Home

THƯ NGỎ

Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2022

XUÂN NHÂM DẦN 2022

Hình minh hoạ Quan Tran MinhPixabay, Graphic CallmeTak

Diễn Đàn Thế Kỷ kính chúc quý Độc Giả và Văn Hữu một năm Thân Tâm An Lạc.
Và xin mượn đoạn đối thoại sau đây để mở đường mời tất cả chúng ta đi vào Mùa Xuân Mới.

TÔN-GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

Nhà Thần-học người Brazil, Leonardo Boff kể lại :

Đây là một mẩu đối-thoại ngắn của Leonardo Boff với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma

Tại một cuộc hội-thảo bàn tròn về “Tôn-giáo và tự-do” có Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và tôi cùng tham-dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh-nghịch vừa tò-mò:

“Thưa ngài, tôn-giáo nào tốt nhất? ”
Tôi nghĩ ngài sẽ nói:

“Phật-giáo Tây-Tạng” hoặc các tôn-giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều.

Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm-ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…
Điều này làm tôi ngạc-nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.

Ngài trả lời :

“Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất. Là tôn-giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Để giấu sự bối-rối của tôi trước một câu trả-lời đầy khôn-ngoan như thế, tôi hỏi:
“Cái gì làm tôi tốt hơn? ”

Ngài trả lời:
“Tất cả những gì làm anh
Biết thương-cảm hơn
Biết theo lẽ-phải hơn
Biết từ-bỏ hơn
Biết dịu-dàng hơn
Biết nhân-hậu hơn
Có trách-nhiệm hơn
Có đạo-đức hơn”.
"Tôn-giáo nào biến anh thành như-vậy là tôn-giáo tốt nhất”.

Tôi thinh-lặng giây lát, lòng đầy thán-phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả-lời đầy khôn-ngoan và khó phản-bác, Ngài tiếp:

“Anh bạn tôi ơi!
Tôi không quan-tâm đến tôn-giáo của anh hoặc anh có ngoan-đạo hay không. Điều thật-sự quan-trọng đối với tôi là cách cư-xử của anh đối-với người đồng-đẳng, gia-đình, công-việc, cộng-đồng và đối-với thế-giới.

Hãy nhớ rằng vũ-trụ dội lại hành-động và tư-tưởng của chúng ta. Quy-luật của hành-động (Action) và phản-ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật-lý. Nó cũng được áp-dụng cho tương-quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.

Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.

Những gì ông bà nói với chúng ta là sự-thật thuần-túy. Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh-phúc không phải là vấn đề số-mệnh. Đó là vấn-đề lựa-chọn.”


Cuối cùng ngài nói:

“Hãy suy-tư cẩn-thận vì Tư-tưởng sẽ biến-thành Lời-nói,
Hãy ăn-nói cẩn-thận vì Lời-nói sẽ biến-thành Hành-động,
Hãy hành-xử cẩn-thận vì Hành-động sẽ biến-thành Thói-quen,
Hãy chú-trọng Thói-quen vì chúng hình-thành Nhân-cách,
Hãy chú-trọng Nhân-cách vì nó hình-thành Số-mệnh,
Và Số-mệnh của anh sẽ là Cuộc-đời của anh.
… và …
"Không có tôn-giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật."


(Trích từ : Diễn Đàn ThuVienHoaSen)

Lê Hữu: Câu chuyện đầu năm Covid thứ ba

Ta cùng nhau đón thêm mùa xuân…

Câu hát quen thuộc trong bài nhạc xuân “Câu chuyện đầu năm” của nhạc sĩ Hoài An, cách đây cũng đến hơn nửa thế kỷ. 

Xuân này Xuân Covid thứ ba rồi

Câu này thì không có trong bài hát ấy, ông bạn tôi “chế” ra trong lúc hát karaoke để làm mới một bài hát cũ, gọi là cho phù hợp với tình thế mới.

Những mùa xuân Covid theo nhau

Cứ thế, xuân sau và xuân sau nữa, chỉ cần đổi “thứ ba” thành “thứ tư”, “thứ năm”…, bài hát như được tân trang thành bài nhạc xuân mới, hợp thời trang. Có điều, chắc không ai muốn ngồi đếm mãi những mùa xuân Covid đã đi qua đời mình. Người ta chỉ muốn nó đi luôn, đi biệt, một đi không trở lại. Thế nhưng, nếu nó không chịu đi đâu cả mà cứ ở lì ra đó thì làm sao bây giờ? Chắc không có cách nào khác là đành phải thỏa hiệp với nó, phải gắng gượng làm vui mà sống chung hòa bình với nó.

Câu hát chế biến ấy cũng cho thấy một điều, người ta cũng đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để mà sống chung với nó cho dù có miễn cưỡng, chỉ vì không còn sự lựa chọn nào khác hơn. 

Tính từ ngày 11 tháng Hai năm 2020 là ngày Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức đặt tên cho bệnh dịch quái ác này là “Covid-19” (viết tắt của “Coronavirus disease 2019”), Tết này được kể là cái Tết Covid thứ ba của người Việt mình. 

Người ta quen gọi những ngày tháng năm này là “mùa dịch” hay “mùa Covid”, tương tự cách gọi “mùa cúm”, từ khi dịch bệnh đến từ loài siêu vi tên là Coronavirus được phát hiện và lây lan. Gọi “mùa” trong ý nghĩ là cho dù nó có hoành hành, có quậy phá tới đâu thì cũng đến một lúc nào phải chia tay, nhiều lắm là hẹn lại… mùa sau. Những “mùa màng” thường không kéo dài lâu, chỉ đôi ba tháng hay nhiều lắm là sáu tháng, nửa năm như “miền Nam mưa nắng hai mùa”, ngoại trừ… mùa chiến chinh. Không ai nghĩ là loài siêu vi này lại bám trụ dai dẳng đến thế và tới nay cũng chưa có dấu hiệu nào cho thấy là “mùa” ấy sắp sửa lụi tàn.

Trần Mộng Tú: Màu Thời Gian

Hình minh hoạ truthseeker08, Pixabay

Mẹ ạ, Tết này con già lắm
Già hơn cả Mẹ thời mới sang
Con mang tóc trắng mình ra nhuộm
Ngỡ là mình nhuộm được thời gian

Thời gian có màu không hả Mẹ
Sao mỗi người nhìn thấy khác nhau
Hay tại chúng ta đều loạn sắc
Nên thời gian luôn phải thay màu

Chùm hoa ngày Tết sao mà đẹp
Mầu nào cũng giấu được nỗi buồn
Dưới cánh hoa có giọt nước mắt
Vẫn ngọt ngào gọi khẽ “Quê Hương”

Nén nhang ngày Tết sao mà thơm
Khói bay vào mắt làm mắt buồn
Mắt buồn nhưng chỉ ngân ngấn lệ
Tuổi con đã hiểu lệ như sương

Sương rồi cũng sẽ tan theo nắng
Tóc theo mây trắng bay bạt ngàn
Mẹ ạ, Tết này con già lắm
Biết là không nhuộm được thời gian.

tmt- Xuân Nhâm Dần- 2022


Ngô Nhân Dụng: Sống Tỉnh Thức với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Trang web Làng Mai thông báo về sự ra đi của Hòa Thượng Nhất Hạnh. (Hình: Trích xuất từ plumvillage.org)
Trang web Làng Mai thông báo về sự ra đi của Hòa Thượng Nhất Hạnh. (Hình: Trích xuất từ plumvillage.org)


Trong cuốn “Không Diệt, Không Sinh, Đừng Sợ Hãi” (dịch tiếng Anh: No Death, No Fear), Thiền sư Nhất Hạnh nói rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thật. Biết như vậy thì mình không còn sợ cái chết nữa. Các đệ tử của ông đang cần suy ngẫm điều này sau khi nghe tin thầy qua đời.

Tháng Hai năm 2019, tuần báo Time ở Mỹ viết, “Vị sư dạy Thế giới về Sống Tỉnh Thức đang chờ ngày chấm dứt cuộc đời;” nhận xét rằng: “Nhất Hạnh được nhiều người Tây phương gọi là cha đẻ của mindfulness. Ông dạy rằng ai cũng có thể là những vị bồ tát, bằng cách sống hạnh phúc trong những công việc tầm thường – như khi gọt một trái cam hay nhấp một hớp trà, một cách tỉnh thức.”

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh không phải chỉ đóng góp vào việc phổ biến phương pháp “Sống Tỉnh Thức.” Ông đã nối kết các tư tưởng sâu xa trong kinh điển đạo Phật Bắc Tông (thường gọi là Đại Thừa) với những các phương pháp hành trì được Nam Tông chú trọng, như Thiền hành và Thiền Minh Sát, Vipassana.

Đây là một truyền thống của Phật Giáo Việt Nam, từ nhiều đời. Thích Nhất Hạnh cho thế giới nhìn thấy và công nhận có một nền Phật Giáo Việt Nam mà ông là người tiêu biểu, bên cạnh các truyền thống Phật Giáo Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, vân vân, đã được truyền bá rộng từ trước.

Nguyễn Tường Thiết: Viết, trong bóng rợp của người cha

Nhất Linh thời còn trẻ
“Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Tôi nằm ngửa bên cạnh bà, hai tay cầm giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Đọc đến đoạn cảnh mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy hỏi mẹ tôi: “Mợ này, mợ có phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu như cậu tả trong truyện không?”. Mẹ tôi ngửng lên nhìn tôi nói: “Đấy là cậu viết tiểu thuyết... Bà nội con có khó tính thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt thế...”. Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau.”

Trên đây là phần đầu của hồi ký nhan đề “Bà Cẩm Lợi” tôi viết về mẹ tôi, bà Nhất Linh. Tôi rất tâm đắc bài viết này, đặc biệt là câu mở đầu “Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi” mà tôi cho là một lối hành văn mới mẻ. Viết xong, vì muốn khoe bà chị, tôi in bản thảo gửi ngay cho chị Thoa ở bên Pháp đọc trước khi đăng trên tạp chí. Ít lâu sau tôi nhận được điện thoại của chị. Chị chê tôi: “Em không biết viết văn. Câu văn thì phải có chủ từ, phải có động từ; em không thể viết hai chữ “Một lần” rồi chấm ngang xương được. Chị có quen một bà bạn dậy Việt văn, chị đề nghị để bạn chị sửa lại bài ấy trước khi em cho đăng báo.” Rồi chị nói thêm: “Em phải học lối viết của cậu thì văn mới hay được.”

Chị tôi nói thế nhưng tôi không giận chị. Trái lại tôi yêu chị Thoa của tôi hơn vì câu nói thể hiện cái tính thật thà chơn chất nó làm nên con người chị.

Chị Thoa bây giờ không còn nữa. Có thể chị đã được gặp lại cha tôi ở bên kia thế giới như chị từng mong ước khi chị còn sống. Và có thể chị đã thuật lại quãng đời sau này của chúng tôi cho cha tôi nghe. Ông nghĩ sao khi được biết, qua lời chị kể, nửa thế kỷ sau khi ông mất, tôi đã trở thành “một nhà văn không biết viết văn”.

G.S. Phạm Trọng Lệ: Con Hổ Và Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt-Anh-Pháp

Mồng Một Tết âm lịch sắp tới là bắt đầu năm con Hổ hay Nhâm Dần nhằm vào ngày thứ ba mồng 1 tháng 2 năm dương lịch 2022. Bài này phần nào có vài chi tiết về sinh vật học, có thể thiếu tế nhị, nên xin coi như một bài khoa học. Vì giới hạn, bài cũng để dành vài khía cạnh văn hóa của con Hổ vào một dịp khác. Bài sẽ bàn về tục ngữ ca dao dính dáng ít nhiều đến hổ. Ít có con vật nào được từ điển uy-tín Larousse dành cho thành ngữ jaloux comme un tigre.

Bà Hổ Trách Ông chồng“Sao giờ này hai giờ sáng mới vác cái bộ mặt dễ ghét về nhà?”. Hình Wikipedia

Vào bài:

Nói đến Hổ, người dân thường—nhất là đồng bào miền Thượng ở thế kỷ trước-- thường tỏ lòng kính cẩn, phải thờ cúng, thậm chí chỉ dám nói khẽ đến tên như ông hùm, ông kễnh, ông cọp, ông khái, ông ba mươi; lại có nơi còn có bầy bàn thờ hình Ông Hổ…bài này cũng nói đến Bà Hổ thường bị Ông quên lãng. Bà mang thai (từ 93-105 ngày), sinh ra mỗi lứa từ 2-4 con, hiếm khi tới 6 con, mỗi con nặng 780 đến 1,600g (1.72 đến 3.53 lb), thường sinh trong khoảng giữa tháng 3 và tháng 6, và nhất là tháng 9.

Trần Doãn Nho: Năm mới, nói chuyện “Happy New Year”

 Trước hết, xin mời nghe:

https://www.youtube.com/watch?v=aTlHVbmgEug


“Nếu bạn nghĩ rằng ca khúc “Happy New Year” là ca khúc đón chào năm mới trứ danh nhất thế giới, thì bạn lầm. Thực tế là, ca khúc này của ABBA chỉ đặc biệt phổ biến ở Việt Nam và một vài xứ khác, theo lời quả quyết của một bài viết trên trang mạng Scienceinfo.net [1]. Trang từ điển quốc tế, Wikipedia, cũng cho rằng   “Happy New Year” “được phổ biến một cách đặc biệt ở Việt Nam.” [2]


Có lẽ đúng như thế! Trong mấy thập niên qua, ca khúc này trông giống như một trong những ca khúc “nền” cho các chương trình ca nhạc đón chào năm mới Dương Lịch và Tết Âm Lịch ở trong nước, và đôi khi cả ở hải ngoại, sánh vai cùng một ca khúc mừng xuân khác, “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương. Nghe mãi đến nỗi âm hưởng của như nó khắc sâu vào tâm hồn nhiều người Việt Nam, kể cả trẻ con. Nhất là mấy chữ “Happy New Year” lập đi lập lại như một tiếng reo vui không dứt.


Có điều, phiên bản lời Việt của bài hát hoàn toàn không dính dáng gì tới nguyên bản tiếng Anh. 

Xin chúc cho mọi nhà, cùng người thân hân hoan đón xuân. năm cũ đi năm mới sang. đón thêm bao tin vui nơi nơi. chào xuân mới trong gió xuân an lành. rộn ràng bao câu ca thắm tươi. ai cũng vui, bên gia đình. chúc năm nay an khang mọi nhà.(…)  Xin chúc cho ông bà và mẹ cha được luôn sống lâu. vui đón xuân. bên cháu con, bé thơ đang mong bao lì xì. ngày đầu năm ai cũng vui xum vầy. cầu tình duyên mình đi lễ chùa, trong nắng xuân, chim én bay, khắp nơi nơi hoa xinh tuyệt vời. gió xuân chan hòa... tiếng reo ca.


Rất rộn ràng, rất Tết! Nhưng lời ca này hoàn toàn được “sáng tác” lại, chỉ dùng để ghép vào với nhạc mà hát, không chuyên chở bất cứ một ý nghĩa nào của nội dung nguyên thủy bài hát. Bất cứ ai hiểu đôi chút tiếng Anh, nghe hát lời Việt này không khỏi thấy nó kỳ kỳ. Có lẽ vì thế, nên có người đã tải lên Youtube một “video clip” gốc bài hát, có kèm theo lời dịch nguyên văn ra tiếng Việt, để ta vừa nghe vừa theo dõi nội dung [3]. Một cách làm đáng tán thưởng.

Huỳnh Hữu Ủy: Mỹ Thuật Việt Nam Thời Tiền Sử

Dựa vào Bắc Sử, sử của Trung Hoa, người ta vẫn tin rằng vào thời tiền sử, ở phía nam sông Dương Tử có nhiều bộ tộc sinh sống, gọi là Bách Việt. Tổ tiên của dân tộc Việt, theo truyền thuyết là Lạc Long Quân và bà Âu Cơ cũng là một thành phần của Bách Việt.

Từ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, khoảng thế kỷ II - I trước Công Nguyên. Toàn bộ các nhóm Bách Việt đều đã bị Hán hóa do cuộc chinh phạt của Tần Thủy Hoàng từ thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, ngoại trừ Lạc Việt, tức Việt Nam, đã giữ được độc lập, tự chủ, nghĩa là giữ vững một sắc thái văn minh riêng. Khởi từ những dấu vết này, chúng ta đi tìm nguồn gốc dân tộc, để từ đó có thể tìm lại cái đẹp của mỹ thuật Việt Nam vào buổi bình minh của lịch sử.


Một Cái Nhìn Tổng Thể Về Nước Việt Thời Tiền Sử


Sách sử Việt Nam xưa viết về thời dựng nước, mặc dù có pha nhiều màu sắc thần bí, truyền kỳ, cũng đã từng vẽ ra đôi nét về cương vực của nước Việt cổ, tức nước Văn Lang. Nước Văn Lang rất rộng. “Phía đông giáp bể Nam Hải, phía Tây tới Ba Thục, phía bắc giáp Động-Đình-Hồ, phía Nam giáp Hồ Tôn, tức là Chiêm Thành.” (1) Những đất đai ấy rộng hơn địa phận nước Việt ngày nay. Ba Thục thuộc Tứ Xuyên, hồ Động Đình ở chính giữa nước Tàu, trong tỉnh Hồ Nam.


Các sử gia Ngô Thì Sĩ, Phan Huy Chú, Henri Maspéro đều cho là cương giới này quá rộng lớn, không đúng với sự thực. (2)


Nguyễn Khắc Ngữ lại cho rằng những ghi chép ấy không phải hoàn toàn là không hợp lý nếu chúng ta hiểu rằng vùng đất rộng lớn mênh mông ấy là nơi sinh sống của sắc dân vẽ mình. Văn Lang có nghĩa là người vẽ mình; tục xăm mình xuất hiện từ thời các vua Hùng và cho đến thời Trần Anh Tông vẫn còn tồn tại.

h o à n g x u â n s ơ n: T Ế T

tranh mượn từ Facebook Nguyễn Đăng
Tôi viết bài thơ như xõa tóc
giữa chốn ngàn mai xuân lánh về
nghe trong nức nở hương thầm muộn
một chút hanh vàng một chút tê

)

Trong con mắt tuyết cành lê trắng
chưa đến cỏ non hẹn chân trời*
tháng giêng tháng lẻ buồn như chiếc
gương tẻ như hồn chiếc bóng soi

(

Tôi vẽ dung nhan mùa hạnh lộc
giọng buồn kéo thơ đi vào khung
trời hôm qua nắng từ âm độ
hát với tôi nghe giữa mịt mùng

)

Trùng hưng một tiết thơm ngày cũ
tôi đợi em về mưa bụi bay
tiếng thưa tiếng dạ mầu lam biếc
đã chín trầm hương tiếng ngọt đầy

(

Và đôi tay nhé không thừa thãi
mình kéo nhau đi chạy băng băng
tôi rủ em vào thăm phế tích
một đóa sen thơm đẹp vĩnh hằng

)(
h o à n g x u â n s ơ n
sáng 22 tháng giêng năm 22

[22.1.22]


*Truyện Kiều

*Song Thao: Tìm Lại Tam Cúc

Dễ thường gần bảy chục năm tôi không nhìn lại được cây bài tam cúc. Những ngày Hà Nội, mỗi dịp tết đến, lũ trẻ chúng tôi cùng những người lớn trong gia đình gầy bàn tam cúc đón xuân. Lớn chơi theo khả năng của lớn, bé chơi theo những đồng tiền mỏng lét của bé. Tết ngày đó nằm trong những cây bài giản dị. Bộ bài tam cúc chỉ có 32 quân gồm tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt. Mỗi loại có đen và đỏ. Đỏ trên chân đen. Tướng có tướng đen và tướng đỏ, dân chơi tam cúc gọi là tướng ông và tướng bà. Ông phải trên bà. Chuyện chi cũng vậy. Sĩ cũng có Sĩ đen và sĩ đỏ. Thường gọi lá sĩ đen và sĩ điều. Tượng hay tịnh có hai lá vẽ hình con voi và gọi là tượng thâm và tượng hồng. Xe, pháo, mã, tốt. Trong bộ bài chỉ có tướng có một lá đen và một lá đỏ, tốt có năm tốt đen và năm tốt đỏ, các loại khác đều có bộ đôi đen và đỏ.

Tam cúc là một loại bài dễ đánh, nam phụ lão ấu đều có thể ngồi vào chiếu bài được hết. Đây là một thú tiêu khiển trong ngày tết kéo mọi người trong gia đình ngồi cạnh nhau. Hiếm khi thấy đánh tam cúc ở ngoài đường. Đầu đường xó chợ chỉ có bài tây ba lá, xúc xắc dưới ba cái bát cốt mà mắt người khác để lấy tiền. Trong Nam, có thêm môn bầu cua cá cọp là trò chơi ngoài đường phổ biến nhất, chỉ dựa vào hên xui may rủi.


G:\My Pictures\cu-ba-90-tuoi-ngoi-danh-bai-tam-cuc-cuc-ngau-san-sang-can-tat-hoi-con-chau-f823bd.jpg
BA thế hệ chơi tam cúc.

Tam cúc, vượt lên trên một môn bài bạc, là thú vui gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Từ ngày di cư năm 1954, tôi không còn dịp đón xuân tại miền Bắc nên không biết món tam cúc còn thịnh hành không. Tôi e rằng còn khi đọc được một vài bài của các tác giả miền Bắc trên mạng.


Nguyễn Công Khanh: Câu Chuyện Của Một Người Chị

Hoa Thu. 1951

Như là một cuốn truyện hư cấu, nhưng lại là một truyện thật, và câu chuyện này đã kéo dài bẩy chục năm.

Chị sinh năm 1926, năm nay đã 95 tuổi. Chị hơn tôi 10 tuổi. Với từng đó tuổi, vào những quãng thời gian đó, chị đã đi vào những biến cố xa hơn tôi rất nhiều.

Chúng tôi đều sinh ra trong thời nước Việt Nam còn có vua, nhưng lại là thuộc địa của người Pháp. Tôi nhớ lại thời đó là một thời thanh bình. Rồi chúng tôi đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh triền miên suốt hơn ba mươi năm trời.

Đệ Nhị Thế Chiến 1939-45, quân Nhật tràn vào Đông Dương lật đổ người Pháp. Trên trời thì máy bay Mỹ dội bom xuống doanh trại của lính Nhật và phá hủy các trục lộ giao thông. Cùng chứng kiến cảnh hai triệu người chết đói ở các làng quê và một số đông đã lần về thành phố Hà Nội mong có miếng ăn, nhiều người nằm chết la liệt hàng ngày trên các đường phố. Nguyên do lính Nhật cấm nông dân trồng lúa và phải trồng các cây phục vụ cho kỹ nghệ chiến tranh của họ.

Thế chiến chấm dứt, cả một sư đoàn quốc quân Tầu chuyển sang giải giới quân Nhật. Rồi Cộng Sản đội lốt Việt Minh lợi dụng tình thế cướp chính quyền, phá bỏ chế độ quân chủ, diệt trừ các đảng quốc gia đối lập. Người Pháp quay lại Đông Dương, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, kéo dài nhiều năm 1946-54. Pháp thua trận Điện Biên Phủ, rút khỏi Việt Nam. Đất nước chia đôi. Chúng tôi sợ Cộng Sản, đấu tranh giai cấp, diệt trừ những người mà họ liệt vào hàng địa chủ, tiểu thương, phản động diễn ra thật là khủng khiếp. Gần triệu người rời bỏ miềnBắc, di cư vào Nam  tìm tự do và đã hưởng được những năm đầu an bình và thịnh vượng ở đó.

Không bao lâu, cuộc nội chiến tương tàn lại bắt đầu giữa Bắc-Nam. Miền Bắc được cả một khối Cộng Sản khổng lồ kiên trì hỗ trợ, miền Nam được Hoa Kỳ mang quân vào chống lại. Cuộc chiến tranh kéo dài hai mươi năm, hơn một triệu lính chết, mấy triệu thường dân bỏ mạng. Nước Mỹ cuối cùng bỏ cuộc và ngưng yểm trợ cho miền Nam, khiến cho Cộng Sản miền Bắc thôn tính cả đất nước năm 1975.

Một lần nữa chúng tôi lại cố thoát khỏi Cộng Sản bất chấp nguy hiểm. Mỗi người tìm đường vượt biển một cách. Cuối cùng Hoa Kỳ đã chấp nhận cho tị nạn. Chúng tôi đã trở thành công dân Mỹ, và đã sống ở đây đến nay đã hơn 45 năm rồi. Cuộc đời biết bao nhiêu biến đổi, mất mát trắng tay.

*

Trở lại chuyện của chị. Những năm cuối đời, sau khi chồng mất, chị cư ngụ một mình trong một căn cao ốc của các cao niên trong thành phố tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ. Vốn thích văn thơ, lãng mạn chị sống lại cái quá khứ của một thời. Chị bắt đầu soạn lại tác phẩm kịch thơ mà chị đã giúp viết chung với một người và viết hồi ký.

Luân Hoán: Cận Tết Nhớ Về

Hình minh hoạ Tri Le, Pixabay

1. Hội An.


chưa từng nghe gọi Sông Thu
ngay trong giọng mẹ thương ru ban đầu
loáng thoáng nghe gọi Chùa Cầu
bởi nơi bán khoán nhiệm mầu giữ tôi

5 năm, ấn tượng một nơi
hè nhà đầy cát thường ngồi vọc chơi
đường ra biển, Xóm Mới vui
cây vông đồng lớn dưới người trên chim

chưa hề biết chuyện trái tim
nhói đau theo những nỗi niềm quê hương
dù đã mục kích rất thường
võng treo lính Nhật sát đường nằm ca

Trần Mộng Tú: Nhịp Đập Mới Của Tim (Truyện Phóng Tác)

Chàng tỉnh dậy trong phòng hồi sinh sau một ca phẫu thuật vào giữa đêm, (chàng đoán thế) vì chung quanh chàng không có ai, bóng tối lờ mờ của ngọn đèn trên cao không soi tỏ rõ ràng vật gì chung quanh chàng và cả không gian yên tĩnh.

Nguyên ngày hôm qua, họ đã làm một cuộc thay tim cho chàng. Cuộc thay tim coi như thành công (chàng đoán thế) vì chàng đã tỉnh và chàng còn sống.

Chàng đã đợi chờ cuộc thay tim này lâu quá rồi. Họ không tìm được trái tim nào cho chàng vì người cần nhận tim thì nhiều và người hiến nội tạng về tim không đủ cung cấp. Các Bác Sĩ đã nói chuyện với chàng và với vợ con chàng nhiều lần. Cuối cùng họ đưa đến một giải pháp mà chàng và gia đình không hề nghĩ tới: Vì không thể chờ lâu hơn nữa, bác sĩ không bảo đảm cho sự tồn tại của trái tim đã hư hoại trong ngực chàng và vào thời điểm này, trái tim đã hư hoại của chàng có thể đưa tới cái chết bất cứ lúc nào. Một quyết định sinh tử cần được chọn lựa.

Một trái tim của con Heo sẽ được đặt vào để thay cho trái tim chàng đã có của riêng mình hơn 50 năm.

Đó là một ngày chao đảo cho cả gia đình chàng. Vợ chàng cầm cả hai bàn tay chàng lắc mạnh, chị nói nhỏ nhưng dằn từng tiếng:

Một trái tim Heo sao? Anh sẽ yêu em và các con bằng trái tim của con Heo sao?

Chàng cũng ngớ người ra không biết trả lời vợ thế nào cho đúng. Chàng làm sao biết được sau khi thay tim Heo vào ngực mình liệu chàng còn những rung động yêu thương như chàng đã có trước đây hay không? Chàng có nhìn vợ con bằng con mắt đằm thắm đầy yêu thương nữa hay không? Con Heo à? Nó có biết yêu không nhỉ. Chàng hình dung ra mấy con Heo ở trong chuồng đang vục đầu vào máng thức ăn, rồi chàng lại hình dung ra mình, áo quần tươm tất, đi bên cạnh vợ con với một trái tim Heo trong lồng ngực.

Chao ôi! Dù cố gắng cách nào đi chăng nữa, khó mà hình dung ra được.

Phạm Tín An Ninh: Đôi mắt mùa Xuân

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức.  Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève,và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu. 

Trangđài Glassey-Trầnguyễn: Xuân Phố Biển - Đón Tết Nhâm Dần tại Casa Romantica

XUÂN QUÊ HƯƠNG

Sau gần nửa thế kỷ định hình và phát triển tại hải ngoại, cộng đồng người Việt đã đưa văn hoá Việt Nam vào trong nhiều sinh hoạt địa phương và vào văn hoá dòng chính tại Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới.

Một ví dụ điển hình nhất là Tết Nguyên Đán, vốn không còn là một truyền thống của riêng người Việt nữa. Cũng như bao sinh hoạt tốt đẹp khác của người Mỹ gốc Việt, Tết Nguyên Đán đã trở thành một phong tục địa phương, một nhịp cầu văn hóa thân thiết nối kết người Việt với dân cư đa sắc tộc ở khắp nơi tại Mỹ. Từ vài chục năm nay, các học khu, các văn phòng dân cử, các tổ chức vô vụ lợi, các cơ sở văn hoá giáo dục, vân vân, đều tổ chức mừng Xuân mỗi năm. Cho nên, mùa Xuân hải ngoại tự lúc nào đã thật sự trở thành Xuân quê hương cho người Việt tỵ nạn, bởi vì Hoa Kỳ đã thật sự trở thành quê hương của chúng ta.

Tác giả (trái) thực hiện chương trình “Tết Workshop" tại King Elementary School, 2003.

Gần 30 năm trước, trong những năm tôi làm việc tại Học khu Westminster và Đại học Cal State Fullerton, các trường công lập ở Quận Cam vẫn nhờ tôi trình diễn đàn tranh và hướng dẫn học sinh trong các chương trình Tết Assembly tại các trường có đông học sinh gốc Việt. Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ. Năm 2003, Fullerton International Resources for Students and Teachers (FIRST), một chương trình tu nghiệp cho giáo viên, mời tôi trình bày về phong tục ngày Tết cho 1,200 học sinh tại Martin Luther King Jr. Elementary School tại Santa Ana, trong đó, chỉ có duy nhất một học sinh gốc Việt. Trong những khóa tu nghiệp mà tôi đảm trách, tôi cũng mua vải áo dài tặng cho nhiều cô giáo không phải người Việt, và đưa các cô đi may áo dài, như chiếc áo dài hồng cô Connie De Capite, Giám đốc của FIRST, mặc trong hình. Không chỉ vậy, một cô giáo người Latinix tại King Elementary School cũng đi mua áo dài ở Phước Lộc Thọ về cho mấy chục học sinh trong cả lớp của cô mặc trong nhiều lớp về văn hóa Việt Nam mà tôi dạy cho các em.

Võ Phiến: Thịt Cầy

 — Thơ Nguyễn Du thật độc đáo.

Ôi tư tưởng tân kỳ táo bạo. Mừng bạn có nhận định sắc bén, mới lạ. Bạn nói về Truyện Kiều chăng? 

— Không.

— Nói về ‘Độc Tiểu Thanh ký ‘, “tam bách dư niên hậu” chăng?

— Không. Tôi định nói về thơ thịt cầy.

— Trời! Tiên sinh có cả thơ thịt cầy nữa à? Nếu quả có hẳn là độc đáo, không sai.

— Sao lại “nếu”? Có chứ. Này nghe:

“... Nhân sinh vô bách tải

Hành lạc đương cập kỳ

Vô vi thử bần tiện

Cùng niên bất khai mi

Di Tề vô đại danh

Chích Kiểu vô đại lợi

Trung thọ chỉ bát thập

Hà sự thiên niên kế

Hữu khuyển thả tu sát

Hữu tửu thả tu khuynh

Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận

Hà sự mang mang thân hậu danh”.

Đó là một đoạn trong bài từ ‘Hành lạc’1. Thịt chó hiển hiện rõ ràng. Thấy không?

Quả nhiên. Đúng nó. Đọc lên nghe thơm phưng phức. Người xưa từng nói đến thứ văn hay đọc thơm tho cả miệng lưỡi. Là đây chăng? Giá có luôn cái nghĩa...

Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2022

VOA Tiếng Việt: Ban Tuyên giáo, cụ Phan, cụ Trương, tên đường và nỗi đau

Chân dung cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Photo Báo Cần Thơ, Blogspot.
Chân dung cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Photo Báo Cần Thơ, Blogspot.

 Sau một loạt kiểm các kiểm duyệt trong ngành xuất bản liên quan đến các ấn phẩm viết về hai nhân sĩ lừng danh Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, nay Đảng Cộng sản Việt Nam lại ra công văn hướng dẫn các địa phương “không xem xét lấy tên hai nhân vật nêu trên (Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký) đặt tên cho đường, phố, công trình công cộng”. Giới nghiên cứu nhận định với VOA rằng văn bản này của Ban Tuyên giáo Trung ương đi ngược lại sự thật của lịch sử và gây hoang mang trong nhân dân, “sỉ nhục tiền nhân”, và “kỳ thị” trí thức miền Nam.

Phan Thanh Giản (1796-1867), một đại thần triều Nguyễn, làm quan trải qua 3 đời vua, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là một nhân vật lịch sử, nhà thơ, nhà sử học, đỗ Đại khoa tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), là một nhà bác học, nhà ngôn ngữ học tiêu biểu của Việt Nam trong thế kỷ XIX, người am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực lịch sử, ngôn ngữ học, văn học, báo chí.

Văn bản gây tranh cãi

“Cho đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký đối với lịch sử Việt Nam”, công văn đề ngày 5/1 do Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Phan Xuân Thủy ký, nêu lý do.

Winston Phan Đào Nguyên: CHƯƠNG XVIII - Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều đình Khí Dân”

LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÒA SOẠN DĐTK

Để làm sáng tỏ hơn hiện tượng cấm đoán của chính quyền CSVN trong việc dùng tên các danh nhân Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký qua bức thư của Ban Tuyên Giáo đảng CSVN vừa gửi ra ngày 5 tháng 01, 2022 –một sự việc đã cũ mèm từ bảy mươi năm trước, bây giờ chạy lại như một cái đĩa đã rè -- chúng tôi xin mời độc giả xem Chương XVIII của cuốn sách Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’  của tác giả Winston Phan Đào Nguyên. Cuốn sách này, được xuất bản năm 2021, đã vạch trần những hành vi hèn mọn và gian trá của chế độ CSVN khi tạo ra “vụ án” Phan Thanh Giản vào giữa thập niên 50 của thế kỷ 20.


CHƯƠNG XVIII.

TÔN CHỈ VỀ CÔNG TÁC LỊCH SỬ VÀ BẢN LÃNH CHẾ TẠO BẰNG CHỨNG CỦA ÔNG TRẦN HUY LIỆU

Winston Phan Đào Nguyên

Như người viết đã trình bày trong các chương trên của Phần 3, ông Trần Huy Liệu, vị Viện Trưởng Viện Sử Học của miền Bắc, chính là người đã chế tạo ra câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”, cũng như câu chuyện chung quanh nó.

Chính ông Trần Huy Liệu là người đầu tiên giới thiệu câu này và câu chuyện về nghĩa quân Trương Định, trong một bài viết vào giữa năm 1955 trên số 9 tờ Văn Sử Địa.

Còn trước đó, vào năm 1954, trong số 1 của tờ Văn Sử Địa (Sử Địa Văn), ông Trần Huy Liệu đã viết một bài nghị luận dưới bút hiệu “Chiến” để giành lấy chính nghĩa cho phe mình, khi cho rằng đảng và chính phủ của ông ta đã tiếp nối sự nghiệp chống Pháp của những lực lượng như Trương Định, trong việc chống lại bọn phong kiến bán nước quay ra câu kết với thực dân đế quốc.

Nguyễn Đức Tùng: Nguyễn Hưng Quốc, Gây Sự Với Hư Không

 image

Giữa thiên đàng và địa ngục

Tôi chọn cái ở giữa:

Trần gian

(20)

Trần gian cũng là chọn lựa của nhiều nhà thơ. Ngôn ngữ Nguyễn Hưng Quốc giản dị, mạch lạc, các bài thơ của anh có ý tứ rõ ràng. Sự rõ ràng ấy làm cho bài thơ sáng lên, có sức thuyết phục, mặc dù có thể không gây ra ám ảnh. Đọc thơ ba câu của anh, tôi nghĩ đến các nhà thơ hình tượng của Mỹ, như Ezra Pound, những người chịu ảnh hưởng ít nhiều từ truyền thống Nhật Bản, nhưng thơ anh không hẳn là haiku. Chỉ đôi khi có khuynh hướng ấy:

Con quạ đen

Mổ nắng

Giữa chiều quạnh hiu

(251)

Bài thơ hay, nhưng không tiêu biểu cho cả tập thơ. Thơ ba câu cũng là thơ tự do, không vần, tựa như tercet của phương Tây, hay những đoạn mở đầu của villanelle. Thơ tự do đòi hỏi người viết tập trung chú ý đến số chữ trong câu, đến trật tự sắp xếp của các câu, khác với người làm thơ có vần, luật, làm theo mẫu nhịp điệu có sẵn. Người làm thơ tự do cần độc đáo khi viết. Tôi không có ý nói rằng thơ tự do thì cao hơn thơ có vần, hay ngược lại, nhưng quá trình sáng tạo của các nhà thơ là khác hẳn nhau khi họ chọn một hình thức để sáng tác. Bạn chọn thứ nào cũng được, nhưng phải viết như thể số phận của bạn được định đoạt bởi chúng, câu thơ mỏng mảnh kia.

Các vì tinh tú xa xăm

Đêm đêm dõi mắt nhìn địa cầu

Tìm một nhà thơ thất lạc

(17)

Ts Đinh Xuân Quân: Nghiên Cứu Về Biển Đông Của Hoa Kỳ (Số 150) Và Những Hệ Quả Cho Vn

Các nước chung quanh Biển Đông có chủ quyền tại Biển Đông (BĐ) gồm có Trung Quốc (TQ), Đài Loan, Brunei, Mã Lai, Philippines và Việt Nam. 

Việc tranh cãi về chủ quyền Biển Đông (BĐ) đã có từ lâu và chuyện này đã trở thành “nóng” khi TQ đã đánh chiếm Hoàng sa của VNCH vào 1974 bằng vũ lực (trong khi hạm đội 7 Hoa kỳ tránh né không dính và việc này). Trong tranh chấp về BĐ, TQ đã đưa ra nhiều chứng cớ để chứng minh họ có chủ quyền trên 80% BĐ và đã đưa đường 9 đoạn mà VN còn gọi là “đường lưỡi bò” để nói họ có quyền trên 80% BĐ.

Chính sách đường 9 đoạn là do chính phủ Tưởng Giới Thạch đưa ra về chủ quyền của TQ (vào lúc cuối và sau đệ nhị thế chiến khi THDQ là một trong 5 cường quốc) vào năm 1947. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) thua trận và rút ra Đài Loan thì TQ (CS) đã tiếp tục nói về yêu sách này và còn đưa thêm nhiều yêu sách khác cũng như đưa ra một số luật về quyền của họ trên BĐ.

Trong thời gian qua đến ngày nay thì TQ đã có dùng nhiều thủ đoạn để lấy các tài nguyên BĐ kể cả về ngư nghiệp và dầu khí mà các chuyên gia ước lượng là có lượng rất lớn. 

Trước đây các luật biển chỉ nói là lãnh hải có 3 hải lý và Công ước Liên Hiệp Quốc (CULHQ)1982 đã thay đổi luật lệ quốc tế về biển. Vào 1982, đa số các nước đều ký vào công ước về luật biển (Công Ước) do Liên Hiệp Quốc đưa ra, kể cả TQ. Đây là luật mới nhất đưa ra cách cư sử và tính toán về chủ quyền và các ranh giới, lãnh hải và độc quyền khai thác kinh tế của các nước trên biển (EEZ).

Mặc dù đã ký Công Ước 1982, TQ đã không ngừng dùng các thủ đoạn để cố xâm chiếm 80% BĐ qua việc “lấy thịt đè người”, dùng đủ thủ đoạn để ép các nước nhỏ chấp nhận các yêu sách của họ (cấm đánh cá, đâm tàu của ngư dân đánh các trong vùng biển truyền thông của họ, ép không cho khai thác dầu khí trừ khi cùng khai thác với TQ, vv). TQ đã dùng trước hết yêu sách chủ quyền lịch sử để công bố chủ quyền của họ trên biển. Các tranh chấp của TQ tại BĐ đã đưa đến nhiều căng thẳng tranh chấp biên giới với các nước nhất là VN và Philippines. 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Bộ Lạc Tà Ru A-20


Đất này chẳng có niềm vui

Ngày quệt mồ hôi, đêm chùi lệ ướt

 Trại lính, trại tù người đi không ngớt

 Người về thưa thớt dăm ba… 

Mấy câu thơ trên được trích dẫn từ thi phẩm Đất Này của Nguyễn Chí Thiện, viết vào năm 1965. Gần chục năm sau, trong đám “người về thưa thớt dăm ba” đó, có Bùi Ngọc Tấn. Tác giả Chuyện Kể Năm 2000 (nxb Câu Lạc Bộ Tuổi Xanh, CA: 2000) xác nhận tình trạng “trại tù người đi không ngớt” bằng một câu văn rất ngắn: “Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ.” 

Thế nhỡ gặp lại đúng bạn tù cũ thật rồi sao? 

Tay bắt, mặt mừng, bá vai, bá cổ …  rồi kéo nhau vào quán (hay mời ngay bạn về nhà) tiếp đãi linh đình – cơm gà cá gỏi không thiếu món chi, ăn uống phủ phê, nhậu nhẹt linh đình – chăng?

Hổng dám “phủ phê” đâu. Ở Đất Này làm gì có mấy cái vụ “linh đình” như vậy:

Một buổi chiều, con Thương đi học về bảo hắn:

– Bố. Có ai hỏi bố ở dưới nhà ấy?

– Ai con?

– Con không biết, trông lạ…

Hắn xuống thang. Hai người quần nâu, áo nâu đứng dựa lưng vào tưởng chỗ bể nước. Quen quen. Đúng rồi. Min: toán chăn nuôi, người đã giũa răng cho hắn. Còn một anh nữa mặt loang, tay loang. Thấy hắn, cả hai cười rất tươi. Người mặt loang bảo:

Trần Công Nhung: Tìm mộ Nam Cao

Nam Cao
Trong buổi gặp gỡ với một số anh em văn nghệ ở Bắc Giang, tôi được nghe câu chuyện “Tìm Mộ Nam Cao,” câu chuyện có vẻ huyễn hoặc, mê tín nhưng là câu chuyện thực, xẩy ra ở nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ 20.

Nhà Văn Nam Cao, một trong những ngôi sao sáng của dòng Văn Học cận đại. Nói đến Nam Cao là nhớ ngay đến Chí Phèo, tác phẩm đã vẽ những nét sắc bén, cay độc của xã hội thời Nam Cao. Nhân vật Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện (năm 1941) như những mũi tên bén nhọn vạch thẳng vào cuộc đời của những con người tưởng không còn gì hơn con vật, những nét thật sắc, khiến cho xã hội không thể làm ngơ, bỏ quên. Chí Phèo ra đời như một báo hiệu nghiệp chướng (1) của nhà Văn Nam Cao.

Nam Cao tên thật Trần Hữu Trí giấy khai sinh ghi ngày 29 tháng 10 năm 1917 (2) tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Song, nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút hiệu: Nam Cao.

Trong khi trà nước, tình cờ có người nhắc đến Nam Cao. Một anh khẳng định:

- Nam Cao chết là do Tố Hữu, chính Tố Hữu, Phó Thủ Tướng đặc trách kinh tế đã cử Nam Cao về Ninh Bình thu thuế nông nghiệp nên bị Comando Tây giết. Trong dịp tìm mộ Nam Cao, Tố Hữu đã hối hận nói: “Giá tôi đừng cử Nam Cao đi…”

- Bây giờ mới “giá buốt” thì nói làm đếch gì!

Câu chuyện có nhiều bí ẩn, tôi tò mò:

- Các anh bảo “tìm mộ Nam Cao,” sao lại tìm?

- Vì lúc Tây bắn (1951) nó chôn chung bốn thi thể một hầm, lấy được xác về chôn nơi khác, rồi cải táng bị mưa gió thất lạc tên, cuối cùng nằm chung với những mộ vô danh. Đến năm 1994 bà Trần Thị Sen, vợ Nam Cao mới làm đơn yêu cầu Ủy Ban Unesco Việt Nam tìm giúp mộ chồng.

- Ủy Ban này đã khởi xướng việc tìm mộ Nam Cao rộng rãi trong mọi tầng lớp quần chúng, ai có tin tức gì về mộ Nam Cao, kể cả chuyện bói toán, nằm mộng, các nhà ngoại cảm… Tổng cộng có 40 tổ chức tham gia tìm mộ Nam Cao, từ Hội Nhà Văn, Đài Truyền Hình, …quân đội, nhân dân…

Chuyện thật ly kỳ, tôi hỏi thêm:

- Thế rồi diễn tiến việc tìm mộ rao sao, và nay mộ nhà văn nằm ở đâu?

- Ôi dông dài lắm, cuối cùng thì cũng đưa được Nam Cao về quê ông ở Đại Hoàng. Muốn rõ mọi chuyện về Hà Nam hỏi em Nam Cao, cụ Trần Hữu Đạt là biết.

Bị kích thích về chuyện “tìm mộ Nam Cao,” tôi rủ anh bạn quê Bắc Giang cùng đi, vì chính anh cũng là một thành viên trong ban tổ chức tìm mộ.

Về Hà Nội, tôi sắp xếp ngay chương trình đi Hà Nam, vì không còn mấy nữa đã đến ngày về lại Mỹ. Hà Nam không xa Hà Nội bao nhiêu, tôi đi qua hoài trên những chuyến tàu vào Nam ra Bắc, nhưng chưa dừng chân lần nào.

Chúng tôi đồng ý sáng thứ bảy, hẹn nhau 6 giờ tại ga Hàng Cỏ. Từ đây đi xe Buýt ra ga Giáp Bát, rồi đi xe Gáp Bát Phủ Lý. Đi sớm để mọi việc gọn trong ngày. Thế mà 6 giờ 30 gọi phone vẫn nghe: “Số máy thuê bao quí khách vừa gọi hiện không liên lạc được.” “Không liên lạc được” thì đi một mình. Ra ga Giáp Bát, bắt ngay chuyến xe đi Nam Định, đến Phủ Lý tôi nhảy xuống.

Thị xã Phủ Lý không lớn, trông bề ngoài còn kém hơn nhiều thị trấn huyện lỵ. Nhiều người cho biết, trong thời kỳ chiến tranh, Phủ Lý bị san bằng nhiều lần, nay vẫn chưa xây dựng được bao nhiêu. Ghé vào một quán nước hỏi thăm đường về làng Đại Hoàng, cũng may, bà chủ quán, người gốc Hà Nam nên rất rõ vùng quê Nam Cao.

- Ông vào ngã ba trong đây đón xe về Vĩnh Trụ, từ đấy ông đi xe ôm.

- Xe ở đâu về Vĩnh Trụ hả bà?

- Xe Hà Nội.

Tôi mua chai nước rồi thả bộ dọc theo khu phố. Điện thoại rung lên trong túi, ông bạn giọng ngái ngủ:

- Ông đang ở đâu?

- Phủ Lý. Chờ ông hơn nửa tiếng, không gọi phone được tôi phải đi. Từ Phủ Lý về Đại Hoàng bao nhiêu cây?

- Hai mươi cây.

Vào ngã ba, nơi đây có con sông Đáy chảy qua nhưng cảnh không có gì đẹp, sông nhiều lục bình, nước đục như nước sông Hồng. Đợi mãi mới có chuyến xe rẽ về hướng bà quán chỉ, tôi đón nhảy lên nhưng xe đi Thái Bình. Kêu lắm phụ xe mới cho xuống. Ai đời mình nhầm xe mà họ cứ đòi chở để lấy tiền. Cuối cùng phải mặc cả đi xe ôm. Đi Vĩnh Trụ thì được, mà về Đại Hoàng, anh xe có vẻ mù mờ. Người Hà Nam mà không biết Nam Cao, đúng là “vô duyên đối diện bất tương phùng.” Suy cho cùng, đói cơm dốt chữ thì “Cao Thấp” biết cũng chẳng để làm gì.

Về thị trấn Vĩnh Trụ, tôi gặp được cậu chạy xe nhanh nhẹn, biết mộ Nam Cao, biết cả Chí Phèo… Từ Vĩnh Trụ về Đại Hoàng cũng khá xa, hơn 20km, thế nghĩa là từ Phủ Lý đi Đại Hoàng hơn 40km. Ông bạn đã tự động rút ngắn nửa đoạn đường cho tôi đỡ sốt ruột!

Hà Nam là tỉnh có nhiều đồng chiêm trũng, đất phù sa nên ruộng vườn chỗ nào cũng xanh tươi. Xe ngon đường cứ chạy mãi, qua bao nhiều cánh đồng mà chưa thấy mộ, hỏi người đi đường, đúng là đang về quê Nam Cao nhưng còn xa. Măn mo mãi, cuối cùng phải nhờ người địa phương chỉ cho. Lúc bấy giờ, anh xe mới à: “Chỗ này em có chở một sinh viên đến chụp ảnh, nhưng không nghe anh nói gì nên không nhớ.” Từ ngoài đường cái nhìn vào, thấy ngay khu Nhà Tưởng Niệm khá bề thế. Nhà xây theo lối mới song nóc mái cũng như đầu hàng cột trước hiên trang trí hoa văn theo lối chữ triện, kiểu nhà nửa ở nửa thờ. Cửa ra vào là cửa xếp bàn khoa rộng 3m là ít, cửa sổ lá sách hai bên lớn không kém. Trên khung cửa chính có đắp hàng chữ “Nhà Tưởng Niệm Nhà Văn Liệt Sỹ Nam Cao.” Hai chữ “Liệt Sỹ” làm cho tôi liên tưởng ngay đến cảnh nghèo nàn hiu quạnh hoang phế của nhà văn Nguyên Hồng (3). Điều này nói lên Việt Nam chưa có một tổ chức độc lập thẩm định công trình của văn nghệ sĩ để lưu giữ bảo tồn. Mọi định đoạt giá trị đều do Đảng và Nhà Nước, những ai ca ngợi Đảng hay chết vì Đảng mới được vinh danh. Điều này sẽ để mất nhiều kho tàng quí báu của nền học thuật đối với thế hệ mai sau.

Trước sân Nhà Tưởng Niệm có nhiều bồn cảnh nhưng chưa trang trí bao nhiêu, hoặc giả lâu ngày không săn sóc cây chết, để bồn không. Bên hông phải Nhà Tưởng Niệm là mộ nhà văn, làm theo lối mộ người Thiên Chúa Giáo, tất cả bằng đá rửa công phu, nằm trong vòng tường có cổng sắt khóa lại. Trên đầu mộ, bức ảnh chân dung rất trẻ, có lẽ chụp năm nhà văn mất? Bức ảnh quá lớn không cân xứng với thiết kế chung.

Đi quanh một vòng không thấy ai, cửa kín mít. Đang lay hoay thì có người đàn bà đi chợ về, bảo người trông coi ở phía sau. Tôi nhờ chị gọi giùm. Một lát có cậu bé đi ra, biết là khách phương xa đến viếng nên cậu ta vui vẻ mở cửa.

Bên trong, giữa có bàn thờ chạm trỗ công phu song hình dáng đã cách điệu, không như tủ thờ cổ điển. Lư nhang chân đèn bình hoa... theo lối “ngũ sự,” có phần hơi rườm rà luộm thuộm, chỉ có pho tượng đồng bán thân là sắc sảo, uy nghi. Theo tôi, thờ tự đối với những người làm văn hóa nghệ thuật nên đơn giản cô đọng, phải gợi lại được điều gì đó của nhà văn, còn như thờ ông Địa thì không hay. Nghĩ vậy thôi chứ có được một nơi để nhang khói là quí rồi.

Chung quanh tường treo nhiều tranh ảnh liên quan đến cuộc đời hoạt động của Nam Cao. Nhiều tủ kính trưng bầy những tác phẩm đã xuất bản. Có nhiều cuốn viết về Nam Cao tôi mới thấy lần đầu:

Nam Cao người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực.
Nam Cao Đời Văn và Tác Phẩm.
Nghĩ tiếp về Nam Cao…
Những phương diện chủ yếu của thi pháp văn xuôi tự sự Nam Cao…

và nhiều nữa.. Có bộ sưu tập những bài viết của Nam Cao trong báo Tiền Phong, tờ báo của Hội Văn Hóa Việt Nam trước 45.

Một lô sách viết về Nam Cao, nhưng lướt qua những tiêu đề của sách tôi thấy lê thê nặng nề đến mệt. Về ảnh cũng khá đầy đủ, ảnh tư liệu rất quí từ thời Nam Cao còn là học sinh. Hình ảnh chung với các Văn nghệ sĩ khác… trong số có ảnh Nhà thờ Vĩnh Đà xã Nhân Mĩ, nơi làm phép cưới – Căn nhà Nam Cao ở trước năm 42 – Thầy trò trường Thành Chung Nam Định (36-40). Một khung ảnh lớn gồm chân dung những người trong gia đình Nam Cao:

Mẹ: bà Trần Thị Minh (1895-1980), vợ: Trần Thị Sen. Trần Hữu Đạt (em trai), Trần Thị Khiết, Trần Thị Trinh, Trần thị Chánh (em gái).

Hình ảnh về công cuộc tìm kiếm mộ, khai quật mộ khá đầy đủ… Ảnh cánh đồng Miễu Giáp, Gia Phiến, Ninh Bình nơi Nam Cao bị bắn. Toàn bộ tài liệu để trưng bầy chứ không bán

- Nhà Tưởng Niệm có từ năm nào hả cháu?

- Dạ, có từ tháng 11 năm 2004.

- Còn mộ đưa về năm nào?

- Dạ, 1998

- Nhà cụ Trần Hữu Đạt đi lối lào? Có gần đây không?

- Bác qua bên kia đường vào trong xóm chừng vài trăm mét, hỏi ai cũng biết.

Tôi tặng cậu bé tí quà rồi đi tìm nhà cụ Đạt. Quanh co một lúc mới thấy nhà.

Ngôi nhà tôn nghèo nàn, trong nhà lờ mờ ánh sáng, hai ông bà đang chuẩn bị ăn trưa, thấy tôi, họ ngưng tất cả lại và vui vẻ tiếp. Cụ Trần Hữu Đạt, đầu tóc bạc trắng, râu ria xồm xoàm, nhưng người còn mạnh và có dáng như một nông dân nghèo.

