Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2022
Nguyễn Đức Tường: kẻ ở
(Nhân đọc “Tâm Sự Kẻ Sang Tần,” kịch thơ của Vũ Hoàng Chương)
Thời Chiến Quốc, Yên và Tần là hai nước không thể cùng đứng. Yên là nước nhỏ và Tần, nước lớn. Vua Tần là Chính, sau trở thành Tần Thủy Hoàng Đế, có ý định chinh phục cả sáu nước để thống nhất nước Tàu. Tần sắp sửa thôn tính Yên. Thái tử Đan nước Yên, muốn chống lại Tần, có được mưu là dùng người để hành thích vua Tần. Ông tìm được Kinh Kha. Cuốn Đông Chu Liệt Quốc, bản dịch của Nguyễn Đỗ Mục, kể lại chuyện đưa tiễn Kinh Kha trên bờ sông Dịch như sau:
“Thái tử Đan liền thảo bức quốc thư cùng bức địa đồ Đốc Cương giao cho Kinh Kha, đem nghìn vàng vì Kinh Kha sắm sửa hành trang, Tần Võ Dương làm phó sứ. Khi ra đi, thái tử Đan cùng tân khách có biết việc ấy đều áo trắng mũ trắng đưa đến sông Dịch Thủy, đặt tiệc tiễn hành. Cao Tiệm Ly nghe Kinh Kha vào Tần cũng đem cái vai lợn và một đấu rượu đến, Kinh Kha giới thiệu với thái tử, thái tử mời cùng ngồi uống rượu. Khi uống được vài lượt rồi, Cao Tiệm Ly đánh cái trúc, Kinh Kha dịp theo, hát rằng:
Gió hiu hắt nước lạnh tê,
Phen này tráng sĩ ra đi không về.
Tiếng hát rất thê thảm, tân khách và các người đi theo đều chảy nước mắt khóc. Kinh Kha ngửa mặt thở đánh phì một tiếng, hơi xông thẳng lên trời, hóa thành một cầu vòng trắng, ai nấy đều lấy làm lạ. Kinh Kha lại cất tiếng hát:
Hang hùm quyết chí xông pha,
Một luồng hơi thở hóa ra cầu vòng.
Tiếng hát đổ ra giọng hăng hái, mọi người đều trừng mắt hăm hở như đi ra trận. Thái tử Đan lại rót chén rượu, quì mời Kinh Kha, Kha uống một hơi hết ngay, víu tay Võ Dương, nhảy tót lên xe, giục ra roi đi mau. Thái tử Đan lên gò cao trông theo, đến khi không trông thấy nữa mới thôi, ra ý buồn bã chảy nước mắt mà đi về.”
*
Thái tử Đan nước Yên gục đầu, ngủ thiếp trên án thư. Dưới ánh sáng chập chờn, mập mờ của cây bạch lạp trong thư phòng, bóng người cung nữ xinh đẹp của Vương lại tha thướt hiện ra, toàn vẹn. Nàng cảm ơn Vương đã trả lại cho nàng đôi bàn tay bị chặt đứt.
Đêm hôm trước nàng đã hiện về, rụt rè đứng ở một góc phòng. Vương quát mắng hỏi và nhận ra đó là mỹ nhân đắc ý nhất của mình. Nàng ấm ức khóc, đưa hai tay lên che mặt, hai tay thiếu mất đôi bàn tay. Đối với người quyền quý như Vương, một mạng người không có gì đáng kể, nhưng người đẹp bị chết oan uổng đây lại chính là người cung nữ yêu của mình, Vương động lòng, nói “Nàng chớ oán trách ta…” Người đàn bà trả lời:
“Tiện thiếp thân phận hèn mọn, đâu dám oán trách Chúa Công, vì đại sự đã hy sinh sinh mạng của tiện thiếp. Tiện thiếp chỉ xin Chúa Công cho người kiếm lại hai bàn tay để cho thân thể tiện thiếp được vẹn toàn.”
