Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020
Phạm Phú Minh: Từ Bình Sơn tới Đông Bàn
Bắt đầu viết sau khi được tin anh Chu qua đời tại Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2011, thọ 77 tuổi.
Thầy mợ tôi có cả thảy bảy người con, hai chị đầu rồi đến một dọc năm đứa con trai. Anh Hòa là con trai đầu, kế đến là anh Chu. Sau anh Chu là anh Hiển, đến tôi là Minh rồi đến Lợi là út.
Chu là tên gọi ở nhà, chứ tên khai sinh của anh là Hiệp, Phạm Phú Hiệp. Một lần tôi nghe thầy tôi kể về nguồn gốc tên Chu: khi anh Hiển tôi ra đời, anh Chu mới lên ba, một hôm vào buồng mợ tôi thấy em bé đang trần truồng, bèn chỉ vào và nói to lên với giọng còn ngọng: “Chon chu kìa, chon chu kìa!” Mọi người đều bật cười và từ đó gọi anh là Chu.
Dù gia đình gốc tỉnh Quảng Nam, các anh em trai chúng tôi đều sinh tại làng Tiên Đào, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, trong thời gian thầy tôi làm hiệu trưởng trường Tiểu học Bình Sơn, từ khoảng cuối thập niên 1920 đến 1945. Đó là phủ lỵ có quốc lộ 1 chạy qua, gồm một ngôi chợ tên là chợ Châu Ổ, một trạm y tế, một rạp hát, một trường học và dĩ nhiên, một phủ đường là nơi tri phủ và bộ phận hành chánh của phủ làm việc. Con sông Trà Bồng chảy qua chia thị trấn phủ lỵ ra làm hai phần: phía hữu ngạn có chợ Châu Ổ và trạm y tế, coi như là khu thương mại, tả ngạn có phủ đường, trường học, rạp hát, tạm coi là khu văn hóa. Nối liền hai bên là cây cầu Bình Sơn của quốc lộ 1, nơi xe hơi, xe đạp, xe kéo và người đi bộ qua lại hằng ngày. Nhà thầy tôi cũng như hầu hết giáo viên trong trường Bình Sơn đều nằm bên tả ngạn.
Tôi ra đời năm 1938, khi bắt đầu có nhận thức (chắc vào khoảng bốn tuổi) thì thấy trong nhà tôi rất đông đúc, vì anh chị em tôi vốn đã đông, lại thêm nhiều học trò trọ học. Những người trọ học ấy đều từ Quảng Nam vào, là con cái của bà con, bạn bè của thầy mợ tôi gởi gắm. Đã có nhiều đợt học trò ngụ tại nhà của thầy tôi khi tôi còn quá nhỏ, thậm chí khi tôi chưa ra đời, nhưng khi tôi bắt đầu nhận biết thì trong đám đông đúc ấy lờ mờ có hình ảnh các anh Tạ Ký, Hoàng Dũng (anh Ngọ, anh họ tôi), Hà Xân, Phạm Phú Kiền..., họ họp với các anh của tôi thành một tập thể nghịch ngợm, năng động và rất vui. Nhưng có vẻ tôi thân với anh Chu của tôi hơn cả, vì anh có một quyển vở chép bài hát mà tôi rất thích giở ra coi. Tôi rất mê hình ảnh mà anh vẽ ngay trang đầu, gần như nguyên một trang: một cậu bé ngồi nhìn lên trời, và trên trời có một mặt trăng rất to với mấy vệt mây bên cạnh. Ngay dưới bức tranh có chép mấy câu hát, tôi nhớ vì anh Chu của tôi hát cho tôi nghe chứ hồi đó tôi chưa biết đọc:
Trăng lên kia rồi
Như gương lưng trời
Cùng nhau múa hát ngắm trăng chơi
Bài hát theo điệu Clementine, đây là các câu hát tiếng Việt đầu tiên theo điệu này mà tôi biết. Sau này lớn lên tôi còn biết nhiều câu hát khác đặt theo điệu dân ca Tô Cách Lan này nhưng tôi không bao giờ quên mấy câu mà anh Chu hát cho tôi nghe khi tôi còn bé tí, nó luôn luôn gợi trong tôi một tình cảm rất trong sáng như một mảnh gương tròn nằm vằng vặc giữa trời.
Một điều nữa tôi nhớ về anh Chu của tôi trong thời kỳ này là một buổi diễn kịch của trường Tiểu học Bình Sơn. Tôi không biết buổi diễn là trong dịp gì – có lẽ vào dịp cuối niên học – sân khấu ngay trong préau (một khoảng sân chơi có mái lợp) của trường, thời gian chắc vào năm 1943 dựa trên những gì còn nhớ được của một đứa bé năm tuổi là tôi lúc bấy giờ. Anh Chu xuất hiện trong hai vở kịch. Vở thứ nhất dựng theo bài thơ ngụ ngôn “Cô Pérette” của La Fontaine do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, gồm hai diễn viên, cô Pérette và ông chồng. Vai chính là cô Pérette do Cao Huy Thuần đóng, một cô gái trắng trẻo bước ra sân khấu với một cái bình trên đầu vừa đi một cách yểu điệu vừa đọc bài thơ:
Cô Pérette đi mang liễn sữa
Kê đệm bông để giữa đỉnh đầu
Ắt rằng Kẻ Chợ xa đâu
Nhẹ nhàng thoăn thoắt chẳng âu ngại gì...
