Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2023

The Economist: Ukraine có ý nghĩa gì đối với thế giới (Hải Di Nguyễn lược dịch)

Kết quả của cuộc xung đột sẽ quyết định quyền lực của phương Tây

Hải Di Nguyễn lược dịch một trong loạt bài của The Economist nhân kỷ niệm một năm ngày Nga xâm lược Ukraine, 24/2.


Chuyện Vladimir Putin xâm lược Ukraine ngày 24/2/2022 làm hồi sinh NATO. Lần đầu kể từ năm 1967, NATO đặt mục tiêu mới, và hiện được xây dựng lại để ngăn chặn Nga trong thời bình và đáp trả ngay lập tức và bằng vũ lực khi nước này đe dọa xâm phạm lãnh thổ các thành viên.

Cuộc chiến còn thay đổi Ukraine nhiều hơn. Ông Putin lên kế hoạch tấn công chớp nhoáng nhằm lật đổ chính phủ, là đỉnh điểm của chiến dịch xâm lược và gây bất ổn đã bắt đầu từ năm 2014 ở Crimea và vùng Donbas. Thay vào đó, giữa đống hoang tàn, Ukraine đã rèn giũa thành một nước dân chủ thống nhất hơn, thân phương Tây hơn, và kiên cường hơn. Trong khi đó nước Nga lại bị định hình quanh cuộc chiến và sự thù ghét của Putin với NATO, và các biện pháp trừng phạt cũng như sự bỏ đi của nhiều công dân có học thức làm ảnh hưởng tới triển vọng kinh tế về lâu về dài của quốc gia này. Chuyện Nga rơi vào chủ nghĩa quân phiệt, NATO thêm sinh lực, và Ukraine chuyển đổi đã khiến cuộc chiến trở thành phép thử các hệ thống ý thức hệ đối địch.
Tương lai của Ukraine đang treo lơ lửng—và có khả năng vẫn không chắc chắn trong nhiều năm tới. Ông Putin có thể chấp nhận ngừng bắn lúc nào đó khi cần thiết, nhưng để kết thúc chiến tranh cần sự bảo đảm an ninh mạnh mẽ của phương Tây và chuyển giao vũ khí và viện trợ tài chính lâu dài. Nếu Ukraine xây dựng lại thất bại và sa sút về kinh tế, nền dân chủ Ukraine cũng sẽ thất bại. Các tướng lĩnh NATO cho rằng Nga có thể dựng lại lực lượng bộ binh trong vòng 3-5 năm, và khi đó ông Putin hoặc người kế nhiệm có thể thử đánh chiếm Ukraine lần nữa.

Vì thế, trong chiến tranh lẫn hòa bình, Ukraine sẽ thử thách quyết tâm, sự thống nhất, và cả năng lực công nghiệp của phương Tây. Cuộc xung đột đặt ra ba câu hỏi về địa chính trị: Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò gì với an ninh châu Âu, liệu các thành viên châu Âu của NATO có thể đảm nhận thêm trách nhiệm để bảo vệ khu vực hay không, và phần còn lại của thế giới sẽ đứng về phe nào trong bối cảnh cuộc chiến lớn nhất ở châu Âu kể từ năm 1945. Các câu trả lời không chỉ quan trọng với số phận Ukraine mà còn là thước đo sự tự tin và tầm vóc của phương Tây.

Phần lớn thế giới đã kết luận sức mạnh của Hoa Kỳ và các đồng minh đã suy yếu, vì thất bại ở Afghanistan và Iraq, vai trò trong khủng hoảng tài chính toàn cầu, và những vấn đề như chia rẽ và chủ nghĩa dân túy. Nếu Ukraine khuất phục, sẽ càng cho thấy phương Tây đang yếu đi. Nhưng nếu Ukraine chiến thắng, đó sẽ là bài học vang dội khắp thế giới. Điều đó bao gồm khu vực Thái Bình Dương, nơi cuộc chiến giữa nước Nga độc tài và nước Ukraine được phương Tây hậu thuẫn được coi là mở đầu sự tranh đua định đoạt thế kỷ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Đại Tây Dương thu nhỏ lại

Trong ba câu hỏi địa chính trị, cấp bách nhất là vai trò của Mỹ ở châu Âu. Năm 2019, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói NATO đang “chết não” vì dưới thời Tổng thống Barack Obama và Donald Trump, Mỹ quay lưng lại với châu Âu. Cuộc chiến Ukraine đã chứng minh nhận định đó là sai.

“Cuộc chiến đưa Hoa Kỳ trở lại vị trí cường quốc hàng đầu châu Âu”, Fabrice Pothier, cựu nhà hoạch định chính sách của NATO và giám đốc Rasmussen Global nói.

Mức viện trợ cho thấy không chỉ sự hào phóng mà sức mạnh của nước Mỹ. Với viện trợ từ Hoa Kỳ, quân đội Ukraine cũng phá vỡ huyền thoại về sức mạnh quân sự của Nga.

Câu hỏi đặt ra là Mỹ sẽ làm gì khi chiến tranh kết thúc và Ukraine cần xây dựng lại.

Ẩn sau tính toán này là sự cần thiết của việc Hoa Kỳ tập trung vào Trung Quốc. Một sự rút lui đột ngột sẽ không có lợi: nếu những đảm bảo an ninh của Mỹ không được coi là đáng tin cậy ở châu Âu, thì cũng sẽ không được coi là đáng tin cậy ở châu Á. Thượng nghị sĩ Roger Wicker nói “Tập Cận Bình đang theo dõi chúng ta chặt chẽ” để cân nhắc tấn công Đài Loan.