Bên ngoài mưa gió lớn. Tiếng sấm đổ dồn khiến Vương giật mình tỉnh giấc. Ánh chớp chiếu qua tán lá của cây cổ thụ tạo thành bóng hình người cung nữ, những giọt nước mắt sáng long lanh lã chã rỏ xuống từ hai lỗ hổng mắt. Tiếc thương người cung nữ xấu số, hai bàn tay mỹ miều bị chặt mất để biếu lấy lòng Kinh Kha, Vương rùng mình, truyền gọi nội thị đi kiếm lại đôi bàn tay. Ngày hôm sau, nội thị mang chiếc hộp gỗ đựng hai bàn tay về trình, nói tìm thấy ở một góc buồng nơi Kinh quán, ngôi nhà Vương đã sai xây cho Kinh Kha.
Vương truyền mở hộp. Hai bàn tay ngà ngọc nay vô hồn, xám ngắt, trông gớm khiếp. Vương bùi ngùi sai đem đi chôn cùng với người cung nữ; lần đầu tiên trong đời Vương nhận ra một chân lý căn bản, hiển nhiên đối với người dân thường, rằng vẻ đẹp không còn là vẻ đẹp một khi bị tước bỏ sự sống và tách ra khỏi toàn diện.
“Tiện thiếp rất đội ơn Chúa Công đã trả lại hai bàn tay cho tiện thiếp. Qua cách đối xử với bàn tay của tiện thiếp, tiện thiếp lo sợ rằng người tráng sĩ không có đủ cẩn trọng để làm tròn sứ mạng quan trọng mà Chúa Công đã giao phó…”
Đó cũng là nỗi lo sợ của chính Vương đã hơn một tuần trăng, từ ngày Kinh Kha sang Tần với mục đích hành thích vua Tần là Tần Chính. Vương sống trong khắc khoải, bồn chồn. Vương càng nghĩ càng thấy việc làm của mình là rồ dại. Một người như Vương không có thói quen kiểm điểm hành vi của mình, nhưng đây là việc hệ trọng, liên quan không những đến vận mệnh của Vương, mà còn cả đến vận mệnh của vua cha, của tôn tộc, của nước Yên… Vương tự trách mình hồ đồ, không phải vì việc sai người đi hành thích vua Tần, mà vì cách thức thi hành sự việc quá cẩu thả.
Vương nghe lời Điền Quang, nghĩ Kinh Kha là một tay hào kiệt, ngày đêm thờ phụng kính cẩn, nhưng Vương đã nhầm. Về thuật đánh gươm của Kinh Kha, Vương không nghi ngờ, nhưng hành thích vua Tần không chỉ đòi hỏi ở thuật đánh gươm mà đòi hỏi một trí dũng kiêm toàn. Lúc này Vương nhận biết Kinh Kha không có cái trí dũng đó. Trên bờ sông Dịch, Vương rót rượu quì mời Kinh Kha, Kha không khiêm nhượng, thản nhiên uống một hơi hết ngay rồi nhảy vọt lên xe ra roi chạy như một tên say. Đó không phải là cách cư xử của một người trí dũng. Một người trí dũng cũng không cần phải hiu hiu tự đắc về tài nghề của mình, trên đời không ai hơn, có lẽ chỉ trừ Cáp Nhiếp. Vương đã quá hấp tấp, mặc dù việc sang Tần là cấp bách, đáng lẽ Vương phải đình chỉ việc sang Tần ngay từ lúc Kinh Kha nằng nặc có ý định đi tìm Cáp Nhiếp để làm bạn đồng hành. Rồi đến chuyện tiễn đưa trên bờ sông Dịch, cơ hội cuối cùng để Vương kiên quyết, tự chủ hủy bỏ việc làm với tính toán chưa được chín của mình.
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
Nước sông chảy tê tê, cành liễu dạt dài trơ trụi lá. Cả nghìn tân khách, mũ trắng áo trắng, đã biết sứ mạng của Kinh Kha, hàng hàng lớp lớp tụ tập trên bờ sông Dịch, đặt tiệc rượu tiễn người tráng sĩ sắp ra đi, không bao giờ trở lại. Cao Tiệm Ly, bạn rượu thường nhật của Kinh Kha, ngất ngưởng vác một cái vai lợn và một đấu rượu đến. Suối rượu, dòng sông. Chỉ còn thiếu Cáp Nhiếp, bạn đấu gươm luyện kiếm độc nhất mà Kinh Kha kính phục, đã lại đi phiêu du tận phương trời nào. Trên bờ sông, Kinh Kha mình mặc nhung phục, khăn quàng đen cuốn quanh cổ theo chiều gió thổi bay phất phơ, tương phản y phục tang tóc của khách theo tiễn, cất tiếng hát trầm hùng: "Tráng sĩ hề, một đi không trở lại..." Cao Tiệm Ly cong người đánh cây trúc, hát theo. Rồi Kinh Kha ngửa mặt, thở phì một tiếng, hơi xông thẳng lên trời, hóa thành cái cầu vồng trắng, thê thảm hát tiếp:
Hang hùm quyết chí xông pha,
Một luồng hơi thở hóa ra cầu vồng…
Đẹp quá. Đây là một diễn biến, một bức tranh lịch sử bi hùng đang từ từ mở rộng, để dành cho hậu thế, người tráng sĩ ra đi không bao giờ trở lại. Người tráng sĩ ra đi không bao giờ trở lại. Mũ áo tang trắng. Bên kia bờ sông Dịch, và có khi ngay cả ở trong nước Yên này nữa, đâu có thiếu thám mã của quân Tần! Từ tâm can, từ huyết mạch Vương mơ hồ cảm thấy mình đang chứng kiến một lừa bịp lịch sử. Một cảnh chỉ nên được giữ lại cho một vở tuồng cung đình. Vương nhớ đến những người đã hy sinh, đến người cung nữ yêu quý, đến lão quan Điền Quang, đến lão tướng Phàn Ô Kỳ và, rồi ra rất có thể, sẽ không biết bao nhiêu người khác nữa. “Hừ, Điền Quang, cơ mật…” Vương ngậm ngùi nghĩ đến vị lão quan trung thành, bất giác giận dữ hét to:
“Cơ mật!” Tiếng hét vang lên trong đêm khuya tịch mịch. Một người nội giám sợ hãi chạy vào, Vương vẫy tay ra hiệu cho lui.
Điền Quang, vị lão quan trí dũng còn thừa nhưng tuổi già chồng chất, không thể cáng đáng được việc sang Tần, đã tiến cử Kinh Kha. Khi ông sắp lên xe đi đón Kinh Kha, Vương còn căn dặn: “Những lời Đan nói là việc lớn của nước nhà, xin tiên sinh chớ hở ra cho ai biết.” Ông già cười trả lời:
“Già này không dám nói.”
Vương hơi kinh ngạc về cách Điền Quang cười trả lời. Vương chỉ biết mình đã giết chết vị lão quan trung thành khi Kinh Kha đến, Vương hỏi về Điền Quang thì được nghe trả lời: “Quang nghĩ thái tử có lời dặn riêng, muốn đem cái chết để tỏ ra là đã giữ kín không nói với ai, nên đã đâm cổ chết rồi.”
Nếu cái chết của Điền Quang là do việc Vương vô ý nói lỡ thì cái chết của Phàn Ô Kỳ có lẽ không hoàn toàn thật vì Vương vô tâm. Phàn Ô Kỳ, nguyên là tướng Tần, vì xui em của vua Tần là Trường An Quân làm phản, việc không thành phải chạy trốn sang Yên. Vua Tần căm giận lắm, rao mua cái thủ cấp nghìn vàng. Muốn hành thích vua Tần thì phải được vua Tần tin, cho đến gần, Kinh Kha bàn với Vương nên có cái đầu của Phàn Ô Kỳ và đất Đốc Cương đem dâng vua Tần, vua Tần tất vui mừng tiếp đãi thì mới có hy vọng được. Vương phản đối yếu ớt, “Phàn tướng quân cùng khốn về theo sao nỡ giết chết…” Kinh Kha biết Vương bất nhẫn, bèn nói riêng với Phàn Ô Kỳ để xin thủ cấp.
*
Đã nhiều đêm như đêm nay, Vương ngủ những giấc ngủ không bình yên, mơ những giấc mơ hãi hùng. Vương đã chứng kiến biết bao nhiêu sự tàn ác, hèn mạt, phản phúc trong các nước chư hầu và ngay cả chính nước Yên của mình nữa.
Chinh chiến triền miên, người chết năm vạn, mười vạn, thường chẳng có lý do chính đáng. Về sự tàn ác không ai có thể so sánh được với tướng Tần, Võ An Quân Bạch Khởi. Trong trận Trường Bình, quân Triệu thua hàng, hơn bốn mươi vạn người, Bạch Khởi đánh lừa cho trâu rượu ăn uống, rồi trong một đêm sai quân chém chết hết, máu chảy ào ào, nước ở Dương Cốc biến thành sắc đỏ. Trong trận này, tổng cộng hơn bốn mươi lăm vạn người, kể cả quân đã hàng, bị giết, chỉ còn 240 người ít tuổi được thả về Hàm Đan để cho nước Triệu khiếp vía.
Nhìn quanh các nước chư hầu, Vương chỉ toàn thấy một mùi xú uế nồng nặc. Văn quan, võ tướng, tuy không thiếu gì người tài giỏi nhưng những bọn lang sói, siểm nịnh, còn tài giỏi, mưu mẹo hơn. Để chống lại Tần, các nước chư hầu có kế hợp tung để cứu trợ nhau. Nhưng tung nhiều mà hợp ít. Xuân Thân Quân Hoàng Yết, tướng quốc nước Sở, hai lần cầm quân đánh Tần. Lần thứ nhất, trong kế hợp tung, vua Sở là tung ước trưởng, sai Hoàng Yết mang quân đi cứu Triệu. Hoàng Yết đóng quân ở Vũ Quan trông ngóng, không tiến, may mà Tín Lăng Quân nước Ngụy, vì tình quyến thuộc, với mưu mẹo của người sắp chết đuối, đã đánh được quân Tần, giải vây cho Triệu. Lần thứ nhì, trong một tung ước khác, vì Sở là nước lớn, Hoàng Yết được cử làm thượng tướng, cầm quân năm nước. Tướng Tần là Vương Tiễn nói quân Sở đã hơn ba mươi năm không đánh nhau, không quen chiến trận, nên hợp quân lại đánh một mình quân Sở, Sở tất thua và quân của bốn nước kia cũng phải rút. Hoàng Yết nghe biết, sợ quá, không kịp báo các dinh khác, truyền lệnh riêng cho quân Sở rút lui. Vương Tiễn biết quân Sở đã trốn, liền đem quân đánh dinh Triệu. Quân các dinh Yên, Hàn, Ngụy đều đến cứu, chỉ thiếu một mình dinh Sở.
Nhưng hợp tung dù có thành công cũng chưa chắc đã lợi ích gì vì bên trong nước Triệu còn có những loài chó ngựa như sủng thần Quách Khai, bán rẻ sơn hà xã tắc như một miếng thịt thiu, không luyến tiếc. Mưu sĩ của Tần là Úy Liêu, biết Quách Khai là kẻ tham lợi, tuyệt không có chút lòng vì nước, sai đệ tử là Vương Ngao đem theo năm vạn cân vàng, sang Triệu, liệu cách mua chuộc. Vương Ngao chỉ dùng hết một vạn cân đã được việc, động lòng hỏi: “Vạn nhất nước Triệu mất thì ngài đi đâu?” Đáp: “Tôi sẽ ở trong hai nước Tề, Sở, chọn một nước mà thoát thân.” Từ biệt Quách Khai về Tần, Vương Ngao đem bốn vạn cân vàng còn thừa nộp lại nói rằng: “Tôi đã dùng một vạn cân vàng kết liễu sinh mạng Quách Khai, dùng một Quách Khai kết liễu sinh mạng nước Triệu.”