Cô gái diễn xuất các ước mơ sữa bán xong, mua trứng về, ấp thành gà con, vừa chỉ tay khoa một vòng quanh mình vừa hào hứng đọc Chẳng trong mấy chốc đàn gà đầy sân... Giấc mơ tiếp tục cho đến lúc cô hứng chí quá nhảy lên khiến liễn sữa trên đầu rơi xuống đổ tan tành, cô vừa khóc vừa ngâm nốt bài thơ:
Sữa đổ nhào hết thảy còn chi
Nào bò nào lợn nào bê
Nào gà nào trứng cũng đi đàng đời
Cô tôi thấy của rơi lênh láng
Lủi thủi về chịu mắng cùng chồng...
Đúng lúc ấy ông chồng, do anh Chu tôi đóng, xuất hiện, đầu thắt khăn đầu rìu lại vẽ thêm hai vệt râu mép, cầm cây gậy đánh vào cô vợ mấy cái, rồi cả hai cùng đọc để kết thúc vở kịch:
Đành rằng mấy gậy là cùng
Để câu chuyện sữa kể rong khắp làng.
Vở kịch thứ hai là vở Trần Bình Trọng, anh Chu đóng vai Trần Bình Trọng khi đã bị giặc Tàu bắt, có cuộc nói qua nói lại gì đó giữa tướng Tàu và tướng ta, tôi chỉ còn nhớ câu anh Chu thét rất to: Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc, sau đó bị lính Tàu xúm đâm chém, Trần Bình Trọng ngã xuống cùng lúc có tiếng hát đồng ca từ hậu trường:
Trần Bình Trọng, Trần Bình Trọng!
Dưới gươm đầu rụng
Lòng không lay động
Lấy thân đền nợ nước
Lòng tôi chết vì trung
Kìa gươm thiêng từ thuở trước
Rạng vẻ đấng anh hùng
Trần Bình Trọng, Trần Bình Trọng!
Làm sao cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ đầy đủ lời ca lẫn nhạc điệu của bài Trần Bình Trọng này, dù khi tôi lớn lên bài đó đã tuyệt tích trong xã hội? Tôi không nghĩ chỉ coi một buổi kịch đó mà tôi nhớ mãi bài hát, chắc trong gia đình về sau các anh chị tôi đã hát bài đó nhiều lần tôi mới nhập tâm như thế.
Thời tôi lên bốn năm tuổi ấy, suốt ngày tôi và anh Hiển (hơn tôi chỉ một tuổi) chơi trong một ngôi nhà vắng lặng bên cạnh mợ tôi, vì thầy tôi và cả đám học trò đều lên trường hết. Có thể thời gian ấy chị Cả tôi lên 16, 17 đã thôi học nhưng tôi không để ý sự hiện diện của chị ở nhà, tôi chỉ nhớ thường ở bên cạnh mợ tôi. Thú vị nhất là cảnh dưới mái hiên khi người bán thịt heo ghé lại mời mợ tôi mua hàng. Bà hàng thịt gánh hai cái rổ lớn miệng rộng có nắp đậy bên trên, một bên là thịt sống, một bên là thịt chín trong đó luôn có hai món huyết và gan đã luộc. Dù mợ tôi có mua thịt hay không, anh Hiển và tôi luôn luôn được mỗi đứa một miếng huyết hoặc gan, hai đứa tôi sung sướng vừa ăn vừa nhảy cà tưng khắp nhà, và cho đến ngày nay tôi vẫn còn nhớ lúc đó tôi thấy gan ngon hơn huyết nhiều. Một món quà nữa tôi vẫn được mợ tôi mua cho ăn là xu xoa, tức là món đông sương nấu bằng rau câu đổ vào cái chậu bằng đất, người bán xắn từng miếng bỏ vào cái chén nhỏ rồi rưới nước đường lên trên. Món ngọt còn có đậu hũ, ăn nóng, cũng với nước đường giống như xu xoa. Hai món quà ngọt này thường được gọi chung là “xu xoa đậu hũ” mặc dầu chúng được bán riêng rẽ.
Buổi trưa nhà ồn lên vì gần mười người từ trường về, nhưng sau bữa ăn trưa, nhà yên tĩnh lại vì một kỷ luật rất nghiêm nhặt: phải giữ yên lặng cho thầy tôi ngủ trưa. Đám học trò tản ra, có một hình ảnh tôi còn giữ mãi: bên cạnh đường quốc lộ chạy ngang trước nhà có trồng một hàng cây, hình như là dương liễu, có lần tôi thấy đám học trò ấy mỗi người mang vở leo lên một cây ngồi học bài, cả một hàng dài tụng bài nghe như tiếng ve kêu, rất ngộ nghĩnh. Chắc cũng là một trò nghịch thôi, nhưng cái hình ảnh đó rất vui và độc đáo.
Sau khi mợ tôi qua đời đột ngột vào mùa hè năm 1944 (mới có 38 tuổi), tôi và anh Hiển tôi được gửi về Đông Bàn, Quảng Nam ở nhà ông nội với sự săn sóc của cô Tư tôi. Cô Tư góa chồng, không có con, về ở với ông bà nội tôi từ bao giờ tôi không biết, nhưng từ khi có nhận thức tôi đã thấy cô Tư là người cai quản mọi chuyện trong nhà ông nội tôi. Nói cách khác, dưới mắt tôi, ngôi nhà ngói bên bờ sông Thu Bồn thuộc làng Đông Bàn đó cũng là nhà cô Tư. Bây giờ nhớ lại, tôi thấy việc tôi và anh Hiển tôi về Đông Bàn thời gian ấy là phải lẽ, vì sau cái tang bà nội tôi vào năm 1943, ngôi nhà ở Đông Bàn chỉ còn có ba người: ông nội tôi, cô Tư tôi và thằng Kề, một đứa bé giúp việc mà cô tôi mang về từ quê chồng ở Cẩm Toại, huyện Hòa Vang; trong khi đó nhà thầy tôi ở Bình Sơn sau khi mợ tôi mất thì khá lúng túng vì mọi sự cai quản trong cái nhà rất đông đúc phức tạp ấy đều do hai người con gái lớn là chị Ba và chị Cả tôi, chỉ mới ở tuổi mười lăm mười bảy.
Đông Bàn là một thế giới khác hẳn Bình Sơn. Nếu phủ lỵ Bình Sơn là một thị trấn ven quốc lộ hàng ngày rộn rịp xe cộ chạy qua, có sự buôn bán tấp nập, có trạm y tế, rạp hát, và một trường học khá lớn với nhiều thầy giáo từ xa được bổ tới, nói chung có nhiều dấu vết của nền văn minh thị thành trong thời Pháp thuộc, thì Đông Bàn là một ngôi làng cổ truyền thuần túy Việt Nam. Về sống dưới mái nhà ông nội, tôi và anh Hiển rơi vào sự cổ kính ấy. Phần giữa nhà là gian thờ, một nơi nhiều bí ẩn mà chúng tôi ít khi dám tới gần. Bên trên gian thờ có treo bức chân dung màu vẽ một ông mặc triều phục đầu đội mũ cánh chuồn tay cầm hốt, đó là ông cố chúng tôi. Vì ông tên là Thứ, cô tôi không bao giờ phát âm chữ thứ và dặn chúng tôi cũng phải kiêng chữ ấy. Để biết ngày trong tuần thì cô hỏi: “Bữa ni là thớ mấy vậy con?” Nửa nhà phía tây là giang sơn của ông nội tôi, với những thứ đồ dùng cổ xưa. Trên cây cột có treo một cái quạt lớn tôi chưa từng thấy, gồm một cái cán gỗ sơn đỏ dài độ nửa thước, rồi đến nan quạt là những lông chim rất to ghép vào nhau xòe ra làm thành một hình tròn đường kính gần một thước tây (sau này lớn lên đi nhiều nơi tôi cũng chưa thấy giống lông vũ nào mang bộ lông lớn như vậy – có người nói đó là lông đà điểu). Chỉ một vài lần vào những ngày nóng quá tôi thấy ông sai thằng Kề mang cái quạt ấy xuống ra sức quạt cho ông, tạo ra sức gió đi rất xa.
Ở chái tây, trên sát mái nhà có treo một cái cáng, gồm một cái mui che mưa nắng hình khum khum, một cái đòn dài có chạm trổ và một cái võng rất rộng. Khi di chuyển, người dùng cáng nằm trên võng, trên có mui che và hai người khiêng ở hai đầu cái đòn. Trong thời gian mấy năm ở Đông Bàn tôi chưa bao giờ thấy cái cáng ấy được hạ xuống để dùng – có lẽ vì người duy nhất sử dụng nó là ông nội tôi, năm ấy ông đã 80 tuổi, không còn muốn đi đâu nữa. Nhưng có một lần tôi thấy một cái cáng lạ xuất hiện ở ngay cổng nhà tôi, hai bên buông rèm kín mít. Hai người phu khiêng dừng ngay trước cổng nhà chuẩn bị cho người nằm trên cáng bước xuống. Khi rèm được vén lên thì tôi nhận ra người đi cáng đó là bà ngoại tôi, từ trên làng Quảng Huế huyện Đại Lộc xuống thăm nhà sui gia. Tôi và anh Hiển đã từng được đi Quảng Huế thăm bà và được bà rất thương yêu cưng chiều, thế nhưng khi bà xuất hiện trong cái cáng ấy, tôi thấy bà rất khác thường như từ một thế giới xa xôi nào hiện về, đầy vẻ sang cả xa lạ, và bí mật nữa, chứ không phải bà ngoại bình dị đầy yêu thương như tôi đã biết.
(Còn tiếp)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét