Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

Trần Doãn Nho: Một tác giả Hoa Kỳ viết về Văn Học Miền Nam

Bài báo của Anthony Morreale
trên tạp chí Los Angeles Review of Books
(Hình: TDN chụp qua Internet)
Vào ngày 11/11/2021, tạp chí “The Los Angeles Review of Books” (LARB) cho đi một tiểu luận của Anthony Morreale nhan đề là “Nhìn Lại Nền Văn Học Miền Nam Bị Bỏ Rơi” (Abandoned: Reconsidering the Literature of South Vietnam). Mặc dầu có nhiều điểm chúng ta chưa hoàn toàn đồng ý với tác giả, nhưng có thể nói đây là một bài viết thuộc loại khá hiếm hoi với cái nhìn đầy thiện cảm về nền văn học Việt Nam Cộng Hòa của một nhà nghiên cứu Hoa Kỳ. Xin tóm lược một số nhận định của bài viết để giới thiệu cùng bạn đọc.

Sự sụp đổ của Kabul (Afghanistan) mới đây nhắc nhở Morreale đến sự sụp đổ của Sài Gòn gần 5 thập niên trước. Đối với người Mỹ, khi nhắc đến Việt Nam, nó không chỉ ám chỉ một dân tộc ở Đông Nam Á, mà còn quy cho những tranh chấp trong xã hội Hoa Kỳ ở giữa thế kỷ 20. “Những cuộc tranh đấu giữa các chủng tộc, giai cấp, và thế hệ được cô đọng vào một điểm nóng duy nhất và được phóng chiếu vào một con bung xung: Việt Nam.”Ấy thế mà, không những đất nước của những người đã góp xương máu và công lao cho chính nghĩa của miền Nam Việt Nam bị quên lãng mà linh hồn của miền Nam Việt Nam cũng bị phủ nhận. “Đó là lý do tại sao Miền Nam Việt Nam đã bị quên lãng một cách kỳ lạ trong phim tài liệu mới đây như “The Vietnam War” và tuyển tập văn chương như “Other Moons: Vietnamese Short Stories of the American War and Its Aftermath.”

Morreale không chấp nhận thái độ đó. Theo ông, “Để xua đuổi tà ma khỏi thế hệ chết chóc của chúng ta, và cắt dứt khỏi cái vòng chối bỏ luẩn quẩn này,” người Mỹ cần phải thành tâm cầu nguyện cho những linh hồn đã bị bỏ rơi, bằng cách phiên dịch lại văn chương của Việt Nam Cộng Hòa. “Bởi vì văn chương của một dân tộc là cái vỏ thời gian của cảm hứng quốc gia.” Nếu chỉ qua lịch sử mà con người có thể đi xuyên qua hàng thế kỷ để chia xẻ tư tưởng của tiền nhân, thì “văn chương là một phương tiện để giao cảm với linh hồn, để cho linh hồn sở hữu chúng ta, nói chuyện xuyên qua chúng ta và thì thầm lời chứng của họ vào trái tim chúng ta.” Nếu tiếp tục làm ngơ, “chúng ta đã mang họ theo chúng ta với một lương tâm cắn rứt.” Bằng cách thừa nhận họ, bằng cách phiên dịch văn học của họ, “chúng ta sẽ lấy lại được một phần nào cái đã mất của chúng ta, và mở ra một con đường đã đóng đối với con cái họ ở giữa chúng ta trong cộng đồng lưu vong.”

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn: Đọc “Sống Với Chữ” Của Nguyễn Hưng Quốc

 Tôi rất hân hạnh giới thiệu đến các bạn cuốn sách ‘Sống với chữ’ của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc. Theo tôi, đây là một trong những cuốn sách hay nhứt về tiếng Việt và viết văn Việt.

‘Sống với chữ’ thật ra đã được xuất bản lần đầu vào năm 2004, nhưng tôi chưa có dịp đọc lúc đó. Mười bảy năm sau, trong lần tái bản này, sách đã có thêm nhiều bài mới và tôi may mắn đọc được. Trong mùa ‘lockdown’ này, ai cũng có thì giờ đọc sách một cách thanh thản để cảm nhận, và dưới đây là những gì tôi có thể chia sẻ cùng các bạn về ‘Sống với chữ’.

Nội dung sách được chia làm 2 phần: phần đầu bàn về tiếng Việt, và phần hai viết về những nhà văn hay tác gia nổi tiếng như Phan Khôi, Mai Thảo, Võ Phiến, Võ Đình, Lê Thành Nhơn, Phạm Công Thiện, và Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi thích cả hai phần. Tác giả là một nhà phê bình tinh tế, đưa ra những nhận xét làm cho người đọc cảm nhận được cái đẹp của tiếng Việt và cái hay của những người lao động chữ nghĩa. Đọc bài nào trong sách cũng thấy mình học được một điều mới, không chỉ mới mà còn thú vị, và nhứt là cách diễn giải cũng lạ và thách thức người đọc.

Đa số chúng ta (người Việt) viết và nói tiếng Việt một cách gần như mặc định. Chúng ta thốt ra những câu nói hay viết ra những chữ một cách tự nhiên. Chúng ta ít khi nào phân tích cái đẹp, cái hay, hay cái dở của con chữ. Tác giả nói rất đúng là chúng ta ít khi nào có một cuốn từ điển tiếng Việt trong tủ sách để tham khảo, có lẽ vì chúng ta nghĩ đã quá rành với tiếng Việt.

Chính vì sự chủ quan mặc định đó mà đa số chúng ta viết tiếng Việt không hay, nói tiếng Việt càng có nhiều vấn đề. Các bạn chỉ cần đọc những bài luận văn của học sinh, sinh viên sẽ thấy họ dùng chữ khá tuỳ tiện, còn cấu trúc câu văn đều có vấn đề. Ngay cả đọc những người người cầm quyền cao nhứt trong nước (hay những kẻ viết diễn văn cho họ) cũng có vấn đề về tiếng Việt: câu văn dài dòng, câu văn ‘đong đưa’, phi logic, dùng chữ sai, và có khi vô nghĩa. Đó là chưa nói đến những cách sáng chế ra những cách nói kì cục (theo tôi) như ‘điều khiển phương tiện giao thông‘, ‘di chuyển‘, hay đổi ý nghĩa của động từ (như ‘liên hệ‘ thay cho ‘liên lạc‘). Có thể nói không ngoa rằng chúng ta đang góp phần làm cho tiếng Việt nghèo nàn hơn.

Nhưng để viết tiếng Việt đúng, chúng ta cần phải hiểu nghĩa của chữ. Và, trong thực tế thì nghĩa của chữ Việt có khi không đơn giản chút nào. Trong bài ‘Tiếng Việt, dễ mà khó‘, tác giả chỉ ra một sự phân biệt làm tôi giật mình: ‘nín thinh’‘làm thinh’:


Phạm Xuân Đài: Vui Ca Xang

Tác giả xin cám ơn Giáo sư Trần Huy Bích đã giúp nhiều tài liệu cần thiết cho bài viết này.

Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm do tác giả, 
nhà văn Trùng Dương cung cấp.

Gần đây tôi có dịp xem video của Thúy Nga Paris trình diễn ba bài Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 của Lê Thương. Sự dàn dựng cảnh trí, các màn phụ diễn đều công phu, tạo nên một không khí chinh chiến ngày xưa, và nhất là giọng hát của các ca sĩ đều hay, diễn tả thành công chủ đề mà mình trình diễn.

Tiếc thay trong bài Hòn Vọng Phu 1, lời hát có sai một chữ, nhưng chữ đó lại rất quan trọng, làm biến đổi cả không khí của bài hát mà nhạc sĩ Lê Thương đã cố công dựng nên khi sáng tác Hòn Vọng Phu. Đó là câu nguyên văn của tác giả :

Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn

đã được ca sĩ Thế Sơn hát là :

Vui ca xong rồi đi tiến binh ngoài ngàn

Thật là một sai lầm đáng tiếc.

Chúng ta đều biết Lê Thương thuộc vào hàng nhạc sĩ kỳ cựu của nền tân nhạc Việt Nam, đã bắt đầu sáng tác từ những năm cuối của thập niên 1930 những ca khúc như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu…, và từ đó tiếp tục sáng tác và để lại cho đời một di sản âm nhạc to lớn sau khi ông từ trần năm 1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.

Riêng liên khúc Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 sáng tác trong thập niên 1940 là một tác phẩm rất quan trọng của ông, chất chứa mênh mang âm hưởng và tình cảm dân tộc, được xem như một trường ca đầu tiên của Việt Nam. Có thể nói không ngoa rằng nhạc điệu lẫn lời ca của liên khúc Hòn Vọng Phu đã thấm nhuần trong tình cảm người Việt Nam một cách rộng rãi và sâu xa nhất, có lẽ trong lịch sử của nền tân nhạc chưa dài lắm của đất nước chúng ta chưa có tác phẩm nào đạt được vị trí ấy.

*Song Thao: Ngày Của Phở

Doodle “Ngày của Phở” của Google.

Tính ra tôi đã viết về phở nhiều lần. Chắc chẳng còn chi để viết thêm. Vậy mà lại…phở. Ngày 12/12/2021, vào internet, tìm vào Google bỗng thấy hoa mắt. Chuyện thật sao ta! Cái doodle thường ngày bỗng thay đổi. Hình vẽ cách điệu tô phở nằm giữa chanh ớt, hành ngò, quế hồi đinh. Bộ tây cũng là đệ tử của phở như mình sao? Tây đầm ăn phở là chuyện thông thường. Cứ vào tiệm phở là thấy liền. Nhưng tôn vinh phở bằng cái doodle rất phở của Google quả là chuyện lạ. Đọc hàng chữ phía dưới thấy lý do tại sao Google bỗng tôn vinh phở. “Việt Nam tuyên bố ngày 12/12 là ngày truyền thống của món ăn dân tộc. Đây là một món súp thơm tho với nước dùng đầy mùi vị, hành ngò tươi, thịt thái mỏng, thường là bò hay gà. Cái làm cho món phở nổi bật là một quá trình nấu phở công phu để đạt được nhiều hương vị trong nước phở rất trong. Các thành phần như gừng nướng, hạt thì là, hồi, quế được cho vào nước dùng để tạo thành hương vị cho từng tô phở”.

Doodle này xuất hiện, ngoài phiên bản Việt Nam, còn nơi các phiên bản của 16 nước khác gồm: Áo, Bulgaria, Canada, Tiệp Khắc, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hung, Iceland, Do Thái, Lithuania, Ba Lan, Thái Lan, Anh và Mỹ. Nhìn kỹ danh sách thấy chỉ có một nước Á châu là Thái Lan, kể cũng lạ. Nhất là không có Nhật Bản.


Nguyễn Hưng Quốc: Đi tìm Võ Phiến

Đi tìm nhà văn Võ Phiến, tôi bắt gặp một nhà tuỳ bút. Đi tìm nhà tuỳ bút Võ Phiến, tôi bắt gặp một nhà nghiên cứu. 

Phát hiện đầu không có gì đáng kể. Từ lâu, đã có nhiều người đã nhận ra là, một, sở trường của Võ Phiến nằm ở thể tuỳ bút; và hai, phong cách tuỳ bút bàng bạc trong mọi tác phẩm văn xuôi của ông. Thật ra, hai điểm này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đặc điểm nổi bật nhất của thể tuỳ bút, theo tôi, là ưu thế của giọng văn, hơn nữa, của thứ giọng văn giàu cảm xúc và, đặc biệt, giàu cá tính. Viết truyện, người ta có thể sử dụng lối văn gọn gàng, giản dị, vô ngã, không có màu sắc hay mùi vị gì cả để cho nhân vật dễ cóđược đời sống riêng với những cá tính riêng chứ không phải là những con rối hay những cái bóng mờ nhạt của tác giả. Chính vì vậy, đối với các nhà tiểu thuyết thời 1930-45, ngay cả các nhà tiểu thuyết lớn như Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng, rất hiếm khi người ta đề cập đến giọng văn. Không phải tại những tác giả ấy viết không hay. Hay, nhưng cái hay ấy không phải là yếu tố hàng đầu làm nên cái lớn của họ. Với các nhà tuỳ bút thì khác. Nhắc đến Nguyễn Tuân, chẳng hạn, hầu như ai cũng nhắc, trước hết, đến một giọng văn hết sức điệu đàng và khinh bạc. Sau này, nhắc đến Mai Thảo, người ta cũng nhắc đến một giọng văn mượt mà với những kiểu ngắt câu lạ, rất gần với thơ; nhắc đến Vũ Bằng, người ta cũng lại nhắc đến đến giọng văn tha thiết và sôi nổi của ông về từng món ăn hay từng kỷ niệm cũ. Với Võ Phiến, cũng thế; nhắc đến ông, người ta cũng lại nhắc đến một giọng văn phóng túng và dí dỏm, chứa đựng rất nhiều khẩu ngữ, như một lời trò chuyện linh động, duyên dáng, thân mật và vô cùng lôi cuốn. 

Ưu thế của giọng văn, thực chất, là ưu thế của nhu cầu tự bộc lộ và tự thể hiện: viết tuỳ bút là một cách bày tỏ trực tiếp cảm xúc và thái độ của mình, là xem tính chất phong phú và độc đáo của sự liên tưởng là tiêu chuẩn thẩm mỹ chính của việc viết lách, là đặt cái tôi của mình vào vị trí trung tâm của tác phẩm, hay nói theo Nguyễn Mộng Giác, là làm “một người khoả thân ngay giữa chợ” [1]. Nhu cầu tự bộc lộ và tự thể hiện ấy khiến nhà tuỳ bút dễ có khuynh hướng xâm phạm vào “quyền sống” và “quyền độc lập” của nhân vật, đẩy truyện ngắn và truyện dài đến gần với tuỳ bút và làm nhoè đi ranh giới giữa các thể loại. Điều này có thể thấy rõ ở Nguyễn Tuân qua các tác phẩm được gọi là truyện dài và ký sự, và càng rõ hơn nữa, ở Võ Phiến qua nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Dưới ngòi bút của Võ Phiến, không những truyện ngắn mà cả các bài phê bình và lý luận cũng đều phảng phất hình dáng của tuỳ bút; ở đâu cảm xúc cũng tràn lên giọng văn; ở đâu giọng văn cũng nổi lên như một yếu tố chủ đạo trong phong cách; và ở đâu phong cách cũng trở thành trung tâm của nghệ thuật ngôn từ. Có thể nói, đằng sau nhà văn, nhà phê bình và nhà lý luận văn học Võ Phiến đều có một nhà tuỳ bút. Đằng sau cây bút bình luận chính trị, xã hội, ngôn ngữ và văn hoá Võ Phiến cũng có một nhà tuỳ bút. Nhà tuỳ bút ấy chi phối toàn bộ cách hành ngôn và giọng điệu của nhà văn Võ Phiến. 

Nhưng đằng sau nhà tuỳ bút Võ Phiến là ai?


Khánh Hà: Ngọn đèn - Những vì sao

Hình minh hoạ FelixMittermeierPixabay

Ngọn đèn


Trong màn đêm tối đen
Lấp lánh một ngọn đèn
Im lìm đứng soi sáng
Đêm đêm thức cùng em

Bao người đã khuất bóng
Không gian cách vạn trùng
Thời gian là muôn kiếp
Vẫn như đang trùng phùng

Cứ như thế, như thế
Trời đất luân chuyển mùa
Người đi dần hết kiếp
Về lại cội nguồn xưa

Hạt bụi gió cuốn đi
Còn lại vết tích gì
Bao hạnh phúc, đau khổ
Hội ngộ và chia ly…

Nhẹ như cơn gió thoảng
Êm như hạt sương rơi
Cõi an bình tịch diệt
Tâm thức chợt sáng ngời

Những vì sao


Ngày xưa khi còn trẻ
Anh rủ em ngắm sao
Những vì sao lấp lánh
Diễm tuyệt trên trời cao

Đêm nào giữa sa mạc
Chi chít một trời sao
Ta nhỏ bé dường nào
Giữa bao la vũ trụ

Và đêm trên đại dương
Tàu đi như trong mộng
Ta như hai con nhộng
Quấn chăn làm kén tơ

Chỉ chừa đôi mắt mở
Ngước nhìn muôn vì sao
Biển và gió rì rào
Ta lắng nghe, không nói

Có cần lời nào không
Ta còn hay đã mất
Chỉ là chút bụi đất
Thể nhập vào mênh mông.



Hoàng Quân: Thoáng hương mùa cũ


Trang Vở Cũ – Tranh Hoàng Thanh Tâm

Mùa lễ, đám con nít gặp nhau ở nhà ông bà Ngoại, vui mừng tở mở. Đêm nào chúng cũng thức khuya lắc, khuya lơ. Sáng dậy trưa trật, trưa trờ. Mở mắt, mở miệng, như bầy tằm ăn rỗi. Chúng lau chau một hồi là tủ lạnh láng o. Chúng sục sạo tủ này, tủ kia, hỏi, chúng trả lời: “Kiếm cái chi tào lao ăn cho đỡ buồn miệng”. Nhà bếp bày biện nấu nướng linh đình, hết bánh cuốn, bánh canh đến cơm chiên, mì xào. Khi nhà bếp tuyên bố, hôm nay mời món bún ốc, đám trẻ uể oải: “Thôi, con nhịn đói”, “Con ăn chips cho no cũng được”. Bỗng đâu, giọng oanh vàng thỏ thẻ:

-Lâu lắm rồi mình chưa đi ăn nhà hàng.

Thế là có ngay dàn hợp xướng:

-Đúng rồi! Bữa nay người lớn đãi con nít ăn nhà hàng Mỹ.

Nhà hàng sang trọng đây là tiệm ăn của cháu chắt mấy đời ông Mạc Đĩnh Chi: ông Mỹ Mạc-Đô-Nô. Trong nhà, ai nấy bận rộn. Chỉ có Quỳnh Tương bị “ế độ” thôi. Bởi vậy, mọi người nhanh chóng có ngay quyết định. Người lớn Quỳnh Tương sẽ dẫn bầy cháu ra McDonald's để chúng chạy ngoài trời cho giãn gân, giãn cốt. Rồi vào tiệm nạp năng lượng với những big mac, hamburger, những shake này, shake kia.

Ngô Nguyên Dũng : Vui buồn cùng Đặng Mai Lan và tạp văn "Người Lạ, Người Quen"

Đặng Mai Lan viết không nhiều. Tạp văn "Người Lạ, Người Quen" là tác phẩm thứ ba của chị, Văn Học Press ấn hành năm 2018, sau hai tập truyện "Phòng 111", Văn xuất bản năm 2000, và "Tập Sống", Văn Mới ấn hành năm 2009. Quyển này cách quyển kia đúng 9 năm.

Tôi không có cơ hội đọc nhiều những sáng tác của chị, bởi một lẽ rất dễ hiểu, chúng tôi viết cho những tạp chí văn chương khác nhau, ngoại trừ nguyệt san Văn Học trước đó, thuở cố nhà văn Nguyễn Mộng Giác còn làm chủ bút. Tôi chỉ nhớ, đã đọc qua một vài truyện ngắn của chị trong Văn Học: Những dòng văn chương buồn bã, mênh mang tâm sự, gần như ảm đạm, chuyên chở những phiền muộn, mất mát trong đời sống của nhân vật chính. Văn phong của Đặng Mai Lan đẹp như những bức họa ngôn ngữ nhiều sắc lạnh. Giữa những dòng chữ là một chuỗi nốt trầm, gợi lên trong tâm tư người đọc những âm thanh vĩ cầm thê thiết. 

Chỉ vậy thôi. 

Cho tới vài năm trước đây, sau khi tôi tạo trang Facebook cá nhân và có dịp được kết bạn với chị. Thỉnh thoảng chúng tôi nhắn tin hỏi thăm nhau và gởi sách cho nhau đọc. Không hiểu sao, Đặng Mai Lan đã cho tôi cảm tưởng, cuộc sống tâm tình của chị đã có nhiều thay đổi lạc quan. "Người Lạ, Người Quen", có lẽ, là quyển sách được viết cho một khởi đầu khác của ngòi bút Đặng Mai Lan.

*

"Người Lạ, Người Quen" gồm 143 trang sách với 15 đoản văn, Đặng Mai Lan viết về những "người quen" là những khuôn mặt văn nghệ thân quen hay bạn bè của chị và những "người lạ", mà chị đã tình cờ gặp gỡ hay đã được chị tìm hiểu qua các phương tiện truyền thông. 


Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

Trần Mộng Tú: Bình An Dưới Thế

Hình minh hoạ, FreePik


Chơ vơ giữa cánh đồng lạnh giá
có một hài nhi sắp ra đời
cây rung tay lá vẫy nhau gọi
mặt đất rùng mình tuyết sắp rơi
mấy con bò đang phà hơi thở
mấy chú cừu đang kêu o, oe
có người cha mặt đầy lo lắng
có người mẹ hai mắt đỏ hoe

Trên trời cao có vì sao lạ
trong không gian có mộc hương bay
hình như có tiếng thiên thần hát
có tiếng chân ai bước đến đây
hình như em bé cất tiếng khóc
có hai người nhìn nhau mỉm cười

Chúng con bầy mục tử lưu lạc
nối tay nhau trong cánh đồng sương
ngợi khen Thiên Chúa cao cung hát
xin bình an đến với quê hương.

tmt (12/2009)


NHÂN LỄ GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI 2022

Diễn Đàn Thế Kỷ thân chúc các Bạn Văn, Độc Giả và Gia Đình 

Lễ Giáng Sinh An Bình Vui Vẻ và Năm Mới 2022 tràn đầy Sức Khoẻ và Thành Công.




Rebecca Denova: Sử gia cổ đại Do Thái Josephus viết gì về Kytô giáo/Đạo Cơ Đốc? (Josephus on Chistianity- Dịch giả: Nguyễn Văn Thực)

Macintosh HD:Users:thucvannguyen:Documents:Skjermbilde 2021-12-21 kl. 06.57.25.png

Rebecca I. Denova, Tiến sĩ, Cựu Giáo sư môn Kytô giáo thời kỳ sơ khai, môn tôn giáo học, Đại học Pittsburg, Mỹ. Bà mới hoàn thành cuốn sách giáo khoa: “Những nguồn gốc của Kytô giáo và Tân Ước”, NXB Wiley-Blackwell.

Dịch giả: Nguyễn Văn Thực, cộng tác viên lâu năm của báo giấy Thế Kỷ 21, và Diễn Đàn Thế Kỷ online trong lãnh vực sáng tác và dịch thuật. 

Nguồn:

Macintosh HD:Users:thucvannguyen:Documents:Skjermbilde 2021-12-21 kl. 06.44.42.png

https://www.worldhistory.org/article/1848/josephus-on-christianity/

Bài báo: 

Titus Flavius Josephus (36-100 CE), sử gia người Do Thái, là nguồn tài liệu chính giúp ta hiểu Do thái giáo vào Thời kỳ xây dựng đền thờ lần thứ hai (khoảng 515 Trước Công Nguyên:TCN)). Và trong những thập niên cuối của thế kỷ I Sau Công Nguyên (SCN), Ông viết Chiến tranh Do thái/ The Jewish WarLịch sử cổ đại của Người Do Thái/ Antiquities of the Jews/; Chống Apion/Against Apion,Cuộc đời của Flavius Josephus/ The Life of Flavius Josephus.

Những chứng từ sử liệu và chứng từ chứng kiến tại chỗ của ông vẫn còn thiết yếu cho sự nghiên cứu sử cảnh dẫn đưa tới những nguồn gốc của Kytô giáo

Hình1: Cuốn Lịch sử cổ đại của Dân Do Thái
/Flavius Josephus

Flavius Josephus

Flavius ​​Josephus tên khai sinh là Yosef ben Matityahu, thuộc một gia đình tư tế ở Jerusalem nhờ cha của ông (nhà và dòng dõi Jehoiarib), và mẹ là người gốc hoàng tộc (Hasmonean). Ông được đào tạo tại Giêrusalem và rất có thể có chung hệ tư tưởng và có thiện cảm với nhóm người Pharisiêu. Ông bị coi như một trong những người Do Thái phản bội nhất, và những người theo Kytô giáo là những người đã lưu giữ các tác phẩm của Josephus cho hậu thế. Trong Cuộc nổi dậy lớn của người Do Thái năm 66 CN, Josephus được bổ nhiệm làm tổng chỉ huy vùng Galilê. Ông ta trở nên nổi tiếng (và khét tiếng) vì đã trở cờ (theo phe La Mã – ND) trong cuộc vây hãm (của quân La Mã – ND) ở Jotapata. Ông dự đoán đúng là tướng chỉ huy La Mã/Roma, Vespasian (69-79 CN) sẽ trở thành hoàng đế La Mã. Vespasian đã tha mạng cho Josephus và Josephus trải qua phần còn lại của cuộc chiến với tư cách là cố vấn cho Titus, con trai của Vespasian (79-81 CN). Titus, cuối cùng, đã phá hủy Jerusalem và quần thể Đền thờ vào năm 70 CN. Sau chiến tranh, Josephus di cư đến Rome, nơi ông có quyền vào và truy cập các kho lưu trữ, và viết các sách lịch sử của mình. Các tác phẩm của Josephus rất quan trọng đối với một số lĩnh vực: Đạo Do Thái ở Thời kỳ Xây dựng Đền thờ lần thứ hai (vào khoảng năm 515 TCN -ND), các nguồn thông tin cơ bản về Kytô giáo Thời sơ khai, các chi tiết lịch sử về các vị vua chư hầu của Đế quốc La Mã ở phương Đông, và dòng dõi của các hoàng đế Julio-Claudian ở La Mã. Josephus bị coi là một trong những kẻ phản bội tồi tệ nhất của người Do Thái. Những người theo Kytô giáo là những người đã lưu giữ những tác phẩm của ông cho hậu thế bởi vì ông đã viết về Gioan Tẩy giả/John the Baptist, tường thuật về cái chết của anh/em trai/brother của Giêsu/Jesus, là Giacôbê/ James, và viết một đoạn chính về Giêsu/Jesus.


*Song Thao: Cầu Nguyện

Bữa 22/10 vừa qua, có trận đấu giữa hai đội bóng chày Astros của Houston và Red Sox của Boston trong giải Bóng Chày Quốc Gia Mỹ (The American League Championship Series). Bóng chày tiếng Mỹ là baseball. Tôi phải thú thật ngay là tôi không hảo với môn thể thao này. Coi chán ngắt. Tôi có đi coi vài lần nhưng chỉ là thi hành bổn phận. Các cháu của tôi chơi và tôi đi coi cổ võ. Gọi là cổ võ nhưng tôi đâu có biết luật chơi ra sao, chỉ có mặt cho cháu vui. Nhưng các sơ Việt Nam thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm tại thành phố Houston, Texas lại thích coi bóng chày. Họ được một fan của đội bóng là ông Jim McIngvale, chủ tiệm nệm Mattress Mack mua vé mời đi coi. Khán giả trên sân đã “phát cuồng” khi thấy các bộ áo dòng xuất hiện trên khán đài. Họ còn…cuồng hơn khi nữ tu Mary Catherine Đỗ Minh Thư được mời xuống sân ném trái bóng khai mạc trận đấu. Bài báo của phóng viên Đoan Trang ghi lại như sau trên báo Người Việt: “Hôm ấy, sơ Đỗ Minh Thư bước ra sân cỏ, dưới ánh đèn rực sáng, chuỗi tràng hạt màu đen đung đưa theo từng bước chân vui vẻ, để nhắc nhở các cầu thủ Astros rằng “đây là thời điểm của chúng ta”. Rồi sơ chỉ tay lên trời, quay lại đối mặt với người bắt bóng, sau một vài giây đứng yên như phút giây cầu nguyện và truyền nhiệt cho quả bóng, sơ thực hiện cú ném thành công”. Sơ Bề Trên Dòng, sơ Nguyễn Kim Hồng, nói với phóng viên báo Người Việt:

Các nữ tu Dòng Đa Minh cổ động cho đội bóng chày Houston Astros (Hình: Sr. Maria Theresa Kim Hồng Nguyễn cung cấp)

“Bóng chày là môn thể thao lành mạnh. Các chị em trong nhà dòng rất hâm mộ đội bóng Houston Astros nên thường cầu nguyện cho họ. Và khi được mời tới cổ vũ cho đội nhà thì chúng tôi rất phấn khởi tham dự”. Các nữ tu cũng cho phóng viên đài truyền hình ABC13 biết: trước đó họ đã có những khoảnh khắc yên lặng suốt ngày để cầu nguyện trong tu viện cho đội bóng họ ưa thích.

Ngô Nguyên Dũng: Tặng Phẩm Của Bầu Trời

Hình minh hoạ  Angeles Balaguer, Pixabay

Sau khi lướt đọc hồ sơ bệnh lý, vị bác sĩ trưởng ngước nhìn ông đăm đăm, cất giọng chậm rãi:

"Những thương tích thể xác của cậu con trai ông sau tai nạn hôm đó, chúng tôi đã chữa xong, chỉ chờ lành. Có điều… những chấn thương não bộ và tâm lý đã khiến cậu hôn mê…" Ông ngập ngừng, rồi buông tiếng ngắn gọn: "Phải chờ thôi!"

Người đàn ông với khuôn mặt âu lo thở hắt, hỏi khẽ:

"Bao lâu, thưa bác sĩ?"

"Không nói được. Có thể chỉ vài ngày, dăm tuần, … Có những trường hợp kéo dài tới đôi ba năm."

Người đàn ông lặng lẽ gật đầu thay cho lời cám ơn.

"Căn cứ theo những tài liệu y học và kinh nghiệm chữa trị của chúng tôi, trong khoảng thời gian chờ đợi cậu con trai của ông hồi tỉnh, ông có thể làm những việc này…", vị bác sĩ tiếp lời.

Người đàn ông ngẩng mặt, đưa tay sửa gọng kính lệch. Đầu tóc bạc thưa sợi dường như cũng hắt sáng. Ông chớp mắt, chút lệ xúc động ngân ngấn khóe mắt.

"Tôi sẵn lòng, thưa bác sĩ."

Pari Mansouri: Không Phải Là Một Cơn Mơ (Nguyên tác: No, I Was Not Dreaming - London 12/1988; Hà Quang Xương chuyển ngữ)

Hình minh hoạ  Michi-Nordlicht, Pixabay
Có một chuyện thật là lạ xảy ra cho tôi trong đêm qua. Nó kỳ lạ đến độ vào buổi sáng hôm sau tôi không có đủ can đảm để kể lại cho chồng và hai con tôi nghe. Tôi biết là khi nghe xong chuyện tôi kể, với tính tình thực tế và nhậy cảm, chồng tôi sẽ lo lắng và có thể khuyên tôi nên đến một nhà tâm lý học để được chữa trị. Mặt khác, cô con gái và cậu con trai của tôi, với tính tình vô tư lự, sẽ có thể nói: “Chắc là mẹ lại nằm mơ phải không?”

Dù sao thì tôi cũng chắc chắn một trăm phần trăm là chuyện xảy ra không phải là một cơn mơ và tôi thấy cần kể lại cho mọi người nghe.

*

Đang ngủ thật say bỗng dưng tôi nghe thấy một tiếng động nhẹ trên cửa sổ. Lúc đầu tôi tưởng là có lẽ là gió nhưng khi lắng nghe kỹ thì tôi thấy rõ ràng là có ai đó đang gõ vào cánh cửa sổ nơi phòng ngủ của vợ chồng tôi. Tôi hơi sợ và bật chiếc đèn ngủ bên cạnh giường lên, đồng hồ lúc đó chỉ một giờ sáng. Tôi tính thúc nhẹ cho chồng tôi dậy nhưng lại không muốn quấy rầy chàng vì trong thời gian gần đây chàng hay bị đau bụng, và cơn đau nhiều khi làm chàng khó có thể có giấc ngủ ngon như lúc này.

Tôi nghĩ là không thể nào là trộm được bởi vì những tên trộm thường là hành động lén lút làm gì có chuyện gõ cửa sổ nhà vào lúc một giờ sáng để làm cho khổ chủ thức dậy! Tôi cũng nghĩ là khó có thể có ai mà gõ vào cửa sổ được vì phòng ngủ của vợ chồng tôi ở lầu hai. Có lẽ tiếng gõ đó là do tôi tưởng tượng chăng? Tuy vậy tiếng gõ nhẹ đó không ngừng lại mà cứ tiếp tục khiến cho tôi không còn cách nào khác hơn là trở dậy để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Tôi khẽ mở cửa sổ, và dưới ánh trăng chan hòa tôi nhìn thấy một người thấp bé mặc một cái áo choàng mầu vàng trên đầu đội một cái mũ nhọn đỏ mà chỏm mũ có gắn một cái chuông. Ông ta ngồi trên ghế trước của một cái xe trượt tuyết do bốn con hươu kéo và có một người khác giống y hệt ông ta ngồi ở ghế sau.

Trần Doãn Nho: ‘Mẹ’ của Ngự Thuyết

Ngự Thuyết là một khuôn mặt rất quen thuộc của văn chương hải ngoại. Anh viết nhiều, viết đều và viết đủ thể loại. Truyện ngắn, truyện dài và nhiều tiểu luận của anh xuất hiện trên các tạp chí văn học giấy cũng như mạng suốt ba thập niên qua.

Bà mẹ quê. (Hình minh họa: Đức Nguyễn/Pixabay)

Về mặt sáng tác, anh có lối viết nhẩn nha, điềm đạm, từ tốn và đặc biệt nhất, là rất chi li. Trong thế giới gọi là “hư cấu” của anh, mọi sự, mọi vật đều “hiện thực” một cách đầy hiện thực! Chúng được anh mô tả tới nơi tới chốn và xuất hiện một cách bình đẳng. Từng chi tiết một, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, đều được ngòi bút của anh chiếu rọi đến.

Đọc anh, tôi có cảm tưởng như không có gì trong cái thế giới thân thuộc chung quanh thoát khỏi con mắt quan sát tinh tường, độc đáo của anh. Không phải chỉ ở hiện tại, mà ngay trong quá khứ. Anh ghi lại chúng y như thể các tầng lớp ký ức xa xưa đều lũ lượt trở về, sắp hàng đi ngang trước mặt anh, để cho anh tuần tự chộp lấy và ghi lên giấy. Một ký ức tuyệt vời! Và một đầu óc quan sát nhanh, nhạy, mẫn cảm và… dân chủ. Anh không cưng sự vật này, bỏ bê sự vật khác. Tất cả đều có chỗ đứng đàng hoàng trong văn anh. Đọc anh, tôi mê mải theo dõi những điều anh mô tả đến nỗi quên – có khi quên bẵng – theo dõi… câu chuyện.

Đặng Mai Lan: Độc giả


Đừng kể tới những năm tháng tuổi đời xanh như lá mới nơi quê nhà, thuở tập tành viết lách. Truyện ngắn đầu tiên tôi viết trên quê hương thứ hai, được đăng trên tạp chí Văn với vài lời giới thiệu của cố nhà văn Mai Thảo, đến bây giờ đã gần ba mươi năm.

Xuất bản được bốn tác phẩm. Ba tập truyện đầu, tổng cộng là ba mươi sáu truyện ngắn, lẫn tạp ghi. Mỗi tập truyện cách nhau đến chín năm. Nếu chia đều số truyện cho hai mươi bảy năm thì mỗi năm tôi chỉ viết được một truyện. Tội nghiệp quá, sức viết của tôi!

Tôi chỉ nhẩm tính con số này khi sửa lại phần tiểu sử, tác giả và tác phẩm, chuẩn bị cho cuốn truyện dài đầu tay. Bởi vì đây là tác phẩm thứ tư, ra đời chỉ cách hai năm, sau cuốn sách thứ ba. Nói vậy, không phải là tôi đã viết nhanh hơn.

Truyện dài mang tên "Sương Ký Ức" được khai bút từ rất lâu, nhưng nhiều chuyện không vui xảy ra khiến tôi không còn hứng thú. Tôi ngừng viết, bỏ hẳn bản thảo qua một bên, mặc dù đã viết được sáu chương… Cuối cùng, truyện được hoàn tất trong vòng sáu tháng. Chữ nghĩa từ tim óc viết ra làm sao có thể dễ dàng dứt bỏ.

Pearl Buck: Sáng Ngày Giáng sinh (Christmas Day in The Morning - Nguyễn Văn Thực dịch)

Hình minh hoạ  1388843, Pixabay

Người đàn ông tỉnh dậy đột ngột và hoàn toàn tỉnh táo. Đã bốn giờ, giờ mà cha ông hằng gọi ông dậy để giúp cha ông vắt sữa. Thật lạ là những thói quen thời trai trẻ bây giờ vẫn còn đeo bám ông! Đây là thói quen của 50 năm trước đây, và tính tới nay thì cha ông đã mất được 30 năm, vậy mà ông vẫn có thói quen thức dậy mỗi ngày lúc bốn giờ sáng. Ông xoay mình, ngủ nướng thêm chút nữa, nhưng sáng nay là Lễ Giáng sinh, ông chẳng rán nhắm mắt mà ngủ thêm như mọi bận.

Tại sao đêm nay ông lại cảm thấy tỉnh táo như vậy? Độ rày ông hay nghĩ về những năm tháng cũ. Ông 15 tuổi và sống trong trang trại của cha ông. Ông thương cha ông. Ông đã không biết cha mình thương mình cho đến một ngày trước Lễ Giáng sinh vài ngày khi ông tình cờ nghe được những gì cha ông đang nói với mẹ:

"Mary à, anh ghét phải gọi thằng Rob dậy mỗi sáng sớm. Thẳng lớn nhanh quá và nó cần ngủ. Nếu em mà có thể thấy nó ngủ mê như thế nào khi anh vào đánh thức nó... Anh cứ muốn để anh tự làm hết công việc để cho con nó ngủ.”

Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2021

Ngô Nhân Dụng: Tại sao Đảng sợ Phạm Đoan Trang

Cô Phạm Đoan Trang, 43 tuổi, đã bị tuyên án 9 năm tù vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước” theo luật Hình sự của đảng Cộng sản. Luật sư Đặng Đình Mạnh kể, có lúc tòa tạm ngưng, cô Đoan Trang quay lại nhìn về phía người mẹ đang ngồi phía sau khoảng 5 mét. Bà Bùi Thị Thiện Căn, hơn 80 tuổi, đã nắm tay, đưa một ngón cái lên: “Con là Số Một!”

Có 5 luật sư bào chữa cho Phạm Đoan Trang, các ông Đặng Đình Mạnh, Nguyễn Văn Miếng, Lê Văn Luân, Ngô Anh Tuấn và bà Phạm Lệ Quyên. Luật sư Mạnh nhận xét, “Có lẽ, chỉ có dòng máu anh thư chảy trong huyết quản người mẹ Việt mới có thể luân chuyển, hun đúc nên tinh thần kiên cường của một Đoan Trang mà chúng tôi phải ngả mũ từ rất xa.”

Phạm Đoan Trang đã sáng lập tạp chí “Luật Khoa” giúp người Việt Nam hiểu luật pháp để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Cô làm báo từ năm 2000 cho đến 2013, cộng tác với gần mười cơ quan báo chí trong nước, như VnExpress, Vietnamnet, báo Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, đài truyền hình VTC, vân vân.

Năm 2014, cô qua Mỹ nhận học bổng nghiên cứu của tổ chức Villa Aurora & Thomas Mann House và thư viện Feuchtwanger tại đại học nam California (University of Southern California- USC). Năm 2015 Phạm Đoan Trang tham gia cuộc biểu tình ôn hoà “bảo vệ cây xanh” và bị công an đánh gãy cả hai chân. Cô đã xuất bản những cuốn Phản kháng phi bạo lực, Cẩm nang nuôi tù, Chính trị bình dân, tất cả hơn 10 tác phẩm tranh đấu. Cô bị bắt giam thêm nhiều lần nữa.

Tại sao sau khi công tố viên đề nghị bản án từ 7 đến 8 năm tù, quan tòa lại tăng lên thành 9 năm?

Vì Đảng Cộng sản đang sợ. Đó là nhận xét của một tờ báo ở Berlin, nước Đức, ngay lập tức khi loan tin bản án.

Ông Dương Hồng Ân ở Đức giới thiệu nhật báo TAZ tường thuật phiên tòa, dưới tiêu đề “Tự Do Báo Chí ở Việt Nam (Pressefreiheit in Vietnam). Báo này viết tựa: “Chín năm tù cho nhà báo nữ” (Neun Jahre Haft für Journalistin). TAZ giải thích, “Chế độ độc tài đưa ra bản án quá nặng, chắc vì họ sợ…” Nhờ bản tin này, độc giả được biết “Việt Nam đứng hàng thứ 175 trong số 180 quốc gia, trong bảng xếp hạng “tự do báo chí” của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới.“

Phản ứng của quốc tế trước bản án 9 năm tù đối với bà Phạm Đoan Trang

1. Mỹ, Anh, Canada và các nước khác đồng loạt phản đối bản án 9 năm tù đối với bà Phạm Đoan Trang


15/12/2021
VOA Tiếng Việt
Nếu chúng ta đang sống trong một xã hội có tự do, có phẩm giá, có công lý, có dân chủ thì những người như Đoan Trang sẽ có một vị trí đáng ngưỡng mộ trong xã hội.
Huy Đức

***

Tôi chỉ lo là có sống được để làm việc [viết sách, góp phần vào cuộc đấu tranh vì dân chủ] hay không, bởi vì với cách đàn áp này thì chắc họ muốn giết hết những người như chúng tôi.
Phạm Đoan Trang

Nhà báo tự do Phạm Đoan Trang tại tòa ngày 14/12/2021. Photo screenshot từ ANTV via YouTube.

Ngay sau khi nhà báo tự do Phạm Đoan Trang bị chính quyền Hà Nội tuyên án 9 năm tù vào ngày 14/12, Mỹ, Anh, Canada và hàng loạt các quốc gia phương Tây lên tiếng phản đối bản án này và kêu gọi chính quyền trả tự do ngay lập tức cho bà.

Trần Mộng Tú: Nếu Em Già

Hình minh hoạ S. Hermann & F. Richter,  Pixabay

Nếu em già vào ngày mai
em hứa với anh
em sẽ không tô môi son đỏ nữa
em sẽ cho đi những đôi giầy cao gót
em sẽ không còn mặc áo hở vai

Nếu em già vào hôm nay
em hứa với anh
dù ngoài trời đang lất phất mưa bay
em sẽ không đòi lang thang trên phố
em sẽ không đòi ăn kem trong mùa đông
em sẽ không uống trà xanh trước khi đi ngủ
không trèo lên con dốc sau nhà để hái một đóa hoa
không chạy vội ra sân nghiêng tai nghe trời trở gió

Nếu em già ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai nữa
em hứa với anh
như những người già thực thụ
em sẽ sống thong thả từng ngày
từ từ vui
và rón rén buồn
cười khẽ khàng
và khóc như sương
Sương như ngọc và trong như lệ

Nhưng anh ạ
có một điều em không thể hứa
sẽ bỏ Thơ khi đến tuổi già
vì trong hồn em có một đóa hoa
vẫn thi thoảng
nở ra từng cánh
rồi khẽ khàng rơi xuống môt câu thơ

rơi rất khẽ
chỉ một mình em biết.

tmt
Sinh Nhật Dec.19. 2021


Ngô Thế Vinh: Dohamide - Giấc Mơ chàm Và Bangsa Champa


Hình 1: từ trái, cây bút chuyên khảo văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa Dohamide, chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, Ngô Thế Vinh, nhà văn Võ Phiến. [hình chụp 1994 tại Little Saigon, tư liệu Ngô Thế Vinh] 



TIỂU SỬ

Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau:


“Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng  Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]


Phạm Tín An Ninh: Giai nhân tự cổ

(Viết tặng những giai nhân trường Nữ, và để tưởng nhớ một người...)


“O sinh ra tận mô ngoài Huế
Hà cớ gì trôi dạt tới Nha Trang
Để một “thằng Võ Tánh”phải lang thang
Đem cây si trồng trước sân trường Nữ”

Nhờ bài thơ với bốn câu mở đầu không đâu vào đâu này, tôi bất ngờ nhận được điện thư của một người có tên Van Loubet từ một nơi nào đó gởi ngợi khen và hỏi tôi có phải là cậu bé nhà quê ngày xưa vào Nha Trang, có thời trọ học ở một con hẻm lớn trên đường Phương Sài. Tôi khá ngạc nhiên, vì bài thơ tôi viết vội chỉ để gởi đăng trên Đặc San Võ Tánh&Nữ Trung Học Nha Trang (*), nhân dịp đại hội cựu học sinh hai ngôi trường này tổ chức tại Houston hơn hai năm trước đó, mùa hè năm 2005; và cái tên người gởi, Van Loubet rất xa lạ, có thể chỉ là một nick- name, không phải tên thật. Thấy một số chi tiết trên mẫu điện thư ghi bằng tiếng Pháp, tôi tò mò, tìm hiểu cái họ Loubet, được biết đó là họ của ông Émile Loubet, thủ tướng thứ 45 của nước Pháp và sau đó trở thành tổng thống (năm 1906)! Tôi giật mình, làm sao tôi có thể quen biết với một người thuộc “danh gia vọng tộc” tận bên trời Tây?

Hồi âm và hồi hộp đợi chờ. Mãi đến hai hôm sau, nhận được thư trả lời, tôi mới vỡ lẽ, nhưng rồi lại có thêm nhiều điều ngạc nhiên khác. Người viết thư cho tôi là chị Bích Vân, bà chị cả của “O Huế” trong bài thơ tôi viết. Chị sang Pháp vào những ngày Sài Gòn trong cơn hấp hối, và bảy năm sau, lập gia đình với một người Pháp có dòng họ với ông tổng thống từ năm 1906 này. Chị cho tôi biết đã vô tình đọc được bài thơ “O Huế Ngày Xưa” của tôi trên diễn đàn của trường Đồng Khánh, mà chị là một thành viên. Trước khi chuyển vào trường Võ Tánh-Nha Trang, chị vốn là một nữ sinh Đồng Khánh. Sau đó chị thử vào Google gõ tên tôi thì tìm ra cả trang Web, có cả địa chỉ email của tôi trong đó. Chị còn bảo, sở dĩ chị đoán ra tôi một phần là do nội dung bài thơ, phần khác chính là nhờ cái tên của tôi đã làm chị dễ nhớ. Điện thư chị viết khá dài, lại không có dấu nên khó đọc, nhiều chữ phải đoán mò. Tôi cố đọc đi đọc lại vài lần mong tìm xem có tín hiệu nào về “O Huế” của tôi, nhưng hoàn toàn không thấy. Phía dưới email, chị cho số điện thoại và dặn tôi gọi cho chị vào cuối tuần, khoảng sau bốn giờ chiều thứ bảy, để chị em tâm sự nhiều hơn.


Trịnh Thanh Thủy: Cung Tích Biền điên tỉnh giữa "Một thời nên vắng mặt"

“Tôi có một kho tàng sống qua mấy thời kỳ. Chỗ giáp ranh của thực hư, chính tà. Nửa tỉnh nửa điên...”.

Cung Tích Biền.

Trong tiết đông giá rét, mọi người đang chờ đón Giáng Sinh năm 2021, Quận Cam cũng hân hoan chào mừng một đứa con tinh thần mới ra đời. Ấp ủ và cưu mang tác phẩm tinh thần này suốt thời gian sống tại hải ngoại, nhà văn Cung Tích Biền cuối cùng đã giới thiệu đến các độc giả, tác phẩm "Một thời nên vắng mặt" của mình, một chiều cuối năm tại Coffee Factory.

Gần 60 bạn hữu thân quen của ông đến dự, ngồi chật kín quán cà phê, phả vào không gian thơ mộng một bầu không khí thân mật và ấm cúng. Đây là lần ra mắt sách thứ nhì sau lần ra mắt trước cách đây 2 tháng. Lần trước ông giới thiệu 5 cuốn sách và lần này là cuốn Tân Truyện được viết trong 5 năm ông sống tại Hoa Kỳ.

Hiện diện trong buổi RMS có nhiều văn nghệ sĩ như: Trịnh Y Thư, Tô Đăng Khoa, Lê Lạc Giao, Thuận Huỳnh, Trương Đình Uyên, Nguyễn Đình Trí, Phùng Minh Tiến, Vũ Hoàng Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Thanh Lương, Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Thơ Thơ, Hồ Như, Nguyễn Đình Thuần, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Cao Bá Minh, Nina Hòa Bình, Phan Tấn Hải,Nguyễn Thanh Huy, Phạm Phú Minh, Thành Tôn, ÔB Mai Tất Đắc, Vương Trùng Dương, Lê Phước Bốn, Đinh Quang Anh Thái, Đinh Xuân Quân…

Lâm Vĩnh Thế: Những Sắc Thái Riêng Biệt Trong Tín Ngưỡng Dân Gian Miền Nam

 Người Việt Nam nói chung là một dân tộc rất coi trọng tín ngưỡng.  Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong nhà, người Việt Nam còn thờ phượng rất nhiều thần linh trong nhiều cơ sở tôn giáo khác nhau, trong đó Đình là một cơ sở mang đặc tính văn hóa tiêu biểu của người Việt.  Mỗi làng, đơn vị dân cư căn bản của người Việt, đều có một ngôi đình để thờ Thành Hoàng bổn cảnh, vị thần được sắc phong của vua có nhiệm vụ che chở cho dân làng.

Tổ tiên của người Việt vùng Đồng Bằng Đồng Nai - Cửu Long (sau đây sẽ viết tắt là ĐBĐNCL), những lưu dân từ Đàng Trong đã vào khai phá, lập nghiệp ở vùng này trong các thế kỷ 17 và 18, cũng đã tiếp tục truyền thống văn hoá Việt này.  Họ cũng lập làng, dựng đình và thờ Thành Hoàng.  Tuy nhiên, cũng giống như trong các nét văn hoá khác trong vùng ĐBĐNCL, những lưu dân này đã tạo ra những biến đổi trong văn hoá Việt về phương diện tín ngưỡng.[1]

Bài viết này cố gắng ghi lại những sắc thái riêng biệt của văn hoá tín ngưỡng dân gian trong vùng ĐBĐNCL. 

Những Cơ Sở Của Biến Đổi Văn Hóa

Biến Đổi Tâm Thức Của Những Lưu Dân

Theo dòng Nam Tiến của dân tộc, những lưu dân Đàng Trong trong quá trình xuôi Nam này, do hoàn cảnh phải đương đầu với những khó khăn lớn lao về mọi mặt, đã phải tự tạo cho mình một bản lãnh anh hùng độc đáo, dám nghĩ, dám làm, hoàn toàn không quá câu nệ vào tập tục truyền thống.  Cá tính phóng khoáng này, mà người viết xin tạm gọi là vượt qua tâm thức lũy tre xanh, một phần nữa cũng do ảnh hưởng địa lý của vùng đất mới đem lại.  Cái không gian mênh mông, hùng vĩ, như của thời hồng hoang, (mà Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên (thế kỷ 13), đã mô tả trong quyển Chân Lạp Phong Thổ KỶ của ông như sau: “Trên các dải đồng hoang, hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy, đàn” [2]) của ĐBĐNCL làm sao không ghi lại những dấu ấn đậm nét trong tâm thức của những lưu dân này.  Cụm từ “địa linh nhân kiệt” mang một ý nghĩa vô cùng thực tiễn trong trường hợp này.


Nguyễn Đức Tùng: Cuốn Sách Đầu Tiên

Cuốn sách đầu tiên mà tôi đọc khi ở ngoài đất nước là một món quà. Tôi hoàn toàn không biết người gửi. Tôi tìm thấy nó dưới tấm thảm cũ góc nhà trong khu tạm giam gần thủ đô Bangkok. Tôi thức dậy trước khi trời sáng, không ngủ được, bồn chồn, cảm giác có vật cộm lên dưới gót chân. Đó là cuốn sách rách bìa nhưng bên trong còn tốt, giấy ố vàng nhưng chữ đọc được. Cuốn sách không nằm đó một mình, không nằm đó một cách cô độc, nó nằm chờ ở đó như người bạn chờ người bạn. Cuốn sách như tác phẩm nghệ thuật được một nghệ sĩ để lại trên đường đi, vì quá nặng, hay cố tình để lại cho người đến sau. Cuốn sách ấy như một nhân vật, không yêu ai, không phụ ai, không chú ý đến người nào, nằm im lặng ở đó nhưng đã học quá nhiều điều từ những năm tháng tối tăm, biết bao người đi qua, dừng lại, nằm xuống, nằm xuống mãi, không ai nhìn thấy vì nó nằm ở chỗ lõm sâu nhất của sàn xi măng lạnh lẽo. Cuốn sách không được phê bình, không được mang tới, kiên nhẫn như tác phẩm vĩ đại, như kho tàng chôn giấu kỹ, là vật duy nhất còn sống sót dưới đống gạch đá của ngôi nhà tan nát vì chiến tranh. Nó ở đó, lưu giữ ký ức của loài người, sự sinh thành các tính cách, tham lam và ích kỷ, cao thượng và hy sinh, dằng dặc nỗi buồn của tình yêu của ba người đàn ông.

Đó là ba anh em nhà Karamazov, trong cuốn The Brothers Karamazov, bản dịch tiếng Anh khoảng năm 1960. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn Nga Fyodor Dostoevsky, được viết những năm cuối của đời ông. Trước đó tôi chưa đọc cuốn này, cả trong tiếng Việt, mặc dù có nghe nói đến bản dịch, nhưng tôi có đọc Tội ác và Trừng phạt, đọc loáng thoáng, ba lơn, không thích vì không hiểu, tối tăm so lối văn trong sáng mà tôi vẫn yêu thích thời ấy. Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác. Không có từ điển trong tay, tôi quyết định đọc nó, khổ sở, hoang mang, tức giận. Đọc chậm, từng chữ, đánh vần, rồi đọc lại cả mệnh đề rồi cả câu, vừa đọc vừa đoán, vừa đọc vừa tưởng tượng, cũng có nhiều chữ gần với tiếng Pháp, sinh ngữ của tôi, nên tôi suy ra được. Tôi đoán nghĩa của chúng dựa vào liên tưởng, lờ mờ hình dung các nhân vật, lời nói cử chỉ của họ, các tranh luận dài dằng dặc của họ. Tính chất cực đoan của tác giả, những cuộc đối thoại vừa gay go vừa ly kỳ bắt đầu quyến rũ tôi, sự nhạy cảm của nhà văn, sự xung đột của các tính cách, nỗi khổ đau của họ, tình yêu của họ. Thực sự là một tiểu thuyết lớn có tính triết học với những câu hỏi về các giá trị, sức mạnh của lòng tin, và sức mạnh của sự nghi ngờ, tranh cãi. Sự thách thức và sự bảo vệ tự do. Các cuộc chiến tranh bắt buộc và các cuộc chiến tranh có thể tránh được.

Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2021

CHIA BUỒN

Được tin Giáo sư Phê rô ĐÀM TRUNG PHÁP

Đã từng là :

Giám Đốc Trung Tâm Sinh Ngữ thuộc Viện Đại Học Sài Gòn

Giáo sư trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn

Professor of Linguistics Emeritus, Texas Woman’s University

Chủ biên Tập san VIỆT HỌC Journal

Đã đóng góp nhiều bài vở giá trị cho Diễn Đàn Thế Kỷ trong các năm qua

đã qua đời vào ngày 3 tháng 12 năm 2021, tại Laguna Woods, Orange County, California.

Hưởng thọ 81 tuổi.

Diễn Đàn Thế Kỷ thành kính chia buồn cùng tang quyến và cầu chúc Linh hồn Phêrô Đàm Trung Pháp sớm được hưởng nhan Thánh Chúa.

Tuấn Khanh: Cô gái vót chông, hay là hội chứng “khổ dâm” Việt-Mỹ

Câu chuyện của nữ thí sinh hoa hậu Miss World đi thi trên vùng đất thuộc lãnh thổ chưa hợp nhất của Mỹ (Unincorporated territories), nhưng cất lên bài hát chống Mỹ, là minh họa rõ nét nhất của mối quan hệ vật vã Việt Mỹ lúc này. Mối quan hệ được nhìn thấy rõ nét hai chiều “khổ dâm” của một nhà cầm quyền: Thích nhích lại gần Mỹ nhưng luôn hô hào chống Mỹ và tận dụng mọi cơ hội để phủ nhận nước Mỹ.

Việc quyết định sắp xếp bài hát có nội dung chống Mỹ cho một thí sinh dự thi quốc tế, chắc chắn là có suy xét nhiều thứ từ những người ở Hà Nội, “những người” mà trong cuốn hồi ký Nothing Is Impossible của cựu Đại sứ Ted Osius vẫn ám chỉ, là một phía của phe bảo thủ vẫn còn muốn ôm ấp những kỷ niệm chiến tranh, không thể rời bỏ. Bởi đơn giản, nếu lấy đi phần đó trong cuộc đời của họ, sự tồn tại của họ trong thể chế hôm nay là vô nghĩa.

Phía bảo thủ trong nội bộ cầm quyền Việt Nam – câu hỏi là bao nhiêu? Và họ quan trọng như thế nào, đến mức những hình thức chống Mỹ quái gở vẫn phải được giữ gìn qua các hoạt động ngày thường? Một dư luận viên rời bỏ vị trí, kể rằng anh ta được gọi vào nhóm xây dựng các kênh trá hình kể chuyện lịch sử, hay những câu chuyện chiến tranh Việt Nam trên YouTube, TikTok…, với những phim tư liệu mang nội dung chống Mỹ, chê bai Việt Nam Cộng Hòa, ngợi ca quân đội Bắc Việt… Tất cả được cung cấp sẵn, chỉ cần đọc, post hình ảnh lên các kênh và kéo link cho các nhóm dư luận viên phong trào tràn vào like và ca ngợi. Ngôn ngữ trong đó thì thoải mái chửi bới, áp đảo tinh thần của những ai vô tình lạc vào nói lại, đính chính những điều bị bóp méo.

“Em thấy mình không theo nổi trò đó, vì mọi thứ đều bị xuyên tạc”, bạn dư luận viên đó nói về quyết định rời bỏ của mình. Những gì được kể từ bạn ấy, cho thấy từ việc sửa Wikipedia, cho đến các kênh viết lại lịch sử và phong trào tham gia bình luận, đều có những chỉ đạo rất cụ thể.

Trần Mộng Tú: Nữ Thi Sĩ AiDa và Thơ

Từ những câu thơ chúng tôi ngước nhìn
Như tù nhân đã bị bịt mắt
Được gửi đi tìm ánh sáng
Nhưng ánh sáng chẳng bao giờ tới
Một cây kim và sợi chỉ sẽ cần thiết
Để hoàn thành bức tranh
Để nhìn thấy những sinh vật tội nghiệp, những kẻ khốn khổ
Đó là một con diều hâu
Đôi mắt đã bị khâu.

Bài thơ trên do Thi sĩ Ai-Da sáng tác.

Vậy Ai-Da là ai và từ đâu tới?

Ai-Da và Bố Aidan Meller
Ai-Da là con đẻ của Aidan Meller ở Oxford, miền trung của nước Anh. Ai-Da là một nghệ sĩ người máy cực kỳ hoàn mỹ và giống thực tế đầu tiên trên thế giới. Cô vừa trình diễn một buổi đọc thơ trước công chúng, tại Bảo Tàng Ashmolean nổi tiếng của Đại Học Oxford nhân kỷ niệm 700 năm ngày mất của Dante. Bằng những câu thơ cô sáng tác căn cứ vào những dữ kiện cô thu thập được từ sử thi “Divine Comedy” của nhà thơ, mà Aida đã tích lũy được toàn bộ vào bộ nhớ của mình, sau đó với tài năng điện toán ưu việt cô lấy ra những mẫu lời nói của Dante làm thành bài thơ của riêng mình.

Bài Thơ trên của Cô đã được cha cô, ông Meller khen ngợi là sâu sắc.

Khi nói về người máy, về Robot người ta thường liên tưởng đến những phim ảnh bạo động. Người ta quen nghĩ như thế hằng bao nhiêu năm nay và mặc nhiên cho rằng những robot này chỉ thuộc về một thế giới hãi hùng đen tối nào đó trong phim ảnh và tiểu thuyết, và những người tạo dựng ra những người máy này một phần nào cũng bị cho là có đầu óc lệch lạc.

Một ngày đẹp trời nào đó bỗng thiên hạ tự nhiên được thưởng thức một “Thi Sĩ Robot” đọc cho nghe một đoạn thơ “Đầy thơ và Đầy cảm xúc”.

Như thế, người ta bỗng thấy yêu đời và tin người hơn.