Tôi thưa nhanh mục đích thăm viếng của mình rồi vào đề. Tuy muốn cho nhanh nhưng ông bà vẫn đủng đỉnh pha trà, lại phải “Uống nước đã.”

- Thưa cụ, tôi là bạn của anh Quang trên Bắc Giang, có nghe anh nói sơ về chuyện tìm mộ cụ Nam Cao nên hôm nay xin phép hỏi thêm cụ cho rõ.

- À Quang hay về đây, thế ông ở tận đâu?

- Dạ, Nha Trang.

- Mời ông xơi nước.

- Thưa nhà văn Nam Cao bị Tây bắn trong lúc về Ninh Bình thu thuế nông nghiệp phải không ạ?

- Đúng thế, đoàn công tác có bốn người và một chèo đò, không ai có vũ khí, không hộ tống. Lúc đò chèo qua cánh đồng chiêm ngập nước thì bị Comando Tây vây bắt. Anh chèo đò chạy thoát, bốn người kia Tây đưa về nhà thờ Miễu Giáp Ninh Bình. Ngày hôm sau chúng đưa ra bắn rồi lấp chung một hố trước nhà thờ (30–11–51). Đêm đến du kích vào lôi ra nhận diện từng người rồi chôn ở làng Vũ Đại. Khi có nghĩa trang xã, lại đưa mộ về xã, đến lúc thành lập nghĩa trang huyện Gia Viễn, mộ dời tiếp. Khi sát nhập hai huyện Gia Viễn và Nho Quan thành huyện Hoàng Long, mộ cải táng về Hoàng Long. Năm 1955 tách huyện, mộ lại trở về Gia Viễn. Trong lúc chuyển từ Hoàng Long về Gia Viễn, gặp trời mưa trôi mất giấy dán trên Tiểu của bốn hài cốt, nên không còn biết Tiểu nào của ai, đành chôn vào nghĩa trang vô danh.

Từ đó người nhà đi thăm phải thắp nhang cho cả bốn ngôi mộ, nhưng thường lẩn quẩn hai mộ số 306 và 310.

Chết rồi mà chỗ nằm không yên, chỉ vì chính sách, vì quyền lợi của người sống mà Nam Cao cứ phải chuyền chỗ nọ qua chỗ kia.

- Thưa cụ, rồi cơ duyên nào mà tìm ra mộ cụ Nam Cao?

- Gần 50 năm sau, từ 51 đến 94, gia đình biết có người đã tìm được hài cốt bằng cách nhờ các nhà ngoại cảm, bà Sen mới làm đơn gửi Câu Lạc Bộ các gia đình văn hóa Việt Nam trong hiệp hội Unesco Việt Nam, nhờ tìm mộ Nam Cao. Vậy là có phong trào vận động mọi tầng lớp quần chúng, ai biết gì về mộ Nam Cao, kể cả nằm mộng, bói toán…

- Và nhiều nhà ngoại cảm?

- Vâng, gồm có Thẩm Thúy Hoàn, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Liên, Phan thị Bích Hằng, họp tại Huyện Ủy Gia Viễn, triển khai việc tìm mộ nhà văn. Mọi tin tức, báo mộng, gọi hồn… trong số có thông tin từ những báo mộng của cô Bích Hằng tương đối chính xác (4). Bích Hằng còn cho biết, số mộ của Nam Cao bằng số tuổi, xương sọ và xương đùi bên trái bị vết đạn bắn. Tuy nhiên do những nghi ngờ giữa hai ngôi mộ 306 và 310 nên gia đình xin bộ Thương Binh Xã Hội cho khai quật cả hai. Lúc đầu Bộ đã đồng ý, về sau chỉ chấp thuận cho một mà thôi, muốn khai quật mộ thứ hai phải đợi hai năm sau.

Cuối cùng ngôi mộ số 306 được chọn, 306 là 36 đúng số tuổi của Nam Cao lúc mất.

- Lúc khai quật mộ có trở ngại gì không thưa cụ?

- Mộ được đào lên từ 3 giờ sáng, lúc đưa Tiểu lên thì tôi chợt thấy rõ hình hài anh Nam Cao, tôi khóc òa lên, ngoài ra không ai thấy gì. Mọi người nghĩ rằng do cảm ứng ruột thịt tôi mới thấy thế và đoan chắc là đúng mộ rồi. Tuy nhiên, hài cốt vẫn đưa qua Viện Khoa Học Hình Sự giảo nghiệm để kiểm tra xem có vết đạn như cô Bích Hằng dự đoán không. Kết quả xét nghiệm cho thấy đúng vậy.

- Chi phí nhà tưởng niệm chắc cũng tốn nhiều?

- Trên một tỉ.

So với khu lưu niệm cụ Nguyễn Du (tỉ tư) thì phí tổn gần bằng mà kém nguy nga.

- Tôi thấy tác phẩm cụ Nam Cao in rất nhiều, như vậy gia đình có được phần nào không?

- Sách do nhà xuất bản Công An Nhân Dân in, bán được 60 triệu đồng, cho gia đình 10 triệu, còn để làm tượng Nam Cao.

- Hằng năm đên ngày giỗ gia đình có được giúp đỡ gì không?

- Chả có gì, tự lo liệu cả.

- Các đoàn thể có đến viếng chứ, thưa cụ?

- Vâng, đến thắp nhang rất đông.

- Nhà văn Nam Cao có người con nào theo nghề văn chương không hả cụ?

- Ba trai, một gái, không ai nối nghiệp Nam Cao.

- Thưa, mộ cụ Nam Cao nằm trên nền nhà cũ của nhà văn?

- Không, nhà Nam Cao phía trên cách đó 200m. Chỗ mộ Nam Cao là cạnh nền nhà Lão Hạc, lúc còn sống hai người chơi thân, cuộc đời Nam Cao có những trùng hợp kỳ lạ, Chí Phèo sinh ở Vũ Đại thì Nam Cao chết ở Vũ Đại, Nam Cao viết tác phẩm Lão Hạc, thì mộ nằm trên đất Lão Hạc. Nam Cao người làng Đại Hoàng thì cũng có một thời dạy học tại trường Đại Hoàng ở Thái Bình…

Thấy đã quá trưa, tôi xin gửi ông bà chút quà rồi cáo lui. Ra sân đứng chụp chung với cụ Đạt một tấm ảnh, cụ nói thêm: “Đây là ngôi nhà bốn anh em tôi sống từ nhỏ.”

Theo dõi công việc của tôi, bây giờ anh xe tỏ ra rất có cảm tình, anh mời tôi về nhà anh cơm nước nghỉ trưa, hai giờ đi xe từ Vĩnh Trụ về thẳng Hà Nội. Tôi nhận lời, nhưng dọc đường nhớ chuyện xe ôm cô gái “Liêu Trai” kể nên sợ, tìm cách thoái thác. Năn nỉ mãi anh mới chịu trả tôi về phố thị trấn. Tìm một quán phở ăn tạm, lang thang cho đến khi có chuyến xe đầu tiên đi Hà Nội.

Một ngày hơi vất vả nhưng vui vì biết thêm được nhiều điều mới mẻ.

Tháng Năm 2005


(1) Làng Vũ Đại của Chí Phèo là địa danh sáng tác, nhưng lúc chết, Nam Cao chết tại làng Vũ Đại trong Ninh Bình. Vì vậy khi tác phẩm Chí Phèo ra đời, nhiều bô lão ở Ninh Bình bảo “Nam Cao nói láo” (lời cụ Đạt).

(2) Cụ Trần Hữu Đạt em Nam Cao xác nhận năm sinh 1915.

(3) Đọc Nhà văn Nguyên Hồng QHQOK 5.

(4) Cô Bích Hằng lúc học cấp 3 bị chó dại cắn, sau khi chữa khỏi thì có khả năng “tìm mộ từ xa.”