Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2022

Trần Mộng Tú: Tình Yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn

Thi sĩ Xuân Diệu, một thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ) đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu.”


Tình yêu và thơ rất giống nhau vì đó là hai “chủ đề” khó định nghĩa nhất. Nó là  hai thế giới không có lằn ranh, không ai biết bắt đầu từ đâu và kết thúc chỗ nào.


Thơ thì “Hay” và có ý nghĩa với tác giả nhưng với độc giả, phần nhiều: “Chẳng hiểu thi sĩ định nói cái gì?”


Tình yêu trong tiểu thuyết còn mông lung hơn nữa. Chấm dứt trong hạnh phúc hay trong nỗi buồn của những nhân vật đều do tác giả quyết định, không phải theo ức đoán của độc giả. Tác giả đưa ta đến một chỗ ta chưa nghe đến bao giờ, và làm cho ta tin đó là nơi chốn có thật, đặt nhân vật vào một hoàn cảnh vô lý rồi mặc ta tha hồ cười khóc hộ tác giả.


Nhưng cả tình yêu và thơ luôn luôn biến chuyển theo thời gian và không gian.


Hãy hình dung ra tình yêu của thời đại điện toán ngày hôm nay.


Thói quen thỉnh thoảng uống cà phê trong quán một mình, tôi mới có vào khoảng vài năm nay, và tôi thấy nó bỗng trở nên cần thiết. Ngồi một mình, muốn nghĩ gì thì nghĩ, nhìn ngang nhìn dọc ra ngoài cửa kính xem xe cộ, người đi, tha hồ tưởng tượng và đặt cho những nhân vật bên ngoài đó một cuộc đời, một cuộc tình hay một vai kịch mà mình thích cho họ đóng tùy theo dáng dấp, y phục, tuổi tác của từng người. Nhìn ra ngoài mãi, mới nhâm nhi hết một nửa ly cà phê, chán, lại nhìn trong quán ngay chung quanh mình. Ở Starbucks có những cái bàn đơn cho những cái laptop và một người lơ mơ ngồi viết hay đọc một cái gì không rõ rệt hoặc cho sinh viên làm vội bài trước khi đến lớp, cũng có đám ba bốn người họ chập hai cái bàn nhỏ ngồi với nhau uống cà phê trong giờ trưa của một cơ sở gần đó, cũng có cái bàn cho một cặp tình nhân trẻ, ngồi xuống không đầy mười phút cho một cái hẹn vội.


Hôm nay tôi vào Starbucks với một chồng sách của Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Chọn một cái bàn trong góc để ngồi lâu và không ai chú ý đến mình. Tôi đứng lên mua một ly cà phê đen, tự pha đường lấy, ngồi xuống nhâm nhi và ngắm nghía.


 Ngắm người ngoài cửa kính mãi, thấy đủ, tôi ngắm cái bàn cạnh mình: một cặp người trẻ, có dáng vẻ của một cặp tình nhân. Hai ly cà phê trước mặt, hai người cùng cầm trên tay hai cái iPhone, họ chẳng trò chuyện gì với nhau cả, mặc dù giữa họ là một khoảng cách mặt bàn rất ngắn, nên khi hai cái đầu cùng cúi xuống, hai vầng trán cụng vào nhau. Họ chăm chú nhìn vào cái phôn trên một lòng bàn tay và những ngón của bàn tay kia cứ lướt đi lướt lại thoăn thoắt trên mặt phôn. Thỉnh thoảng họ dừng lại uống một ngụm cà phê rồi lại cúi xuống cái phôn.


 Lạ thật! Rủ nhau vào quán để có một khoảnh khắc riêng tư với nhau mà chẳng ai nói với ai tiếng nào. Họ ngồi như thế, làm những điều như thế, cho đến khi ly cà phê của tôi gần cạn cũng là lúc họ đứng lên ra về. Cả hai ra bãi đậu xe, trên tay mỗi người vẫn cầm một cái phôn, cặm cụi cúi xuống nói với cái phôn trên khúc đường ngắn. Trước khi chui vào hai cái xe khác nhau, lúc đó họ mới rời mắt khỏi cái phôn, xáp lại nhau, quàng tay qua vai, hôn môi nhau, ngưng, rồi lại kéo dài ra một chút (chắc phải yêu nhau lắm).


Tôi cúi xuống trang giấy mở. Ngược lại dòng thời gian, đọc một đoạn văn của một chuyện tình thơ mộng, như có, như không.


Bóng chiềusẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong hơn lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng đưa, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều? Mắt Loan lặng nhìn Dũng, nàng nói:

- Em nghe thấy tiếng sáo diều ở đâu.

Dũng đặt tay vào rá đậu ván tìm mấy chiếc lá lẫn trong quả đậu.

- Tôi thích trước cửa buồng có một giàn đậu ván vì hoa đậu ván đẹp.

Loan đáp:

- Hoa đậu ván màu tim tím…

Nàng nói câu ấy, tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì. Một bàn tay Loan rời cạnh rá, đặt gần tay Dũng. Mấy ngón tay thong thả cời những quả đậu lên lại bỏ xuống. Dũng nghĩ nếu lúc này đặt tay mình lên tay Loan và nắm lấy, Loan sẽ yên lặng: Loan, cũng như chàng, chắc sẽ phải cho thế là một sự tự nhiên. Một giây phút đợi chờ.


Đôi Bạn, tác phẩm viết sau Đoạn Tuyệt của Nhất Linh nhưng lại là tác phẩm mở đầu cho một chí hướng cách mạng và mở đầu cho mối tình của Loan và Dũng. Nói cho rõ hơn, Nhất Linh đã viết Đoạn Tuyệt, một tác phẩm tiểu thuyết vị nhân sinh trước, sau đó ông thấy cần viết một tiểu thuyết vị nghệ thuật nên Đôi Bạn được ra đời.


Dũng là một con trai của quan tuần phủ giầu có, nhưng chàng chán ghét cái cảnh giầu sang của một gia đình quan cách mà chàng cho là không lương thiện. Chàng chọn thoát ly cái đời sống chàng đang có để đi làm cách mạng. 


 Loan là một cô bạn láng giềng hồi nhỏ ở quê nhà, con của một nhà nho lỡ vận (cũng là bạn cũ của ông tuần). Hai người yêu nhau, nhưng Dũng biết chắc là không bao giờ cưới được Loan vì cha chàng đang thu xếp cưới Khánh, con gái cụ thượng Đặng cho chàng và mẹ Loan thì cũng đã hứa gả Loan cho Thân, một thanh niên con nhà giầu nhưng ít học.


Tình yêu của Loan và Dũng là tình yêu mong manh không rõ rệt, nó như một hương thơm đọng lại trong không gian, lúc có, lúc không, nhưng họ cảm thấy được sự tồn tại của nó. Thơm và đẹp.


Mùi hoa khế đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Đó là một thứ hương lạ để đánh dấu một quãng thời khắc qua trong đời: Dũng thấy trước độ mười năm sau, thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến phút chàng đang đứng với Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy, chàng thấy nó sẽ ghi mãi trong lòng chàng cũng như hương thơm hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong vườn cũ.


Tình yêu của Loan và Dũng không có một hứa hẹn, thề thốt gì như những người cùng thời sống bên ngoài xã hội, nhưng Dũng tin chắc càng xa nhau, không gặp nhau tình yêu của cả hai lại càng có thật và không bao giờ mất đi được. Một khoảng khắc rất ngắn ngoài vườn hay trong quán nước bên đường với nhau cũng mang lại hạnh phúc tràn ngập trong tâm Dũng. Giống như hơi nước bốc trên mặt hồ, một mảng khói xám mang mang không biết là sương hay khói sóng nhưng nó luôn luôn ở đó, mất đi, lại hiện ra nên cả hai điều biết chắc là có và đẹp.


Dũng có cảm giác êm ả lạ lùng và cái quán hàng trong đó có Loan ngồi, chàng tưởng như một chốn ấm áp để chàng được cách biệt hẳn cuộc đời mà chàng thấy đầy phiền muộn, buồn bã như buổi chiều sương khói ngoài kia.


Loan tin chắc là Dũng yêu nàng, nên ngay cả khi Loan sang nhà Dũng phụ với Hiền, chị của Dũng, trong việc sắm sửa chăn gối cho cô dâu, Loan vẫn vui trong lòng vì tin chắc Dũng sẽ không khi nào lấy Khánh, Dũng sẽ bỏ đi, có Loan đi theo hay không thì nàng chưa rõ, nhưng chàng sẽ bỏ đi. Loan có cảm tưởng chính mình là cô dâu.


Loan kéo về phía mình tấm chăn bông mà Hiền vừa lồng xong, cuộn tròn lại. Nàng chống khuỷu tay rồi nghiêng mình đặt má lên tấm chăn bông. Một tia nắng chiếu thẳng vào mặt khiến Loan lim dim mắt lại; những bụi vàng bay tản mạn trong ánh nắng. Đôi môi nàng tự nhiên hé mở, cười một cách yên lặng. Nàng đưa đi đưa lại gò má trên nền vóc ấm nắng:

Ấm lạ, cô dâu nào đắp chăn này tha hồ ấm.


Tôi không có tham vọng đào sâu về tình yêu của tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, vì đề tài này rộng quá. Tôi chỉ muốn nói đến cuộc cách mạng ái tình trong văn chương TLVĐ nói chung.


Dù yêu bằng cách nào và dưới ngòi bút của tác giả nào thì tình yêu trong tiểu thuyết TLVĐ vẫn chuyên chở cái sứ mạng: “Đổi mới trong tình yêu và trong cách nhìn về tình yêu”. Giúp cho sự thay đổi một xã hội đã bị dìm sâu vào văn hóa Khổng Mạnh.


Những tác giả của nhóm TLVĐ theo Tây học. Họ muốn xây dựng một thế hệ phụ nữ Việt cấp tiến hơn, biết yêu chính bản thân mình mà không qua một gò bó ép buộc nào. TLVĐ muốn vẽ một bức tranh xã hội Việt Nam không phải chỉ bằng mực Tầu, một thứ bồ hóng pha nước rồi cho một cái tên rất đẹp là “Tranh Thủy Mặc” họ muốn vẽ ra một xã hội mới bằng hộp mầu có đủ mười hai sắc của một cái cầu vồng.


Trong Đẹp của Khái Hưng. Nội dung của truyện này là một tình yêu đẹp giữa một họa sĩ lớn tuổi (Bạn của bố) và cô cháu gái mới lớn (Con của bạn). Hai nhân vật chính là Nam và Lan. 


Quan niệm về tình yêu của Lan là quan niệm mà phần đông, những người thuộc lứa tuổi nàng, ở thời điểm đó không suy nghĩ như thế. Họ có thể lấy chồng từ thủa còn rất trẻ do sự hứa hẹn trước của hai bên cha mẹ, nhưng họ không biết tình yêu là gì.


Lan yêu chú Nam, bạn của bố từ khi chú Nam đến chơi ở nhà Lan, lúc cô mới 9 tuổi. Khi chú Nam chào từ giã gia đình cô, cô bé chín tuổi, đôi mắt xanh và to đã nước mắt đầm đìa và Lan phải nén lòng mới không khóc òa lên trước mặt mọi người. Trong một giây yên lặng với tất cả buồn rầu của một cuộc biệt ly, Lan đã rụt rè hỏi mẹ: “Thế mà me bảo me cho con về chơi Hà Nội với chú”.


Có ai biết được đấy là một câu tỏ tình của cô bé lên chín.  


Tình yêu đó cứ lớn dần theo tuổi và mặc dù không gặp lại chú Nam nữa, Lan vẫn cứ yêu và chờ gặp lại. Khi gặp lại nhau ở Quảng Yên, Lan được 17 tuổi, đã đi học ở Hà Nội. Lan làm đủ mọi cách, từ cử chỉ cho đến ngôn ngữ để Nam hiểu là cô yêu Nam, nhưng Nam vẫn không chú ý, vẫn coi Lan là một cô bé, mới lớn thích lý sự, thích chứng tỏ sự hiểu biết với người lớn, Nam còn khó chịu khi thấy Lan sắc xảo, thông minh quá.


Nam không chịu nhìn ra tình yêu của Lan thì chính cô phải tấn công trước, tấn công không được, chú Nam vẫn giả vờ không hiểu thì cô phải viết thư tỏ tình. Cô nói thẳng thắn ra là: Em yêu anh từ khi lên chín, Lan nói trong thư, khi chú Nam từ biệt Lạng Sơn về Hà Nội, cô khóc ngấm khóc ngầm nhớ, nhớ thành thực, nhớ sâu xa chứ không phải nhớ một ông chú hờ. Rồi mấy năm sau về Hà Nội học, Lan lớn lên và tình yêu bất diệt. Lan theo dõi việc làm của Nam, đến dự những cuộc triển lãm tranh của Nam, chạm tay vào những bức tranh Nam vẽ và Lan thất vọng lắm, vì Nam không nhận ra cô cháu ngày xưa. Nhưng Lan vẫn ngấm ngầm yêu đơn phương. 


Tình yêu của một cô bé lên chín “ ĐẸP” như cái tựa của cuốn sách. Một thứ ái tình mới mẻ của đầu thế kỷ 20. Thời mà “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” hay có khi lấy chồng vì một lời hứa hẹn trước của hai bên cha mẹ. Nhưng Lan nghiễm nhiên từ chối cuộc hôn nhân hứa hẹn để “Yêu” cái tình yêu từ thời thơ dại của mình và nàng đã thắng.


Khái Hưng mở đầu cho “tự do luyến ái” bằng một cô gái được đi học, có kiến thức để tiếp tục yêu “Cái tình yêu từ thời thơ dại của mình”. Cô đọc tiểu thuyết Pháp, áp dụng tình yêu tiểu thuyết vào tình yêu của chính mình. Cô tự động tìm đến xưởng vẽ của người đàn ông cô yêu và bắt đầu một cuộc chinh phục, bằng sự hiểu biết của một cô thiếu nữ có học ở tuổi 17.

Trong những dịp trò chuyện, Lan tìm đủ mọi cách để chinh phục Nam, nói cho Nam hiểu Nam cần có một người vợ.

 

Ra vườn, Lan ngắm quanh một vòng, rồi cười bảo Nam

- Trong vườn hẳn có nhiều cây bất tử.

Nam không hiểu, hỏi lại:

- Bất tử?

- Vâng, vì được sống mãi trong tranh họa sĩ.

Nam cho câu khen rất ý nhị và cảm động nhìn Lan

- Nếu vậy Lan cũng bất tử rồi.


- Vâng, nếu bức tranh của con được lưu lại hậu thế, mà chắc thế nào cũng được lưu lại hậu thế, vì ông là một họa sĩ có tài, có đại tài.

Cảm động đã biến thành cảm tình và Nam không dám tơ tưởng đến vẻ đẹp ngây thơ của Lan nữa: Lan là người lớn như mọi người đàn bà khác, có khi còn hơn mọi người đàn bà khác.


Lan còn nói cho Nam hiểu là Nam cần có một người đàn bà trong cuộc đời nghệ sĩ của chàng, người đó dọn dẹp những bừa bãi trong xưởng vẽ và:


“Người ấy phải là một người đàn bà. Hơn thế, phải là một người vợ. Các ông họa sĩ, thi sĩ, nói đến đàn bà, nói đến những người đảm đang như nói đến quân thù. Cái đó đã thành lệ, thành sáo mất rồi. Nhưng không sao, họ nói, họ phàn nàn, họ than phiền, mặc, họ không bỏ qua được cái cầu ấy, cái cầu lấy vợ.


Trong một lá thư Lan viết cho Nam (cốt để chinh phục chàng), nói chuyện nàng bị cô giáo phạt cấm túc, Lan nói:


Cô giáo em vô lý quá, ông ạ. Ai lại đọc tiểu thuyết trong giờ khâu mà cấm phạt ra ngày chủ nhật.

Chương trình nhà trường mới lại càng vô lý chứ! Sao không dậy con gái học vẽ  như con trai mà lại bắt học khâu! Những việc nữ công ấy có khó gì đâu! Ai làm chẳng được, mà cần phải dậy! Chừng họ tưởng công việc của chúng em là khâu vá suốt đời chăng? Nếu quả như thế thì cũng buồn ông nhỉ! Đời người phải là một đời nghệ sĩ, một đời họa sĩ, mới đáng sống, phải không ông? Em nói thế không phải em nịnh ông đâu, em không thích nịnh ai bao giờ. Nhưng em tin thế. Sống cho cái đẹp, sống để yêu cái đẹp, nói thế có đúng không ông? Hay không có nghĩa gì hết.


Nhưng mặc Lan lý luận, Nam vẫn “trơ như đá vững như đồng”. Nam là một nghệ sĩ đích thực, anh yêu vẻ đẹp của phụ nữ nói chung. Những người mẫu từ vũ nữ đến tiểu thư con nhà, từ các người vợ của bạn. Ai có nét đẹp và thích làm người mẫu chàng đều vẽ và mê đắm họ trong một thời gian. Nhưng chàng không ở lại với ai lâu bao giờ. Chàng sợ ràng buộc. Lá thư dài tỏ tình gần mười trang của Lan, cô bé yêu mình từ năm chín tuổi, thực sự làm Nam cảm động. Lan đã thắng và kết cục của mối tình Đẹp đó là Nam hỏi cưới Lan làm vợ.


Lan trở thành cái người đàn bà mà Lan cho là cần thiết trong xưởng vẽ của Nam. Thật ra người đàn bà đó chẳng qua chỉ là cái bình để Lan rót vào trong đó cái tình yêu từ thời lên chín của mình. (Một tình yêu rất TLVĐ)


Với Trống Mái, Khái Hưng đã cho một cô gái tân học có cái nhìn bình đẳng về tình yêu rất mới. Mới đến nỗi chính cô cũng luôn luôn tự hỏi mình, tự cười mình.


Hiền, một cô gái trẻ, đẹp theo Tây học từ Hà Nội về Sầm Sơn nghỉ hè, Hiền gặp Vọi, một anh thuyền chài, có thân hình khỏe mạnh, đẹp như một bức tượng Hi Lạp với một đầu óc đơn sơ (vì không có học). Hiền luôn đem Vọi ra để so sánh với Lưu, một người đang theo đuổi Hiền, một Trạng sư tương lai để thấy cái khác biệt giữa hai người. Đã có lúc Hiền mơ mộng lãng mạn, tự hỏi:


“Ừ, họ cứ nói, cứ bàn suông rằng không nên phân biệt đẳng cấp. Vậy sao ta không thể làm vợ anh Vọi được? Anh Vọi và ta đều không thuộc đẳng cấp nào cả, vì đã không chia đẳng cấp thì làm gì có đẳng cấp.”


Hiền băn khoan giữa cái trí thức đầu óc và cái tâm hồn mộc mạc. Hiền dư biết cái đẹp hình thức khó lòng mà cảm được trái tim của người trí thức. Nàng bị giằng co giữa hai đầu sợi chỉ vô hình:


“Biết thế nào là tương đương? Tâm hồn không phải là trí thức. Có trí thức mà gian trá, lừa dối, tàn ác, không bằng có một tâm hồn ngây thơ thô lỗ mà thành thực.

Nàng nhận thấy Vọi đứng riêng ra một xã hội khác hẳn với cái xã hội nàng đang sống, cái xã hội chỉ nghĩ đến dùng trí thức để che đậy một tâm hồn xấu xa, đê hèn”.


Giầu đầu óc tưởng tượng Hiền còn phác họa ra cảnh “Một túp lều tranh với hai trái tim… có lẽ bằng vàng”. Hiền và Vọi cùng trẻ, đẹp, khỏe mạnh sẽ yêu nhau sống hạnh phúc với nhau và làm việc bằng tay chân như những người dân chài lưới, ít học.


Trong khi đó thì tình yêu của Vọi đến với Hiền không có một chút lý luận nào, nó giống như nước biển từ từ thấm vào cát, giản dị và chan hòa. Tình yêu là một điều gì quá mới mẻ và lạ lùng. Giản dị, Vọi chỉ biết sung sướng được ở bên Hiền càng lâu càng tốt:


“Cái sung sướng đó chẳng một lần nào Vọi tìm hiểu xem cỗi rễ từ đâu. Chàng chỉ biết rằng hôm nào không gặp cô thiếu nữ “có lòng tốt” thì chàng buồn rầu chẳng biết làm gì. Ngày ngày chàng đánh rút bên kia làn nước, mắt lơ đễnh, tay chân rời rạc, tâm thần bâng khuâng. Nhưng cô Hiền chỉ đi qua một lượt, và nhìn chàng, gật sẽ một cái là đủ kiến chàng trở nên vui vẻ, làm việc nhanh nhẹn.”


Vọi không hề biết đó là tình yêu. Hay có thể, ban đầu không hề nghĩ đến tình yêu vì chàng và Hiền cách xa nhau quá, chàng chỉ cho cô Hiền là một người tốt bụng.


Vọi đã ngoài 20 tuổi nhưng chẳng hiểu ái tình là gì. Mẹ chàng nói chuyện dạm vợ cho chàng thì chàng gắt gỏng có khi giận mẹ đến hai ba ngày. Hiền đối với Vọi lại cao sang quá, lạ lùng quá đến nỗi chàng không coi như là một người con gái.


 Nhưng khi cô Hiền bỏ về Hà Nội rồi, Vọi như người bước hụt, anh buồn bã, anh tương tư. Anh bần thần ít nói, anh trở nên chậm chạp, và hay gắt gỏng. Anh đi tìm lại những bãi, những ghềnh anh đã đưa cô Hiền đi qua, từ cái vỏ dừa cô Hiền nhét vào vách đá đến những chữ du khách khắc tên nhau mà cô Hiền đã cắt nghĩa cho anh là tên của những cặp trai gái yêu nhau, ví dụ Hiền thì khắc chữ H, Vọi thì khắc chữ V.


Cũng vì tình yêu cô Hiền anh xém giết “Thầy Lưu” vì có một lần Lưu khoe là sẽ hỏi cô Hiền làm vợ và Vọi thấy mình thấp hèn kém xa người đàn ông đang theo đuổi nàng. Nhưng với bản chất hiền lương của Vọi, cái tội ác đó đã không xẩy ra.


Rồi mùa thu qua đông tới hình bóng cô Hiền tưởng đã phai mờ, Vọi đã vui vẻ trở lại với các bạn chài lưới, quên đi cái chuyện tình vô lý của mình. 


Nhưng một buổi trưa, Vọi ngồi trên một tảng đá chăn hộ con bò cho em mình.


“Trời giá lạnh, mỗi khi cơn gió bấc thổi tới rung mấy chiếc lá lộc vừng và đưa la đà qua mặt, Vọi lại rùng mình run lập cập tuy chàng ngồi sưởi ở dưới ánh nắng.

Một chiếc lá rơi vào lòng Vọi. Chàng cầm vân vê trong tay, tò mò ngắm nghía. Bỗng Vọi kinh hoảng kêu lên:

- Trời ơi! Cô Hiền.

Màu chiếc lá rụng đỏ xẫm như màu vỏ xò vừa nhắc tới anh màu áo tắm Hiền thường mặc.

Tất cả cái thời kỳ tắm biển lại hiện ra rõ rệt, hiện ra với những cô thiếu nữ trắng trẻo xinh tươi mà trong số đó, cô Hiền xinh tươi, trắng trẻo nhất.”


Hóa ra anh chàng đánh cá Vọi không hề quên được Hiền, một người như cô tiên dịu dàng hiện xuống đời mình, anh nhớ nhung, đau khổ và biết người ta đùa giỡn trên sự chất phác của mình, anh cam phận. Nhưng anh không thể ngưng yêu, anh nhờ người dậy viết tên và anh biết khắc tên của hai người: Hiền và Vọi, bằng hai chữ H-V trên những tảng đá từ hòn Trống Mái đến xóm Sơn (nơi gia đình Vọi ở).


Khi Vọi biết yêu thì cũng chính là lúc Hiền quên ngay anh đánh cá khờ khạo từ khi nàng bỏ biển trở về Hà Nội.


Những người trí thức hay có thói trêu đùa độc ác với kẻ dại khờ. Khi cô Phụng, bạn Hiền gặp lại Vọi ở Sầm Sơn báo tin cho Vọi biết là Hiền sắp lấy “thầy Lưu”, linh hồn Vọi rơi ra từng mảnh.


Thì ra anh chàng rể là “thầy Lưu” ….Biết thế!

Nét mặt Vọi bỗng trở nên dữ tợn. Chàng nắm chặt hai bàn tay lại. Lúc đó vừa tới nhà Phụng. Nàng thản nhiên mở cửa đi vào, để mặc anh đánh cá với sự thống khổ trong lòng.

Chiều hôm ấy khi trời mưa phùn âm u, giá rét, tuy gió rít dài trong lá phi lao xơ xác, tuy biển dữ dội văng sóng bạc lên mỏm đá hà, người ta vẫn thấy một anh chàng đánh cá đi đi lại lại trên bãi cát.

Chàng chắp hai tay sau lưng, ngửa mặt nhìn trời. Quần áo chàng ướt đẫm. Hai má chàng ướt đẫm. Chẳng biết đó là nước mưa hay nước mắt...”


Câu chuyện kết thúc với cái chết của Vọi. Cái chết rất mơ hồ, không rõ rệt. Vọi chết vì bị cá nhà táng ăn khi lặn sâu xuống gỡ lưới, hay anh quyết định ở lại dưới lòng biển, chết, khi biết tình yêu thật sự là gì?


Tình yêu của Hiền, người thiếu nữ Tây học có lãng mạn bao nhiêu chăng nữa, chỉ là một lúc bốc đồng với những tư tưởng sôi nổi, mới lạ. Nhưng cuối cùng cũng chỉ còn lại là lòng nhân đạo, lòng thương hại, thể hiện trong việc Hiền đến nhà Vọi, nghe tin Vọi chết, cho mẹ chàng mười lăm đồng trong số tiền lẻ của một trăm mười lăm đồng trong ví của vị trạng sư, người chồng tương lai của nàng. 


Nhưng với Vọi, anh đánh cá thất học có tấm thân đẹp như tượng Hy Lạp đó, đã yêu và chết cho mối tình chân thật của mình.


TLVĐ xuất hiện trên văn đàn trên dưới 10 năm (1933-1944) làm xoay đổi cả một trào lưu yêu đương mới. Giúp phụ nữ biết suy nghĩ, cân nhắc giữa những tập quán xã hội và hạnh phúc cá nhân mình.


Trong tác phẩm Lạnh Lùng của Nhất Linh. Một phụ nữ góa chồng rất trẻ, có người yêu nhưng không dám nghĩ đến chuyện tái giá vì mẹ chồng và mẹ mình mỗi ngày nhắc nhở vào tai nàng bốn chữ: “Tiết Hạnh Khả Phong”. 


Nàng tự hỏi: “Nhưng một người đàn bà góa sao lại không được đi lấy chồng như một người con gái? Sao cứ phải ở vậy mới được tiếng thơm cho cha mẹ, cho gia đình?”


Câu hỏi này, trước khi có TLVĐ, không ai nghĩ đến. Họ cho việc “Tam Tòng” là một việc gần như bắt buộc phải như thế, không thể nghĩ khác hay làm khác được.


Cái xã hội phân chia đẳng cấp còn đáng trách hơn nữa. Đã là con quan hay là quan thì không bao giờ có quyền hạ mình xuống để yêu thương hay lấy một người thuộc giới hạ cấp, nghĩa là nghèo và ít học. Cái phân chia đẳng cấp này đôi khi dắt người ta đến tàn ác mà không biết. Như trong Nửa Chừng Xuân, khi biết mẹ mình đã phá vỡ mối tình của mình và làm khổ lụy đến vợ con mình vì phân chia giai cấp, Lộc tuy đau khổ, phẫn uất vẫn cố bênh mẹ:


“Phải, bao sự lầm lẫn của mẹ ta nguyên do chỉ ở chỗ quá suy tôn cổ tục, quá thiên trọng tập quán. Mẹ ta đuổi Mai cũng chỉ vì thế, chứ khi nào mẹ lại tàn ác được đến thế?"


Ngoài đả phá hủ tục, tình yêu trong TLVĐ còn đi xa hơn nữa: Như Chương trong Đời Mưa Gió, một người học thức có địa vị trong xã hội có thể từ chối những mối tình môn đăng hộ đối vì sau một lần thi trượt đã khám phá ra: phụ nữ chỉ yêu chức vị bằng cấp của mình.


“Chương buồn rầu đến báo tin hỏng thi với người vợ chưa cưới, tưởng sẽ được nàng an ủi khuyến khích, sẽ được nàng đem lời âu yếm vỗ về. Nhưng trời ơi!

Trái hẳn, Chương chỉ gặp vẻ mặt lãnh đạm của ông bố và dáng điệu khinh bỉ của bà mẹ. Nhất, câu nói rất có lý của bà ta, thì luôn luôn, mãi mãi còn văng vẳng bên tai chàng:

 “Người lấy con tôi phải là người có nghề nghiệp, căn bản”.


Từ đó, Chương biết mang tấm tình chân của mình ra yêu cả đến một cô gái giang hồ và chung thủy với tình yêu của mình.


“Ngày thường, bận về việc dạy học, chấm bài, chàng ít rảnh thì giờ mà mơ màng, hồi tưởng tới quãng đời đã qua. Và có nhớ đến Tuyết thì chàng cũng tìm đủ lẽ phải, đủ lý luận để ghét được, để quên được một cô gái giang hồ nhơ nhuốc. Nhưng trong mấy ngày tết, mọi sự đều biến đổi, cho đến cả tính tình của ta. Người mà ta yêu khi xưa dù là người dơ bẩn vụt hiện hình ra, trong sạch, đứng trong cái khung mộng ảo của hoa đào thắm trên cái nền trắng dịu của cánh thủy tiên ... 

Vì thế mà Chương âu yếm nhớ tới Tuyết.”


Ở xã hội mà người ta khinh rẻ gái giang hồ, coi gái giang hồ là những người chỉ kiếm tiền bằng thân xác, không có trái tim rung động với chân tình thì TLVĐ cho chúng ta một cái nhìn khác:


“Tuyết thổn thức ứa hai hàng lệ. Sau hai năm, những quần áo nàng để lại khi ra đi, chàng còn giữ gìn cẩn thận. Nàng nghĩ thầm: “Nếu ta biết chàng yêu ta đến thế thì ta đừng đến nhà chàng có hơn không. Chàng sẽ mãi sống với hình ảnh không già của ta. Nhưng nay chàng đã trông thấy ta rồi, thì từ đây, ta sẽ không còn chiếm được một chỗ cỏn con trong tâm hồn chàng nữa”.


Tuyết đã bỏ đi hẳn, không bao giờ quay về nữa, để giữ mãi trong lòng Chương những mảnh tình còn lại cho nàng.


Trong Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng đã dắt tình yêu vào dưới một mái chùa với Phật, với Sư, với Tiểu với khói nhang lãng đãng. Đã thiền hóa ái tình trần thế bằng một mối tình gần như không có thật nhưng lưu lại trong lòng độc giả mùi hương của những cây nhang và những tiếng chuông thu không.


Ý nguyện chân tu Lan đã cảm hóa được tình yêu thế tục của Ngọc: 


“…Tôi thú thực với chú rằng không bao giờ trí tôi lại sáng suốt như bây giờ. Những lời tôi nói với chú, tôi nguyện có Phật tổ chứng minh, thật ở tận đáy tâm can mà ra. Tôi vẫn biết lòng chân thành của tôi không thể cảm được linh hồn chú, nên hôm nay tôi chỉ lên từ biệt chú một lần cuối cùng mà thôi. Từ nay kẻ bắc người nam, xin không gặp mặt nhau nữa.”


(Còn tiếp)