Rồi Vương nghĩ đến nước Yên của mình, cũng chẳng thiếu gì những Quách Khai, Hoàng Yết. Hai lần đánh nước láng giềng đồng minh là Triệu, hai lần thua; lần đầu nghe lời tên tướng quốc bất chính là Lật Phúc, vì không được của đút lót, nói tướng Triệu già yếu, trai tráng bị chết cả từ trận Trường Bình, có thể diệt được; còn lần sau để báo thù lần thua trước. Tần muốn đánh Triệu, bèn dụ Yên bỏ Triệu theo Tần; Yên bằng lòng và Vương phải sang Tần ở làm con tin. Triệu biết thế yếu, cắt dâng năm thành, xin hòa với Tần để rảnh tay đánh Yên, lấy được 30 thành Thượng Cốc. Triệu giữ 19 thành, đem dâng Tần 11 thành; còn Vương phải khốn khổ lắm mới ra khỏi được cửa Hàm Cốc, trốn thoát về Yên. Những hành xử mang đủ tính cách hèn mạt, phản phúc và dại dột.
Nhưng những năm tháng Vương sống ở Tần không hoàn toàn vô ích. Vương được biết những tướng tá, mưu sĩ của vua Tần toàn là những người tài giỏi, trung thành dù cũng có người nghi ngại về vua Tần, như Úy Liêu, một thượng khách mưu sĩ, một đêm không từ biệt, bỏ đi, vua Tần triệu mãi mới về, bái làm đại úy cho chủ việc binh. Vua Tần là Tần Chính, khi tuổi đã trưởng thành, mình dài tám thước năm tấc, anh vĩ lạ thường, việc gì cũng tự chủ trương lấy. Nếu đúng như Úy Liêu nói: “Vua Tần mũi to, mắt dài, ngực ưỡn, tiếng gầm, là người tàn khắc ít ân, lúc có việc thì chịu khuất người, lúc xong việc thì khinh bỏ người, cho nên chịu khuất thân với ta, lúc đắc chí rồi, thiên hạ đều bị giết hại cả,” thì đó là việc về sau. Hiện tại, Vương nhìn bốn phương trời, chỉ thấy vua Tần là người trí dũng, một vai một đầu cao hơn bất cứ vị vua chư hầu nào.
Là thái tử nước Yên, Vương đã cố làm hết bổn phận của mình. Hành thích vua Tần, nếu thành công thì tình trạng các nước chư hầu cũng chỉ được giữ nguyên không thay đổi, nhưng Vương linh cảm rằng sứ mạng của Kinh Kha sẽ thất bại; nó không còn là việc cơ mật như Vương mong muốn và, hơn nữa, về sức lực Kinh Kha không khỏe gì hơn vua Tần. Không những Vương không “lưu danh thiên cổ” mà sẽ còn “lưu xú vạn niên.” Vương ngẫm nghĩ về số phận khắc nghiệt của mình. Từ chỗ sâu thẳm nhất của tâm hồn, Vương biết vua Tần là một người chí khí cao việt, cũng muốn làm như vua Tần, dẹp hết các chư hầu để thống nhất đất nước, cho bớt chiến chinh sát hại dân lành. Vương cố xua đuổi, dẹp bỏ ý tưởng giằng xé đang chực thành hình; ấy là ao ước được sinh đẻ ở nước Tần hay ít nhất cũng không phải là thái tử của nước Yên...
*
Kinh Kha bưng hộp địa đồ Đốc Cương dâng lên vua Tần, lúng túng mũi dao trong áo bị lộ ra. Sự việc kết thúc trong khoảnh khắc. Vua Tần hãy còn tức giận, sai Vương Bí đem quân trừng phạt cha con vua Yên. Vua Yên sợ hãi đem đầu thái tử Đan nộp để hòa hoãn. Thái tử Đan không lưu danh thiên cổ mà cũng không lưu xú vạn niên, còn Kinh Kha đi vào sử xanh, lật đật trở thành “người tráng sĩ anh hùng, ra đi không bao giờ trở lại” như sách vở qua bao nhiêu thời đại đã không ngừng miêu tả.
01/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét