Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022

Nhất Linh: Giòng sông Thanh Thủy

CHƯƠNG CHÍN



Thanh tính từ lúc Ngọc đi đến giờ đã quá hạn mà chưa thấy về:

“Có thể Ngọc bị hại rồi.”

Nàng thấy nhói ở tim, trách thầm Ngọc.

“Đã bảo để người ta đi với, lại không cho.” Nàng tự nhủ:

“Giá có mình đi thì chắc cứu được cu cậu rồi. Đâu đến nỗi. Ngọc égale Ngốc."

Nàng tung chăn nhỏm dậy rồi ra mở cửa sổ, ngồi vào cái ghế mây Ngọc vẫn ngồi. Mắt nàng nhìn cây lựu lá lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng, những nụ hoa trở nắng và những quả lựu da nám hồng. Nàng chớp mắt mau mấy cái, để mặc nước mắt ứa ra chảy dàn dụa trên má. Rồi nàng gục đầu xuống bàn nức nở khóc.

Sau một lúc Thanh mỉm cười, lấy vạt áo lau nước mắt lẩm bẩm:

"Tội quái gì ăn cơm với ruốc. Bao nhiêu lựu chín đem vặt ăn dần cho mát cái ruột, ăn cho kỳ hết không để dành anh chàng một quả nào nữa."

Trí nàng tưởng tượng Ngọc hiện giờ đương nằm ở một quãng rừng, trên đầu bị hai ba phát súng và máu chắc đã khô. Nàng nhớ lại đoạn Ngọc kể với nàng về Thuý lúc chết và cái vẻ yên lặng của vừng trán Thuý, yên lặng hơn cả những tảng đá ở ngõ đi vào. "Không khéo hổ beo nó sực rồi, còn đâu là trán mà yên lặng."

Thanh mỉm cười đứng dậy rồi nước mắt lại ứa ra; ngực nàng phập phồng và nàng thở dài luôn mấy cái cho tim bớt đập. Nàng nói như nói với Ngọc:

"Em yêu anh, yêu anh hơn cả Thuý yêu anh nữa."

Bỗng có tiếng gõ cửa rồi tiếng Lăng vọng lên gác:

"Thèm cà-phê của cô quá. Uống hàng khác nó làm sao ấy. Hôm nay cô đã hết sốt rét thương hàn chưa?"

Nghe tiếng Lăng và biết Lăng vẫn đến rình, Thanh tự nhiên thấy nhẹ hẳn người. Nàng nói:

"Anh Lăng, tôi đỡ nhiều rồi."

Nàng với khăn lau kỹ nước mắt, chải qua tóc rồi xuống mở cửa. Lăng nói:

"Trông cô gầy hẳn đi."

Thanh nghĩ thầm:

"Khéo vờ vờ vĩnh vĩnh."

Nàng cũng pha một cốc cà-phê phin cùng ngồi uống với Lăng:

"Mấy hôm nay ở Mông Tự trời nắng đẹp quá mà tôi cứ phải nằm dài ở giường. Uống ít cà-phê cho nó tỉnh người."

Lăng nói cho có chuyện:

"Ở đây nắng biết đâu nơi khác không mưa."

Thanh định hỏi xem ở Văn Sơn có mưa không nhưng không kiếm được cách gì cho tự nhiên. Nàng bảo Lăng:

"Tôi nhờ anh một việc nhé. Tôi tạt qua chợ mua ít rau và xương lợn xương bò làm súp. Tôi còn yếu sợ mang thức ăn về không nổi, anh xách dùm tôi cái làn nhé."

Lăng nói:

"Việc ấy thì tôi vui lòng. Cô đã khoẻ tôi cũng mừng, sáng mai tôi sẽ đi chợ hộ cô nữa. Nếu tôi bận thì tôi sẽ bảo chị Hoạt hay chị Việt đến đây giúp cô một tay. Cô cần nấu nướng thì hai bà chị tôi sẽ giúp, sợ cô mới ốm khỏi, còn mệt chăng."

Ra đến chợ lúc nào cũng có Lăng đi kèm và không nghe ai nói đến Văn Sơn nên Thanh cũng không biết được tin tức gì. Nàng nghĩ ngày mai gặp bà Việt hay bà Hoạt có lẽ hỏi tiện hơn. Nàng bảo Lăng:

"Đàn ông xách làn đi chợ trông kỳ quá. Mai anh nói giùm với bà Việt đến giúp tôi nhé."

Quả nhiên ngày hôm sau vợ Việt đến. Thanh ân cần cám ơn, gọi ngay Xuân là chị. Lúc đương nấu cháo bồ dục, Thanh gợi đến chuyện mưa nắng rồi nàng nói chêm vào:

“Văn Sơn mùa này hay mưa lắm.”

Xuân nói:

“Chị không biết à? Văn Sơn bị nước lụt ngập cả phố xá. Tôi có gặp một người đi bộ từ Văn Sơn về, họ nói chưa bao giờ ở Văn Sơn lại lụt to như năm nay. Trôi nhà, trôi cửa, nước lũ kéo về nhanh quá, có nhà bị trôi cả lợn gà."

Thanh hớp một thìa cháo nóng, vui mừng nói:

"Em đau hơn mười hôm nay ăn cháo chị nấu sao mà ngon thế. Nuốt đến đâu thấy đến đấy."

Nàng thở nhẹ một cái:

"Thế là Ngọc chưa việc gì... Ngọc chưa việc gì."

Mấy tiếng ấy vang trong hồn nàng như những lời reo vui.

Lúc Xuân về rồi, Thanh lại lên gác ngồi vào cái ghế Ngọc vẫn ngồi. Hoa lựu nở tươi trắng dưới ánh mặt trời. Nàng nghắm nghía những quả lựu sắp chín.

"Ngọc về, mình sẽ cho Ngọc ăn quả lớn nhất và ngon nhất kia. Còn những quả đã chín rồi tội gì mình không đem ăn cho mát ruột."

Hôm sau đi chợ, có vợ Hoạt đi kèm. Thanh trông thấy Ninh ở xa. Nàng rủa thầm:

"Cái anh đa nghi, láu tôm láu cá. Đáng ghét cái mặt."

Nàng cũng biết Ninh đã trông thấy nàng nhưng vờ như không biết.

Hôm sau Thanh thấy không ai đến cửa hàng cà-phê mình nữa. Nàng lại bắt đầu mở cửa hàng nhưng toàn khách người Tàu. Nàng xách làn đi chợ nhưng không thấy ai đòi đi kèm để xách hộ làn. Nàng đi vòng qua các phố vắng cũng không thấy bóng dáng ai theo dõi.

"Chắc mình đã được họ trả tự do."

Nhưng còn vì cớ gì, nàng nghĩ mãi vẫn chưa hiểu. Những lúc rỗi, Thanh đi la cà chơi các nhà, đến thăm vợ Hoạt và vợ Việt để cảm ơn công lao giúp đỡ nàng lúc đau yếu.

Nàng đến thăm Xuân trước, thâm ý muốn xem chỗ ở trọ của Ngọc. Đến nơi nàng mới rõ là nhà Xuân nghèo quá. Trong một gian phòng nhỏ có kê hai chiếc giường gỗ trải chiếu rách, một cái lớn chắc để cho vợ chồng Xuân, còn một cái nhỏ, Thanh đoán là giường của Ngọc và tuy Xuân mời nàng ngồi ở giường lớn nhưng nàng cũng cứ ngồi xuống cái giường nhỏ.
"Ngồi chỗ này tốt hơn; em vừa đi nắng nên hoa cả mắt ngồi đây tối cho đỡ chói.”

Trong lúc Xuân xuống bếp đun nước, Thanh nhìn kỹ manh chiếu đã rách nhiều chỗ, nhìn chung quanh giường nhưng nàng không thấy một triệu chứng gì tỏ ra đấy là giường Ngọc nằm.

Bỗng nàng chú ý đến một bức tranh bút chì dán ở vách ngay cạnh giường, vẽ một cái cổng gỗ với một bụi tre lá tạt về một phía và dưới một vầng trăng khuất sau bụi tre, lờ mờ có bóng hai người ngồi trên bực cửa. Thanh đoán Ngọc vẽ một cảnh trong nước, chắc nơi quê Ngọc và bóng hai người rất có thể là bóng Ngọc cạnh bóng Thuý. Dưới bức tranh có đề bốn câu thơ. Thanh nhẩm đọc:


Đêm trăng thoảng tiếng ai trong gió
Lòng hỏi lòng biết có hay không?
Hay chăng tiếng vọng mơ mòng
Của lòng mình nói cho lòng mình nghe.


Dưới ký tên thoắng nhưng nàng cũng đoán được chữ ‘Ngọc’. Thanh không ngờ đâu Ngọc lại làm được bài thơ hay như vậy; bức tranh và bài thơ chắc để diễn tả cảnh đêm trăng có gió và hai người tỏ tình yêu với nhau lần đầu tiên. Trong bài thơ chắc Ngọc tả lúc Thuý nói yêu mình và Ngọc không ngờ đâu Thuý lại ngỏ lời trước chàng.

“Hay là cu cậu cóp một bài thơ của một thi sĩ nào trong nước.”

Dầu sao Thanh cũng đọc lại và cố nhẩm cho thuộc hết bài thơ. Khi Ngọc về – nếu có ngày chàng về – một hôm nào tiện, cùng Ngọc ngồi ở cửa sổ trên gác, nàng sẽ đột nhiên ngâm bài thơ ấy lên cho Ngọc nghe. Nàng vẫn nổi tiếng là ngâm thơ hay. Nếu bài thơ ấy Ngọc cóp của ai thì Ngọc sẽ hỏi nàng về tên tác giả. Nếu quả thực bài thơ ấy do Ngọc nghĩ ra thì chàng sẽ ngạc nhiên hết sức. Nghĩ đến đấy Thanh mỉm cười.

Xuân bưng lên một cái đĩa để hai chén chè Tàu nhưng đĩa và chén đều sứt mẻ. Thanh nẩy ra ý kiến giúp đỡ gia đình Xuân, nhưng nàng loay hoay chưa nghĩ được cách nào để khỏi mích lòng Xuân. Thanh cầm lấy chén nước sứt và uống một cách ngon lành:

“Em đến cám ơn chị đã khó nhọc vì em trong lúc em đau ốm. Chị được mấy cháu?”

Xuân đáp:

“Tôi có một cháu trai nhưng gửi ở nhà một người bà con trên Côn Minh.”

Thanh ngửng nhìn bức tranh dán ở ván:

“Bức tranh này đẹp quá, chắc là cháu vẽ, lại có cả thơ nữa.”

Nàng lẩm nhẩm đọc rồi nói tiếp theo:

“Cháu mà làm được bài thơ hay như thế này cơ à?”

Xuân nói:

“Không đấy là thơ và tranh của chú Ngọc.”

“A anh Ngọc, em có biết; thường đến hàng em uống cà-phê.”

Nàng cười nói giọng đùa:

“Ấy hãy còn chịu em năm cốc cà-phê chưa trả.”

“Thế là cô mất toi. Đừng có hòng chú ấy trả. Một xu dính túi cũng không có."

"Có làm gì việc ấy. Anh Ngọc chắc là em của chị?"

"Tôi có họ hàng gì với chú ấy đâu. Gọi thế cho thân, vì tôi cũng coi chú ấy như người em. Chú ấy ngoan lắm, chỉ phải cái loăng quăng."

Thanh cứ muốn hỏi mãi về Ngọc nên tiếp theo:

"Bây giờ anh ấy đâu, chị có biết không?"

Xuân đáp:

"Lúc nào chú ấy về thì biết là về, đi thì biết là đi, chẳng bao giờ nói với tôi là đi đâu. Vả lại chú ấy đi đi về về luôn nên tôi cũng chẳng để ý đến nữa. Anh em thường gọi đùa chú ấy là ‘Ngọc châu chấu’."

Thanh mỉm cười:

“Chắc là vì hay nhẩy như châu chấu. A, thế còn anh nhà đâu?”

Xuân đáp:

“Nhà tôi đương chạy ngược chạy xuôi vay mượn tiền mở một hàng cơm Tây cho bộ đội Mỹ ở sân bay.”

“Thế à, em chắc là nếu mở được thì phát tài lắm. Chị lại nấu ăn khéo; mấy hôm chị lại đằng nhà nấu ăn cho em, em biết. À, này chị, hay là chị em mình công ty. Em có ít vốn sẽ chung phần với anh chị. Cà-phê thì chị không phải lo đã có em phụ trách. Chị có lợi mà nhất là em cũng có lợi. Chị nghĩ sao?”

Xuân nói:

“Cám ơn cô, để nhà tôi về tôi sẽ bàn. Hàng cơm Tây sống được cũng là nhờ có cà-phê ngon. Tôi dám chắc nhà tôi nhận lời.”

“Chị nhớ cho em biết tin ngay nhé. Vốn liếng lúc nào em cũng sẵn. Chị không biết, ở Côn Minh em cũng đã mở hàng cơm Tây một độ. Lấy tên là Nam Mỹ Tây San Nhất. Tên ấy hay lắm, giá chị dùng đặt cho hiệu mới, em cũng nhường cả tên nữa. Soong chảo, bát đĩa, cùi dìa, phóng sét em có sẵn, không phải sắm cho tốn. Em cũng sẽ vào bộ chỉ huy Mỹ giao thiệp để họ cấp giấy ‘In bound’. [1] Đấy chị xem, tiếng Anh em nói cũng tàm tạm đủ dùng.”

Thanh đứng dậy, chào Xuân rồi rẽ qua nhà Hoạt, cố ý gặp Phương. Cũng may lúc đến, hai vợ chồng Hoạt đều đi vắng, chỉ có mình Phương ở nhà đương đứng ở cửa sổ, hai tay giơ một chiếc áo len kiểu đàn ông ra ngoài sáng ngắm nghía. Thanh biết ngay là chiếc áo len Phương đan cho Ngọc theo lời Ngọc đã nói với nàng. Thấy có khách vào, Phương vội vàng cuộn tròn chiếc áo lại rồi hỏi:

“Ai đấy?”

Thanh đáp:

“Thưa cô, ông bà Hoạt có nhà không?”

Phương nhìn Thanh đi vào nhưng không nhận ra được Thanh vì nàng ít khi ra phố ngoài và nhất là đi về phía cà-phê Thanh Hương. Tuy đã để ý đến Phương nhưng nhìn gần, Thanh mới nhận thấy Phương đẹp. Nước da nàng trắng, hai gò má hồng tự nhiên và đôi mắt trong; Thanh thấy na ná như hai mắt một con thỏ con, ngây thơ, hiền lành. Phương mỉm cười, một nụ cười rất có duyên, rồi đáp lại lời Thanh hỏi, giọng dịu dàng và rất lễ phép.

“Thưa cô, anh chị tôi đi vắng. Thưa cô, có việc gì gấp không và cô là ai để anh chị tôi về tôi sẽ nói lại. Mời cô ngồi chơi xơi nước.”

Rồi nàng khẽ gọi người nhà, để lộ hai hàm răng trắng nhỏ đều đặn:

“Lương ơi, pha nước.”

Đợi cho Thanh ngồi rồi, nàng mới ngồi ghé xuống một chiếc ghế đệm, tay vẫn cầm mân mê như âu yếm chiếc áo len cuộn tròn. Trên bàn có để một cái kéo, Thanh đoán chắc Phương đến bây giờ mới đan xong áo vì cái kéo kia chắc để cắt những mẩu len nham nhở. Thanh đáp:

“Tôi là Thanh chủ tiệm cà-phê ở Cổng Bắc. Hôm nọ vì tôi yếu, bà Hoạt có lại thăm nom săn sóc; nay tôi đã đỡ nên ghé qua để cám ơn. Chẳng may lại không được gặp. Cô chắc là em ông Hoạt?”

“Vâng ạ.”

Thanh nghĩ thầm: một thiếu nữ xinh đẹp hiền hậu như thế này, Ngọc mê là phải. Trước mặt mình, Ngọc chỉ vờ làm bộ không để ý đến Phương. Nàng đoán Ngọc sống một đời vất vả nay đây mai đó, khi về chắc hẳn chỉ mong có một ngưòi vợ xinh đẹp, dịu hiền để săn sóc chiều chuộng mình. Ngọc trước sau rồi cũng lấy Phương. Thanh nhìn Phương nửa thương hại nửa ghen tức. Bỗng tự nhiên mắt Thanh mờ hẳn đi và quả tim nàng như quay lộn một vòng; nàng chợt nghĩ đến cái đêm Ngọc kể tâm sự chàng yêu Thuý cho mình nghe. Nếu Ngọc hơi có chút tình ý gì với nàng thì không bao giờ lại kể chuyện tâm sự riêng một cách tự nhiên như vậy; Ngọc chỉ coi nàng như một người bạn. Đấy là Thanh quá lạc quan, chứ có lẽ Ngọc chỉ coi nàng như một nữ cán bộ Việt Minh, là một kẻ thù; Ngọc kể chuyện Thuý chỉ cốt để mua chuộc lòng nàng.

Thanh không thể chối cãi được rằng Ngọc đối với nàng có một thứ gì khác biệt; nhưng những tay cách mệnh nhiều mánh khoé giả dối, tin sao được. Lừa lọc, dối trá, mưu mẹo, tàn ác, ai cũng vậy, một khi đã bị cái “guồng máy” nó lôi cuốn. Chính nàng đã nói đến cái “guồng máy” với Ngọc và chính nàng cũng bị nó lôi kéo, muốn thoát cũng không sao thoát ra được.