Vì lý do đó, Andrew Michta thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Âu George C. Marshall ở Đức cho rằng Hoa Kỳ có khả năng đòi chuyển “chia sẻ gánh nặng” thành “chuyển gánh nặng”, có nghĩa là vẫn giúp bảo vệ châu Âu bằng răn đe hạt nhân và công nghệ cao, nhưng để châu Âu cung cấp hầu hết các lực lượng thông thường. Điều này nâng cao yêu cầu đã có lâu nay rằng các thành viên châu Âu của NATO phải có trách nhiệm hơn để bảo vệ lục địa mình.

Đó là câu hỏi thứ hai: liệu châu Âu có thể đương đầu với thách thức không?

Đức tăng chi tiêu quân sự, dù hiện nay chưa biết sẽ hiệu quả thế nào.

Việc Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO có thể có tác động ngay lập tức hơn, và các nước này có khi còn quan trọng hơn. Phần Lan và Thụy Điển có thể giúp bảo đảm an toàn cho các quốc gia vùng Baltic, và quân đội Bắc Âu có thể tập hợp nguồn lực. Ngoài ra, nếu ông Putin hoặc người kế nhiệm quyết định tấn công một thành viên của liên minh, sẽ phải lo bảo vệ một biên giới dài hơn.

Các thành viên châu Âu lục địa của NATO cũng nghiêm túc hơn về biện pháp trừng phạt, trong quá khứ thường mang tính tượng trưng.

So với vị trí của châu Âu trước cuộc xâm lược của Nga, tất cả những điều này cho thấy có tiến bộ. Cũng đang có quan điểm rằng trọng tâm của NATO đang chuyển từ Pháp và Đức sang phía đông và phía bắc, như Ba Lan và các nước Bắc Âu. Anh Quốc hậu Brexit cũng cho thấy có thể đi tiên phong về quốc phòng và an ninh ở châu Âu.

Tuy nhiên, một nỗi lo ngại là châu Âu sẽ không đủ gắn kết để giúp xây dựng lại Ukraine, trong thời điểm ngân sách chính phủ khắp châu Âu đang bị siết chặt.

Một nỗi lo khác là các nhà sản xuất vũ khí phương Tây không có khả năng trang bị để Ukraine chiến thắng, chứ đừng nói đến việc xây dựng kho vũ khí của mình trong thời bình và bổ sung kho vũ khí của NATO.

Nếu châu Âu thiếu sót trong những khía cạnh này—và hiện nay điều đó rất có thể sẽ xảy ra—Ukraine có thể phải trả giá. Việc lấp đầy khoảng trống lần nữa sẽ rơi về phía Mỹ, có thể dưới một tổng thống mới.

Quốc tế

Câu hỏi địa chính trị cuối cùng cuộc chiến đặt ra là liệu phương Tây có thể thắng trong cuộc chiến dư luận quốc tế hay không. Chỉ một phần ba dân số thế giới sống ở các quốc gia vừa lên án Nga xâm lược vừa áp đặt các biện pháp trừng phạt với nước này, theo Economist Intelligence Unit.

Shivshankar Menon, từng là nhà ngoại giao hàng đầu của Ấn Độ, nói “Đây không phải là bước ngoặt địa chính trị với phần còn lại của thế giới. Ở vị trí chúng tôi, ranh giới địa chính trị vẫn là giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và cuộc chiến này không thay đổi điều đó.” Ông xem cuộc chiến là đấu tranh vì an ninh châu Âu.

Tuy nhiên, trong ít nhất ba cách, cuộc chiến Ukraine đã làm xáo trộn trật tự thế giới. Thứ nhất là ở châu Phi, vùng Kavkaz và Trung Á, nơi Nga đang nỗ lực tìm cách củng cố ảnh hưởng. Nga vẫn giữ vị thế của mình ở châu Phi nhưng mất dần ở những nơi khác.

Thứ hai là Putin đe dọa dùng vũ khí hạt nhân không làm phương Tây ngừng cung cấp vũ khí cho Ukraine, nhưng làm chậm lại. Nếu ông Putin được cho là giành chút lợi thế bằng hù dọa, đó sẽ là động cơ cho những kẻ gây hấn khác sở hữu vũ khí hạt nhân và đem ra dọa.

Cuối cùng, cuộc chiến đang đẩy Nga vào vòng tay của Trung Quốc. Thời Soviet, Trung Quốc coi Nga là mối đe dọa. Giờ đây ông Tập có thể chuyển nguồn lực quân sự đi nơi khác, và có thể hưởng lợi.

Phô diễn lực lượng

Trong tháng này, NATO đang lên kế hoạch cho cuộc tập trận lớn nhất từ trước đến nay, với sự tham gia của hàng chục ngàn quân, nhằm chứng minh cho ông Putin thấy mọi tấn công vào một thành viên của liên minh sẽ là thảm họa.

Nhưng kết quả mọi chuyện vẫn chưa thể biết được.

Ngay cả những quốc gia lên án cuộc xâm lược của Nga vẫn có thể kết luận phương Tây suy yếu nếu không cứu được Ukraine. Nhưng nếu được cung cấp vũ khí, tiền bạc, và hỗ trợ chính trị, Ukraine vẫn có thể thắng thế. Bằng lòng dũng cảm và tấm gương của mình, người dân Ukraine có được cơ hội đó. Không thể có sự đầu tư nào tốt hơn cho an ninh phương Tây.