vang lên như tiếng chuông ngân. Nói một cách dễ hiểu, ông được sinh ra để trở thành quan chức giàu có. Sau khi lên vị trí trưởng thôn, ông quên mình đã dạy cho những người cùng làng phương pháp bơm nước và đã từng lãnh đạo phong trào làm giàu bằng mưu mẹo ở địa phương. Một số dân làng giận dữ lên tiếng và một số khác tấn công bằng dán bích chương trên tường, gọi ông là thành viên của giai cấp địa chủ trả thù, những người đã cố gắng lật đổ sự cai trị của giai cấp vô sản trong làng. Nhưng nói chuyện như thế đã lỗi thời. Qua hệ thống loa thông tin trong làng, Cũ A tuyên bố, “Rồng sinh ra rồng, phượng sinh ra phượng, con chuột được sinh ra chỉ để đào lỗ.” Một thời gian sau, chúng tôi nhận ra ông giống như bậc thầy võ thuật, sư phụ sẽ không bao giờ truyền lại tất cả kỹ năng cho đệ tử. Họ luôn giấu lại một thế võ để phòng thân.

Thịt gia súc của Cũ A cũng bơm nước như thịt của người khác, nhưng tươi và có mùi thơm hơn. Có thể để ngoài nắng suốt hai ngày mà không hư, trong khi thịt của những người khác sẽ bị lên giòi nếu bán không được trong ngày đầu tiên. Vì vậy, Cũ A không bao giờ phải lo lắng về việc giảm giá nếu nguồn cung ứng của mình không bán được ngay; thịt trông ngon không bao giờ có nguy cơ không bán được.

La Đồng, cha tôi nói, Cũ A đã tiêm vào thịt gia súc của ông không phải nước mà là chất formaldehyde. Cha tôi thông minh hơn Cũ A nhiều. Ông chưa bao giờ học vật lý, nhưng biết tất cả về điện âm dương; chưa bao giờ đi học, nhưng là một chuyên gia về tinh trùng và trứng; ông không học hóa học, nhưng biết rõ, formaldehyde có thể giết chết vi khuẩn, giữ cho thịt không bị hư và ổn định protein. Ông đoán Cũ A đã làm như vậy. Nếu việc làm giàu nằm trong kế hoạch của cha tôi, thì ông ta sẽ không gặp khó khăn gì khi trở thành người giàu nhất làng, tôi bảo đảm như vậy. Nhưng ông là một con rồng trong số những người đàn ông, và những con rồng không có hứng thú với việc tích lũy tài sản.

Ai đã từng thấy những con vật như sóc và chuột đào hang để chứa thức ăn, nhưng ai đã từng thấy con cọp, chúa tể của các loài động vật, làm điều gì giống như vậy không? Cọp dành phần lớn thời gian để ngủ trong hang, chỉ ra ngoài khi cơn đói nhắc nhở đi săn mồi. Tương tự như vậy, cha tôi dành phần lớn thời gian của mình để ẩn náu, ăn, uống và vui chơi, chỉ ra ngoài khi cơn đói hành hạ ông để tìm kiếm tiền thu nhập. Ông chưa bao giờ giống Cũ A và những người cùng loại đó, những người tích lũy tiền máu, thọc con dao màu trắng vào rồi lấy ra màu đỏ. Ông cũng không quan tâm việc xuống ga xe lửa để kiếm tiền công đổ mồ hôi trán như một số người đàn ông nhà quê thô thiển hơn. Cha kiếm sống bằng trí thông minh.

Vào thời cổ đại, có một đầu bếp nổi tiếng tên là Bảo Đình, ông là một chuyên gia mổ bò. Ở thời hiện đại, có một người là chuyên gia trong việc đánh giá gia súc, đó là cha tôi. Trong mắt Bảo Đình, những con bò chẳng là gì ngoài xương và thịt để ăn. Cha tôi cũng thấy như vậy. Tầm nhìn của Bảo Đình sắc như dao; nhãn quan cha tôi cũng sắc như dao và chính xác như cân lượng. Điều tôi muốn nói: nếu bạn dẫn một con bò còn sống đến trước mặt cha tôi, ông ấy sẽ đi hai vòng quanh nó, nhiều nhất là ba vòng, thỉnh thoảng thò tay vào dưới chân trước của con vật - chỉ để biểu diễn - rồi tự tin tuyên bố sức nặng và lượng thịt trên xương của nó, luôn ở mức sai biệt một ký lô so với tổng số trọng lượng trên thang cân điện tử, được sử dụng trong lò mổ gia súc lớn nhất nước Anh. Lúc đầu, mọi người nghĩ cha tôi chỉ là một cái túi gió, nhưng sau nhiều lần khi thử thách, họ đã tin tưởng. Sự hiện diện của ông đã loại bỏ sự may mắn mù quáng ra khỏi phương trình giao dịch giữa những người chăn nuôi gia súc và những người bán thịt, đồng thời thiết lập một cơ sở công bằng. Khi cha tôi đã có thế lực, cả những người chăn gia súc và những người bán thịt đều tán tỉnh ông, hy vọng có được lợi ích. Nhưng, là một người có tầm nhìn xa thấy rộng, ông sẽ không bao giờ đánh đổi danh tiếng bằng những món lợi nhỏ, vì làm như vậy sẽ tự đập vỡ bát cơm. Nếu một người chăn bò đến nhà chúng tôi với món quà rượu và thuốc lá, cha tôi sẽ ném chúng ra đường, sau đó leo lên bức tường khu vườn, chửi bới ầm ĩ. Nếu một người bán thịt đến với món quà đầu heo, cha tôi ném nó ra đường, sau đó leo lên bức tường, chửi rủa. Cả những người chăn gia súc và những người bán thịt đều nói, La Đường là một tên ngốc, nhưng là người công bằng nhất mà họ biết.

Mọi người hoàn toàn tin tưởng ông. Nếu một giao dịch đi vào bế tắc, các bên sẽ nhìn vào ông để đồng thuận họ muốn mọi việc được giải quyết ổn thỏa. "Bớt tranh cãi đi, nghe La Đồng nói cái gì!" “Được rồi, chúng ta hãy đồng ý điều đó. La Đồng, anh người phán xét!” Với vẻ vênh váo, cha tôi thường đi vòng quanh con vật hai lần, không nhìn người mua cũng như người bán, rồi ngước nhìn lên trời và tuyên bố tổng số trọng lượng thịt và xương, tiếp theo là giá cả. Sau đó, ông sẽ đi loanh quanh để hút một điếu thuốc. Người mua và người bán sẽ đưa tay ra và đập tay nhau. Tốt! Đó là một thỏa thuận! Sau khi giao dịch hoàn tất, người mua và người bán sẽ đến gặp cha tôi và mỗi người sẽ đưa cho ông một tờ mười nhân dân tệ và cảm ơn ông về công sức lao động. Điều cần phải nói rõ, trước khi cha tôi xuất hiện tại các cuộc đấu giá gia súc, các giao dịch đã được thương lượng bởi những tay môi giới kiểu cũ, những ông già đen đúa, hốc hác, khốn khổ, một số còng lưng xếp hàng, những người thông thạo các cuộc đấu giá, nghệ thuật mặc cả bằng dấu hiệu ngón tay giấu trong ống tay áo rộng, chồng lên nhau, do đó tạo cho nghề này một không khí bí ẩn. Cha tôi đã đẩy những kẻ môi giới gian xảo ra khỏi sân khấu lịch sử một cách hiệu quả. Tiến bộ đáng chú ý này trong việc mua và bán gia súc trên móng, nếu phóng đại một chút, có thể gọi là cách mạng. Con mắt tinh tường của cha tôi không chỉ giới hạn ở trâu bò mà còn cả lợn và cừu. Giống như một người thợ mộc bậc thầy có thể đóng cái bàn nhưng cũng có thể đóng cái ghế và nếu cần, với tài đặc biệt, có thể đóng quan tài, cha tôi không gặp khó khăn gì trong việc đo kích thước những con lạc đà.

Một ngày đầu hè, cha cõng tôi trên vai đến sân đập lúa. Chúng tôi vẫn sống trong căn lều ba phòng, thừa kế từ ông nội. Căn lều bây giờ trông thật tồi tàn vì nó nằm lọt thỏm giữa những dãy nhà mới xây mái ngói đỏ, giống như một kẻ ăn xin quỳ xin bố thí trước đám địa chủ và thương nhân giàu có mặc lụa là, sa tanh. Bức tường xung quanh sân chỉ cao đến thắt lưng của người lớn và mọc đầy cỏ dại. Nhờ có người cha háu ăn, lười biếng, chúng tôi đã sống cuộc đời cơ cực, với những nồi thịt đầy trên bếp trong thời gian thuận lợi và những chiếc nồi trống rỗng trong thời kỳ tồi tệ. Bất cứ khi nào ông là mục tiêu những lời chửi mắng điên cuồng của mẹ, ông sẽ nói: “Bây giờ, rất nhanh thôi, chiến dịch cải cách ruộng đất lần thứ hai sẽ trở lại, em sẽ cảm ơn tôi khi nó bắt đầu. Đừng một phút ghen tị với Cũ A, anh ta sẽ kết thúc giống như người cha địa chủ, bị một đám nông dân nghèo kéo đến đầu cầu xử bắn.” Ông sẽ nhắm một khẩu súng trường tưởng tượng vào đầu Mẹ và bắn một phát: bang! Bà sẽ ôm đầu bằng cả hai tay và mặt tái nhợt vì sợ hãi. Nhưng cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai chưa đến và không đến, người mẹ tội nghiệp buộc lòng phải mang về những củ khoai lang sùng mà người ta vứt đi để cho heo ăn. Hai chú lợn con của chúng tôi không bao giờ được ăn no đủ và chúng luôn kêu éc éc vì đói. Thật khó chịu.

Sáng hôm đó, cha giận dữ mắng mỏ: “Mày la hét cái quái vậy? Cứ tiếp tục, tao sẽ ném hai đứa khốn vào nồi để ăn tối!'

Mẹ trừng mắt nhìn ông, tay cầm con dao. "Đừng ý nghĩ như vậy. Đây hai con heo của tôi. Tôi đã nuôi chúng, sẽ không ai làm hại chúng chỉ một sợi tóc. Hoặc chết hoặc lưới bị đứt.” “Bình tĩnh nào,” Cha nói, với một nụ cười vui vẻ. "Anh sẽ không chạm vào những con vật da bọc xương đó vì bất cứ lý do gì."

Tôi nhìn lũ heo một lúc lâu - đúng là cả hai con đều không có nhiều thịt, nhưng bốn cái tai đầy thịt đó sẽ là một món ăn vặt ngon. Đối với tôi, tai là phần ngon nhất của đầu heo - không mỡ, không nhiều dầu và xương nhỏ xíu nhai rất giòn. Chúng ngon nhất với dưa chuột - loại có gai và hoa - cùng một ít tỏi nghiền dầu mè. “Chúng ta có thể ăn tai của chúng!” Tôi lên tiếng.

"Tao cắt tai mày rồi ăn trước, thằng khốn nạn này!" Mẹ nói và nắm lấy tai tôi, giật mạnh, trong khi Cha nắm cổ, cố gắng kéo tôi ra. Tôi hét lên bằng tất cả sức lực, sợ rằng tai sẽ bị xé toạc. Tiếng hét của tôi nghe như tiếng lợn kêu éc éc trong làng. Cuối cùng, Cha, với sức mạnh vượt trội, đã kéo tôi ra ngoài.

Cơn thịnh nộ khiến mặt mẹ tím tái ngắt; bà đứng bên bếp, run rẩy từ đầu đến chân. Được khuyến khích bởi sự bảo vệ của cha, tôi chửi rủa, phun ra đầy đủ tên của bà: "Dương Chân, bà già thối tha, bà đang biến cuộc sống của tôi thành địa ngục trần gian!"

Choáng váng trước sự bộc phát bất ngờ, bà chỉ nhìn sững vào tôi, trong khi Cha cười khúc khích, bồng tôi lên và chạy trốn. Chúng tôi đã ở ngoài sân khi nghe thấy tiếng khóc the thé của mẹ. “Trời ơi, chết đi, tức hộc máu, đồ khốn”

Cha gõ vào đầu tôi, nhẹ nhàng nói: “Tiểu quỷ, làm sao con biết tên mẹ?”

Tôi ngước nhìn khuôn mặt ngăm đen, u ám của cha.

"Con nghe bố nói."

"Có bao giờ bố nói với con tên mẹ là Dương Chân chưa?"

“Bố đã nói với Wild Mule (con la hoang). Bố nói, Dương Chân, bà già hôi hám đó, đang khiến cuộc sống của tôi thành địa ngục trần gian!’” Bố đưa tay bịt miệng tôi và nói nhỏ trong hơi thở, “Im đi, mẹ kiếp. Bố đã làm người cha khá tốt cho đến nay. Bây giờ, đừng gây rối, làm hỏng mọi thứ của bố.”

Mẹ bước ra khỏi nhà, tay cầm con dao. “La Đồng,” bà hét lên, “La Hiểu Đồng, hai tên khốn kiếp, lũ lưu manh. Nếu tao chết hôm nay cũng không sao, nhưng sẽ mang hai đứa bay đi theo. Hôm nay tao sẽ chấm dứt gia đình này!”

Cái nhìn khủng khiếp trên khuôn mặt bà cho tôi biết, đây không phải trò đùa. Cha tôi có thể đã sống một đời phóng túng, nhưng ông không hề ngốc. Người thông minh tránh nguy hiểm. Ông cuốn tôi lên, kẹp dưới cánh tay, quay người, chạy về phía bức tường, nhảy lên, gần như lộn nhào qua đó, bỏ lại người mẹ đang giận dữ và cả đống rắc rối sau lưng. Tôi không nghi ngờ gì về khả năng vượt tường của bà, như chúng tôi nhảy qua rồi, bà đã chọn đứng lại. Sau khi đuổi chúng tôi ra khỏi sân, bà không đuổi theo. Tự mình nhảy múa xung quanh một lúc dưới chân tường, rồi quay vào bếp để làm cho xong việc cắt những củ khoai lang sùng và lấp đầy không gian bằng những lời chửi rủa náo động. Đó là cách tuyệt vời để xả hơi: không đổ máu, không lộn xộn, không vi phạm pháp luật, nhưng tôi biết những củ khoai sùng đó là vật thay thế cho đầu của những kẻ thù cay đắng của bà.

Giờ đây, khi nghĩ lại, tôi nhận ra, kẻ thù cay đắng thực sự trong tâm trí bà không phải là cha hay tôi - mà là dì Wild Mule, người điều hành một cửa hàng rượu trong làng. Mẹ tôi tin chắc con đĩ đó đã quyến rũ cha, và tôi không thể nói đó có phải là một đánh giá công bằng về tình hình hay không. Về mối quan hệ giữa cha và Wild Mule, những người duy nhất biết ai đã quyến rũ ai, ai đã trao cái nhìn tán tỉnh đầu tiên, chỉ là hai người họ.

Khi chúng tôi đến đó, bảy hoặc tám người buôn bán gia súc đang ngồi xổm ở rìa sân đập lúa, hút thuốc, chờ đợi những người bán thịt xuất hiện. (Một khi ngôi làng chúng tôi đã bị biến thành lò mổ khổng lồ, những cánh đồng, vì mọi ý định và mục đích, đã bị bỏ hoang, và sân đập lúa đã trở thành nơi mua bán gia súc.) Gia súc đứng bên cạnh, lơ đãng - mải mê nhai ngấu nghiến, không biết gì về số phận sắp xảy ra. Các thương nhân, hầu hết đến từ các quận phía tây, nói với giọng hài hước, giống như các diễn viên đóng kịch trên đài phát thanh. Khoảng mười ngày một lần, họ lại xuất hiện, mỗi người mang theo hai đầu gia súc, có thể là ba con. Phần lớn, họ đến trên chuyến tàu chậm, hỗn hợp chở hàng và hành khách, người và thú trên cùng một toa, đến nhà ga gần làng chúng tôi nhất vào khoảng hoàng hôn. Họ không đến làng cho đến sau nửa đêm, mặc dù nhà ga cách đó không quá mười dặm. Đi bộ lẽ ra chỉ mất một hoặc hai giờ, nhưng những người lái buôn và đàn gia súc lẩn quẩn mất khoảng tám giờ. Tại sao họ muốn đến làng vào lúc nửa đêm? Đó là bí mật. Khi còn nhỏ, tôi đã hỏi cha mẹ và một số người già trong làng câu hỏi này, nhưng họ chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, như thể tôi vừa hỏi họ ý nghĩa của cuộc sống hay một câu hỏi mà ai cũng biết câu trả lời.

Đàn gia súc đến là tín hiệu để lũ chó trong làng cất tiếng sủa đồng ca đánh thức mọi người - đàn ông, đàn bà, già trẻ - và thông báo cho chúng tôi rằng những người buôn đã xuất hiện. Trong ký ức tuổi trẻ của tôi, họ là một nhóm người bí ẩn, và cảm giác bí ẩn này chắc chắn gắn liền với việc họ vào làng lúc đêm khuya. Vào những đêm trăng sáng, khi im lặng bị phá vỡ bởi tiếng chó sủa, mẹ sẽ ngồi dậy, quấn trong chăn, dán mặt vào cửa sổ, nhìn ra khung cảnh bên ngoài. Đó là trước khi cha bỏ trốn với dì Mule, nhưng đã có những đêm ông không về nhà. Không gây tiếng động, tôi cũng ngồi dậy, nhìn qua Mẹ, qua cửa sổ, những người buôn bán đang lặng lẽ lùa đàn gia súc đi ngang qua, những con gia súc mới tắm sáng lấp lánh dưới ánh trăng như những mảnh gốm sứ tráng men khổng lồ. Nếu không có tiếng vỏ cây xao động, tôi đã tưởng mình đang quan sát một khung cảnh đẹp như mơ; ngay cả với đám chó, bây giờ, nghĩ lại, chúng nó dường như là một.

Làng chúng tôi có nhiều nhà trọ, nhưng thương gia không bao giờ ngủ ở đó; họ dẫn gia súc thẳng đến sân đập lúa và đợi ở đó cho đến rạng sáng, cho dù gió có gào thét hay mưa tầm tã, cho dù không khí có lạnh buốt hay nóng nực. Có những đêm mưa bão, các chủ quán ra ngoài đánh trống quảng cáo, dù lời mời có hoa mỹ đến đâu, các thương nhân và gia súc vẫn bất động trong môi trường đối địch như những bức tượng. Có phải vì họ không muốn ra về với số tiền ít ỏi đó không? Không. Mọi người nói rằng sau khi bán gia súc, họ sẽ vào thị trấn để say lướt khướt, tiêu xài hoang phí, chỉ dừng lại khi còn đủ tiền mua một tấm vé tàu chợ trở về nhà. Phong cách sống của họ không thể khác hơn so với những nông dân. Suy nghĩ của họ cũng vậy. Khi còn nhỏ, đã hơn một lần tôi nghe một số dân làng có học hơn chúng tôi nhận xét bằng một tiếng thở dài, “Họ là loại người vậy? Cái quái gì đang diễn ra bên trong những cái đầu đó?” Khi đến chợ, họ mang theo những con bò nâu, bò đen, đực và cái, bò cái non và bò trưởng thành, có lần họ còn mang theo cả con bê cái còn đang cho con bú, có cái vú giống như bình đựng nước. Cha tôi gặp khó khăn trong việc định giá cho nó, vì ông không biết liệu bầu vú có ăn được hay không. Những người buôn bán gia súc sẽ đứng dậy khi họ nhìn thấy cha tôi. Họ đeo kính râm tráng gương vào sáng sớm, đó là một cảnh tượng ma quái, mặc dù họ mỉm cười để thể hiện sự tôn trọng. Cha tôi nhấc tôi khỏi vai ông, ngồi xổm xuống cách những người lái buôn khoảng 10 mét, lôi ra một gói thuốc lá nhàu nát và lấy một điếu cong queo, ẩm ướt ra. Những người buôn bán gia súc sẽ lấy gói của họ, và mười điếu thuốc trở lên sẽ rơi xuống đất dưới chân cha. Ông gom chúng lại và sắp đặt chúng ngay ngắn. “Lão La, đồ khốn,” một trong những thương nhân sẽ nói. “Hút chúng đi. Anh đừng nghĩ là chúng tôi đang cố mua chuộc anh bằng vài điếu thuốc tầm thường đấy chứ?” Cha chỉ mỉm cười và châm điếu thuốc rẻ tiền.

Sau đó những người bán thịt trong làng bắt đầu xuất hiện, theo cặp đôi và bộ ba, tất cả đều trông như mới tắm, mặc dù tôi có thể ngửi thấy mùi máu trên cơ thể họ, điều này chứng tỏ máu đó - dù từ bò hay heo – không thể rửa sạch. Những con gia súc, ngửi mùi máu từ những người bán thịt, nép túm rụm lại với nhau, nỗi sợ hãi lóe lên trong mắt. Phân phun ra từ đít các con bò non; những con lớn hơn trông điềm tĩnh, nhưng tôi biết chỉ là bề ngoài, vì có thể thấy đuôi chúng vểnh lên dưới mông để ngăn không cho phân lọt ra. Chân chúng run rẩy, giống như những gợn sóng trên mặt hồ khi cơn gió thoảng qua.

Các cuộc đàm phán bắt đầu ngay khi những người bán thịt đến. Họ đi vòng quanh những con vật, một người quan sát bình thường có thể nghĩ, họ đang gặp khó khăn trong việc quyết định mua con nào. Nhưng, nếu một trong số họ đưa tay chộp lấy một sợi dây, chỉ trong vòng ba giây, những người khác cũng làm như vậy, và nhanh như chớp, tất cả đàn bò đều có người mua. Không ai có thể nhớ đã từng nhìn thấy hai người bán thịt đánh nhau vì cùng tranh một con vật, nhưng nếu chuyện như thế xảy ra thì tranh chấp sẽ nhanh chóng được giải quyết. Trong hầu hết các nghề, đối thủ là đối thủ, nhưng những người bán thịt ở làng đã đoàn kết trong tình bằng hữu, sẵn sàng đối đầu với bất kỳ mọi tình huống trong tình anh em. Khi mỗi người đã cầm trên tay một sợi dây thừng, những người buôn gia súc uể oải tiến đến và bắt đầu cuộc mặc cả. Bây giờ cha tôi củng cố thế lực của mình, những cuộc đàm phán này không còn quan trọng nữa, trở thành chiếu lệ, chỉ là một phong tục, vì tất cả được giao cho ông - ông là người có tiếng nói cuối cùng. Những người đàn ông sẽ chạy đi chạy lại một lúc, rồi đi đến chỗ cha tôi, cúi đầu, giống như những người xin giấy đăng ký kết hôn ở tòa thị chính.

Nhưng điều đặc biệt xảy ra vào ngày đặc biệt này: thay vì tiến thẳng đến đàn bò, những người bán thịt lại chọn đi lui đi tới ở rìa quảng trường, nụ cười đầy ẩn ý khiến bất kỳ ai nhìn thấy cũng khó chịu. Khi họ đi qua trước mặt cha tôi, có điều gì giấu trong những nụ cười ám chỉ sự khó chịu, như thể một âm mưu đang được tiến hành, một âm mưu có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi rụt rè liếc nhìn cha, đang ngồi đó hút một trong những điếu thuốc lá rẻ tiền như mọi ngày. Những điếu thuốc lá tốt hơn được các lái buôn ném cho ông vẫn nằm nguyên trên mặt đất. Một khi thỏa thuận được ký kết, những người bán thịt sẽ đến, thu gom thuốc lá và hút chúng. Và, khi hút thuốc, họ sẽ ca ngợi cha tôi vì sự liêm khiết của ông. “Lão La,” một người sẽ nói, nửa đùa nửa thật, “nếu tất cả người Trung Quốc đều giống như ông, thì Chủ nghĩa Cộng sản đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ trước.” Cha sẽ cười nhưng không nói gì. Đây là khoảnh khắc trái tim tôi căng tràn niềm tự hào và thề rằng đây là cách tôi sẽ làm mọi việc, rằng ông là mẫu đàn ông mà tôi muốn trở thành. Những người buôn bán cũng thấy rõ ràng có điều gì đang diễn ra vào ngày hôm đó, họ quay lại nhìn cha tôi, ngoại trừ một số người lạnh lùng quan sát những người bán thịt khi họ đi lại. Một thỏa thuận ngầm đã đạt được: mọi người đang chờ xem điều gì sẽ xảy ra, giống như một khán giả kiên nhẫn chờ đợi vở kịch bắt đầu.

Mặt trời đỏ rực mọc trên cánh đồng ở phía đông, giống như khuôn mặt hồng hào của người thợ rèn, và nam diễn viên chính trong vở kịch cuối cùng cũng xuất hiện tại sân đập lúa: Cũ A, người đàn ông cao lớn, vạm vỡ với cơ bắp phát triển. Ông có bộ râu nâu rậm rạp, cùng màu với mắt, khiến bạn tự hỏi liệu ông ta có phải là người gốc Hán hay không. Ngay khi bước vào quảng trường, ánh mắt của mọi người đều đổ dồn vào ông. Ánh mặt trời chiếu xuống, khuôn mặt rạng rỡ. Tuy bước đến gần cha tôi, nhưng ánh mắt ông dán chặt vào những cánh đồng bên kia bức tường đất thấp, nơi những tia nắng ban mai làm lóa mắt. Mùa màng có màu xanh ngọc bích; những bông hoa đang nở rộ, tỏa hương thơm vào không khí; chim chiền chiện hót vang trên bầu trời đỏ hồng. Cha tôi, người dường như không ra gì trong mắt Cũ A, có lẽ cha không nên có mặt tại hiện trường. Theo lý tự nhiên, nếu cha không có ý nghĩa gì đối với ông, thì tôi thậm chí còn ít ý nghĩa hơn. Có thể ông ấy bị chói mắt bởi ánh nắng mặt trời - đó là suy nghĩ đầu tiên xuất hiện trong tâm trí non nớt của tôi - nhưng tôi nhanh chóng hiểu rằng Cũ A đang cố chọc tức cha tôi.

Khi ngẩng đầu lên để nói chuyện với những người bán thịt và thương nhân, ông mở khóa quần, lấy ra khúc thịt màu đậm và xả dòng nước tiểu màu vàng cháy ngay trước mặt cha tôi và tôi. Một mùi khai thối nồng nặc xông vào mũi. Đó là dòng suối cuộn nước; có lẽ ông đã để dành nước cả đêm, chảy không nguôi, để làm cha tôi mất mặt. Những điếu thuốc trên mặt đất rơi rớt và lăn lộn trong nước tiểu của người đàn ông này, phồng lên cho đến khi chúng biến khỏi hình dạng. Một tràng cười kỳ lạ vang lên từ nhóm đồ tể và thương nhân khi Cũ A mở quần lấy ra cái đó, nhưng họ đột ngột ngưng lại, nhanh đến mức như có bàn tay khổng lồ vươn ra và tóm lấy cổ. Họ nhìn sững vào chúng tôi, há hốc miệng và líu lưỡi, vẻ ngạc nhiên đông cứng trên khuôn mặt. Ngay cả những người bán thịt, những người đã biết Cũ A muốn gây chiến với cha tôi, cũng không thể tưởng tượng được, ông ta làm như thế này. Nước tiểu rơi xuống chân ông và trên chân chúng tôi, một số thậm chí còn bắn bọt vào mặt và miệng chúng tôi. Tôi nhảy dựng lên, tức giận, nhưng cha không hề động đậy. Ông ngồi đó như một hòn đá. "Mẹ kiếp lão bà, Cũ A!" Tôi nguyền rủa. Cha tôi không phát ra một âm thanh nào. Cũ A nở nụ cười đắc ý. Đôi mắt của cha có quầng thâm, giống như đôi mắt một người nông dân thích thú khi nhìn nước nhỏ giọt từ mái hiên.

Cũ A đái xong, kéo khóa quần bước đến chỗ đàn gia súc đang đứng. Tôi nghe thấy những tiếng thở dài từ những người bán thịt và lái buôn, nhưng không biết họ tiếc vì không có chuyện gì xảy ra hay vui vì điều đó đã không xảy ra. Những người bán thịt bước vào giữa đàn gia súc và nhanh chóng lựa chọn. Sau đó, các thương nhân bước lên và cuộc mặc cả bắt đầu. Nhưng tôi có thể nói, trái tim của họ không ở trong đó, Một thứ gì khác ngoài việc thực hiện các thỏa thuận đang ở trong tâm trí. Mặc dù họ không nhìn cha tôi, nhưng tôi chắc họ đang nghĩ về ông. Và ông đang làm gì? Ông co hai đầu gối lên và giấu mặt phía sau, giống như một con diều hâu đang ngủ trên gốc cây. Không thể nhìn thấy mặt cha, tôi không cách nào biết ông như thế nào trong lúc đó. Nhưng tôi không hài lòng với những gì coi là yếu điểm. Tôi chỉ là một cậu bé, nhưng tôi biết Cũ A đã làm nhục cha tôi tồi tệ như thế nào. Tôi cũng biết, bất kỳ người đàn ông đáng giá nào bị nhục như vậy sẽ phải trả đủa; Tôi chứng minh điều đó bằng những lời chửi bới, nhưng cha tôi vẫn im lặng, như thể ông đã chết.

Cuộc đàm phán ngày hôm đó đã kết thúc mà không có sự can thiệp của cha. Nhưng, khi họ kết thúc, tất cả các bên bước tới như thường lệ và ném một số tờ tiền dưới chân ông. Người đầu tiên làm việc này không ai khác chính là Cũ A. Tên khốn lai tạp chủng đó, rõ ràng là chưa hài lòng đủ về việc đái trước mặt cha tôi, đã rút ra hai tờ mười nhân dân tệ mới tinh và búng chúng giữa các ngón tay để thu hút sự chú ý của cha tôi. Không ảnh hưởng gì, vì ông giấu mặt sau đầu gối, điều này dường như khiến Cũ A thất vọng. Ông liếc nhanh xung quanh, rồi ném hai tờ tiền xuống chân cha tôi, một trong số chúng rơi xuống vũng nước tiểu vẫn còn bốc khói, rơi nằm trên đống thuốc lá sũng nước, đang phân hủy. Vào lúc đó, cha tôi cũng có thể đã chết. Ông đã làm mất mặt cho bản thân và tổ tiên. Ông thấp hơn một người đàn ông tầm thường, bị thu nhỏ lại bằng những điếu thuốc lèo bèo đang bơi trong nước tiểu của đối thủ. Sau khi Cũ A ném tiền xuống, các thương nhân và người bán thịt cũng đi theo ông ta, vẻ mặt thông cảm, như thể chúng tôi là hai ăn mày đáng được họ thương hại. Họ ném xuống gấp đôi số tiền họ thường cho cha tôi, hoặc như một phần thưởng cho việc không kháng cự hoặc họ cố gắng bắt chước sự hào phóng của Cũ A.

Khi tôi nhìn chăm chú tất cả những tờ tiền rơi dưới chân như rất nhiều lá khô, tôi bắt đầu khóc. Cuối cùng, cha cũng nhìn lên. Không có dấu hiệu tức giận hoặc buồn bã trên khuôn mặt. Chỉ có vẻ của một mảnh gỗ khô. Ông lạnh lùng nhìn tôi, trong mắt lộ vẻ khó hiểu, như thể không biết tại sao tôi lại khóc. Tôi đưa tay cào vào cổ ông. “Tía,” tôi nói, “ông không còn cha tôi nữa. Tôi sẽ gọi Cũ A bằng tía trước khi tôi gọi ông bằng tía.”

Bị choáng váng trong giây lát bởi tiếng hét của tôi, những người đàn ông xung quanh nhanh chóng phá lên cười. Cũ A giơ ngón tay cái lên. “Hiểu Đồng,” ông nói, “con thực sự đặc biệt, đúng như những bố cần, một đứa con trai. Từ bây giờ, con được chào đón ở nhà bố bất cứ lúc nào. Nếu con muốn thịt heo, sẽ có thịt heo, nếu muốn thịt bò, sẽ có thịt bò. Nếu con đưa mẹ đi cùng, bố sẽ chào đón cả hai với vòng tay rộng mở.”

Đó là một sự xúc phạm quá lớn để bỏ qua, vì vậy, nổi cơn giận, tôi lao vào ông. Ông tránh được đòn tấn công một cách dễ dàng. Tôi ngã úp mặt xuống đất với một vết cắt và chảy máu ở môi. Sau một tràng cười lớn, ông nói, “Đồ khốn nạn, tấn công tôi sau khi gọi tôi tía! Ai có đầu óc muốn một đứa con trai như vậy?”

Vì không ai giúp, tôi phải tự đứng lên. Bước đến bên cha và đá vào chân ông để trút sự thất vọng của mình. Điều đó không những không làm ông tức giận; thậm chí ông không nhận thức được việc đó. Ông chỉ xoa xoa mặt bằng đôi bàn tay to lớn mềm mại. Sau đó, vươn vai ngáp dài như một con mèo lười biếng, nhìn xuống đất, chậm rãi, có ý thức, cẩn thận, gom những tờ tiền đang ngâm trong nước tiểu của Cũ A, giơ từng tờ ra ánh sáng, như để chắc chắn. nó không phải là hàng giả. Cuối cùng, nhặt tờ tiền mới từ Cũ A đã bị nước tiểu làm bẩn và lau khô trên quần. Bây giờ tất cả số tiền đã sắp ngay ngắn trên đầu gối, ông cầm bằng hai ngón giữa của bàn tay trái, nhổ nước miếng vào ngón cái và ngón trỏ bên phải, rồi đếm. Tôi chạy đến giật lấy, định xé ra ném vào mặt Cũ A để trả thù cho mối nhục đã giáng xuống đầu hai cha con. Nhưng cha quá nhanh đối với tôi; ông nhảy lên và giơ cao tay trái, lẩm bẩm, “Thằng nhóc ngu ngốc, mày nghĩ mày đang làm gì vậy? Tiền tiền. không đáng trách; chỉ tại con người. Đừng trút giận lên tiền bạc.” Tôi nắm lấy khuỷu tay ông bằng bàn tay trái, cố gắng leo lên người ông để giật số tiền đáng xấu hổ đó xuống.

Tôi không có cơ hội đối với người đàn ông trưởng thành. Tôi tức điên lên, húc đầu vào hông ông hết lần này đến lần khác, nhưng ông chỉ vỗ nhẹ vào đầu tôi và nói một cách nhân từ: “Thôi đủ rồi con trai, đừng tự cao. Hãy nhìn con của Cũ A ở đằng kia kìa, nó đang nổi giận đấy.”

Đó là con bò đực Luxi to béo, có cặp sừng thẳng và lớp da mịn như lụa với những cơ bắp gợn sóng, loại bò mà sau này tôi thấy quảng cáo trên đài truyền hình. Nó có da màu vàng kim, ngoại trừ khuôn mặt, thật ngạc nhiên, màu trắng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con bò mặt trắng trước đây. Nó bị thiến, cái cách nó nhìn qua khóe mắt đã đủ dựng tóc gáy. Bây giờ tôi nghĩ lại, đó có lẽ là cái nhìn mà mọi người mô tả khi họ nói về hoạn quan. Thiến thay đổi bản chất người đàn ông; với bò đực cũng vậy. Bằng cách chỉ cho tôi con bò đực, cha đã khiến tôi quên đi số tiền, ít nhất là trong lúc này. Tôi vừa quay lại thì thấy Cũ A nghênh ngang dắt theo con bò đực của mình đi ra khỏi quảng trường. Tại sao không vênh váo, sau khi ông làm bẽ mặt người cha kiên cường của tôi? Uy tín của ông trong làng và trong giới buôn gia súc đã tăng lên rõ rệt. Ông đã đối đầu với người duy nhất coi ông không quan trọng, và đã chiến thắng; không còn ai trong làng dám coi thường ông nữa. Điều đó chỉ làm cho những gì xảy ra tiếp theo trở nên đáng kinh ngạc, đến mức, bây giờ, đã nhiều năm qua, tôi không chắc mình có tin vào điều đó hay không. Con bò đực Luxi dừng lại. Cũ A giật mạnh sợi dây kéo nó đi. Nó không phản ứng. Thậm chí không một chút cố gắng, con bò đực đã chế nhạo sức mạnh biểu diễn của Cũ A. Là một người buôn thịt gia súc, ông có mùi mà thông thường có thể khiến một con bê nhút nhát run rẩy như chiếc lá và khiến ngay cả con vật cứng đầu nhất cũng phải ngoan ngoãn chờ chết khi ông đứng trước mặt nó với con dao trên tay. Không thể khiến con bò di chuyển bằng cách giật mạnh dây buộc, ông đi vòng quanh và đập vào mông nó với một tiếng hét đinh tai nhức óc. Thông thường, hầu hết các loài động vật sẽ mất kiểm soát khi bị đánh vào mông với tiếng thét dữ dội, nhưng con bò đực Luxi này không như vậy. Vẫn đang tận hưởng ánh hào quang chiến thắng trước cha tôi, và hành động như một người lính tự phụ. Cũ A đá vào bụng con vật, không mảy may nghĩ đến bản chất con bò tót. Chà, con vật cựa mông, gầm lên một tiếng lớn, cúi đầu xuống và dùng cặp sừng hất Cũ A lên không trung, như thể ông chỉ nặng không hơn một chiếc chiếu rơm. Những người buôn bán gia súc và những người bán thịt đều kinh ngạc không nói nên lời vì những gì vừa xảy ra, không ai ra tay cứu giúp Cũ A. Con bò lại cúi đầu và tấn công. Bây giờ, Cũ A không phải là một người bình thường, khi nhìn thấy hai chiếc sừng lao tới, ông đã lăn ra tránh. Đôi mắt bừng lên tức giận, con bò quay lại tấn công lần nữa, Lão Lan thoát thân bằng cách lăn ra khỏi đường hai ba vòng.

Cuối cùng khi ông có thể bò dậy, chúng tôi thấy ông bị thương, dù chỉ nhẹ. Ông đối diện con bò, hông nghiêng sang một bên, mắt ông không rời mắt con vật dù một giây. Con bò đực cúi đầu xuống, nước dãi đọng lại ở khóe miệng và khịt mũi thật to, chuẩn bị cho cú tấn công tiếp theo. Cũ A đưa tay lên để đánh lạc hướng con bò, nhưng rõ ràng chỉ giả vờ dũng cảm. Ông trông giống như một võ sĩ đấu bò kinh hoàng, người sẽ làm bất cứ điều gì để giữ thể diện. Bước một bước thận trọng về phía trước; con bò không di chuyển. Thay vào đó, nó còn cúi đầu xuống thấp hơn, một dấu hiệu cho thấy đợt tấn công tiếp theo sắp xảy ra. Cuối cùng, Cũ A từ bỏ tư thế trượng phu của mình, hét lên một tiếng giận dữ, quay người và chạy như điên. Con bò đuổi theo, cái đuôi của nó thọc ra cứng ngắc và thẳng tắp, giống như một thanh sắt. Móng guốc đạp bùn về mọi phía, giống như tiếng súng máy phun ra; Trong khi đó, Cũ A, cố gắng trốn thoát, theo bản năng hướng về phía những người xem, hy vọng tìm thấy sự cứu trợ trong đám đông. Nhưng giải cứu ông là điều cuối cùng trong tâm trí họ. Cùng với tiếng la hét xung quanh, họ cũng chạy thục mạng, nguyền rủa cha mẹ không cho họ nhiều chân. May mắn thay, con bò đực đủ thông minh để tìm thấy Cũ A, và không trút giận lên bất kỳ ai khác. Các thương nhân và người bán thịt cảm thấy cát bay khi trèo qua tường và trèo lên cây. Cũ A, sững sờ trước tình thế khó khăn, chạy thẳng về phía cha và tôi.

Với cảm giác tuyệt vọng, cha một tay túm lấy cổ tôi, một tay nắm lấy cạp quần, ném tôi vào tường chỉ vài giây trước khi Lão Lan chết tiệt trốn sau lưng ông, túm lấy quần áo ông để không thể giật ra, và đẩy ông che chắn khi con bò đực đang lao tới. Cha tôi thụt lui; Lão Lan cũng vậy, tất nhiên, cho đến khi cả hai bị dồn vào chân tường. Người cha vung vẩy số tiền trong tay trước mặt con bò đực và lẩm bẩm: “Con bò đực, à, con bò đực, giữa bố và con không xích mích gì, không phải bây giờ, không bao giờ, vậy chúng ta hãy giải quyết chuyện này. . .”

Tất cả diễn ra nhanh hơn những lời có thể diễn tả: Cha ném tiền vào mặt con bò và nhảy lên lưng nó trước khi con vật kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau đó, ông thọc ngón tay vào mũi con bò đực, nắm lấy khuyên mũi, kéo hất đầu nó lên cao. Những con bò mà các thương nhân mang đến từ các quận phía tây là động vật trang trại, vì vậy chúng đều có khuyên mũi. Mũi là điểm yếu của bò đực, và không ai, kể cả nông dân giỏi nhất còn sống, biết nhiều về bò đực hơn cha tôi, mặc dù bản thân ông không phải là nông dân. Nước mắt tôi trào ra khi đang ngồi trên đỉnh tường. Con rất tự hào về cha, Cha, con nghĩ, về cách Cha đã rửa sạch nỗi nhục và lấy lại thể diện đã mất của chúng ta bằng hành động khôn ngoan và can đảm.

Những người bán thịt và lái buôn đã giúp ông đè con bò vàng mặt trắng xuống đất; Để ngăn nó đứng dậy, có thể làm hại bất cứ ai, một trong những người bán thịt đã chạy về nhà, nhanh như thỏ, lấy một con dao, đưa cho Cũ A lúc này mặt đang tái mét, nhưng ông đã lùi lại một bước, ra dấu cho người đàn ông giao nhiệm vụ cho người khác. Người bán thịt nhìn bên này sang bên kia, cầm con dao trong tay: “Ai làm việc này? Không ai? Được, để tôi làm.” Anh xắn tay áo, quệt lưỡi dao vào đế giày, rồi khom người xuống, nhắm một mắt, như người thợ mộc với dây dọi. Nhắm vào chỗ lõm nhẹ trên ngực con bò, anh đâm con dao vào, và khi rút dao ra, máu phun nhuộm đỏ cả cha tôi.

Bây giờ con bò đã chết, mọi người leo xuống; Máu đỏ tiếp tục chảy ra từ vết thương, sủi bọt như nước từ vòi phun và tỏa mùi nóng vào không khí trong làng buổi sáng. Những người đàn ông đứng xung quanh giống như những quả bóng bị xì hơi, co quắp lại và nhỏ đi theo một cách nào đó. Có rất nhiều điều họ muốn nói, nhưng không ai nói một lời nào. Ngoại trừ cha tôi, người đang cúi đầu xuống giữa hai vai, há miệng để lộ hàm răng chắc khỏe nhưng ố vàng và nói: “Ông già trên trời ơi, tôi sợ quá!”

Lúc này, tất cả mọi người quay đầu nhìn về phía Cũ A, rõ ràng là muốn chui xuống hố. Ông cố che giấu sự bối rối bằng cách nhìn xuống con bò đực đang duỗi thẳng hai chân, phần thịt ở đùi vẫn còn giật giật. Một trong đôi mắt xanh của nó vẫn mở, như muốn giải tỏa những gì đáng ghét bên trong. "Mẹ kiếp!" Cũ A vừa nói vừa đá con vật đã chết. “Dành cả đời săn ngỗng trời, suýt bị một con ngỗng con mổ vào mắt.” Ông ngước lên nhìn cha tôi. "Tôi nợ ông một lần, La Đồng, nhưng tôi ông còn chưa kết thúc."

Kết thúc cái gì?” cha tôi hỏi. "Không giữa tôi ông."

"Ông không được chạm vào ấy!" Cũ A rít lên.

“Tôi chưa bao giờ muốn chạm vào ấy - muốn tôi làm vậy,” cha tôi nói, với một tiếng cười nhẹ đầy tự hào. "Cô gọi ông chó, ấy sẽ không bao giờ để ông chạm vào nữa."

Vào thời điểm đó, tôi không biết tất cả là chuyện gì, mặc dù sau đó, tất nhiên, tôi phát hiện, họ đang nói về Wild Mule.

Nhưng khi tôi hỏi, “Tía, đang nói về cái vậy?”, ông nói, “Con còn nhỏ không cần phải biết.” Con trai,” Cũ A lên tiếng, “không phải con nói, con muốn trở thành gia đình của Hội Họ Cũ? Vậy tại sao bây giờ con lại gọi ông này Tía?

"Ông chẳng qua một đống cứt chó hôi thối!" Tôi trả lời.

"Con trai," ông nói, "hãy về nhà nói với mẹ, cha con đã tìm được đường vào hang Con la hoang không thể ra được."

Điều đó khiến cha tôi tức điên lên; ông cúi đầu và lao vào Cũ A. Họ tóm cổ nhau trong một lúc, trước khi những người khác xông tới kéo ra. Nhưng, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, Cũ A đã bẻ gãy ngón tay út của cha và cha đã cắn đứt nửa vành tai của đối phương. Ông tức giận phun ra, nói: “Sao mày dám nói những điều như vậy trước mặt con tao, đồ chó đẻ!”

(Bản dịch từ tiếng Trung của Howard Goldblatt.)

Tạp chí Đọc Và Viết. Tam Cá Nguyệt Số Mùa Hè năm 2023.