Những ý nghĩ phân vân ấy quay cuồng trong tâm trí nàng, khiến nàng ngồi yên. Phương tưởng Thanh có việc gì quan trọng, không gặp anh chị mình nên ngồi thừ ra vì thất vọng. Phương nói:

“Hay là cô ngồi chơi, đợi một lát anh chị tôi về.”

Thanh và Phương ngồi đối diện thong thả uống nước, nói những câu xã giao thông thường. Dần dà nàng khen áo của Phương đẹp, màu áo len Phương nhã, rất hợp với màu da trắng của nàng.

“Màu áo len cô cầm ở tay cũng nhã lắm. Cô mua ở đâu thế? Mông Tự làm gì có bán thứ len này.”

Phương đáp:

“Tôi phải nhờ một người bạn ở Côn Minh mua. Trong lúc chiến tranh khó kiếm len lắm.”

Thanh giơ tay định cầm chiếc áo len:

“Len đẹp thật. Cô đan lấy đấy à? Khéo quá. Cô cho tôi xem thử, nếu tiện tôi nhờ cô gửi mua hộ len."

Phương đặt cuộn áo len ra xa, khỏi tầm với của Thanh rồi nói:

"Đây là áo tôi đan cho anh Hoạt tôi."

Câu chuyện trở dần thành thân mật. Thanh hỏi:

"Trông cô trẻ quá. Hình như đã có lần tôi gặp cô ở phố. Nhưng trông gần mới thấy cô còn trẻ quá, chắc cô độ mười sáu mười bảy."

"Không, năm nay tôi vừa chẵn hai mươi."

"Thế là cô kém tôi mấy tuổi. Nhưng trông cô trẻ hơn nhiều."

Thanh rút bao thuốc thơm mời Phương:

"Cô xơi một điếu."

"Tôi không biết hút, cám ơn cô."

Thanh nói:

"Thỉnh thoảng hút một điếu cho thơm miệng. Tôi cũng mới tập hút được vài tháng nay. Tuy chiến tranh nhưng có tụi lính Mỹ nên thuốc lá rẻ lắm. Bao thuốc Lucky Strike này tôi mua lại của một người quen. Ông ta chuyên môn đổi các thứ hàng cho những anh lính Mỹ không biết hút hay hút ít, không hết số chính phủ Mỹ phát cho."

Nàng giở giọng đùa bỡn:

"Bao giờ thì cô định lập gia đình để tôi đến ăn mừng. Cô thì thiếu gì đám."

Phương trở nên bạo dạn, nói:

"Cô ăn mừng tôi cái gì nào? Tôi cũng đã có đám nhưng anh chị tôi bảo phải đợi hết năm nay. Hình như có một cái tang bên họ xa, ai tôi cũng không biết nữa."

Phương vừa nói vừa cười, bàn tay vô tình đặt lên chiếc áo len cạnh ghế.

Thanh đứng lên:

“Để lần khác vậy. Đợi mãi không thấy hai ông bà về. Cô nói giùm tôi có đến chơi nhưng không gặp. Hôm nào thong thả mời cô lại chơi đằng nhà. Vườn nhà tôi có mấy cây lựu quả ngọt lắm. Thôi chào cô.”

Thanh bước vội ra đường:

“Thế là hết hy vọng! Sao đời mình lúc nào cũng khổ thế này.”

Tới chỗ vắng người, nàng lấy khăn mùi-xoa cầm sẵn ở trong tay, để mặc nước mắt dàn dụa trên má. Nàng nấc lên mấy tiếng rồi nhìn những ngọn núi xa xa mà nàng đoán về phía Văn Sơn, thầm gọi:

“Anh Ngọc, Ngọc của em.”

Thanh trở về nhà, ra ngay vườn sau, hái luôn quả lựu lớn, trước định bụng để dành Ngọc rồi mím môi bẻ tách ra ăn luôn; các hột lựu thật lớn, nước mọng lên cắn vào ngọt thơm và mát ruột nhưng nàng vừa nhai ngấu nghiến vừa ứa nước mắt khóc nức nở.



[1]Các tiệm ăn uống ở Trung Hoa muốn binh lính Mỹ vào ăn phải đủ điều kiện vệ sinh và được cấp một tờ giấy có chữ “In bound” dán ngoài cửa.