Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2020

Nguyễn Công Khanh: Đi Tìm Bản Sắc (Tiếp theo và hết)

Tối đó, anh trở về nhà, nằm thao thức không ngủ. Nghĩ đến ngày trở về quê hương, sao mà thấy khắc khoải; có lúc, biết bao nhiêu người đều muốn rời bỏ quê hương; "Ngay cả cái cột đèn nếu biết đi còn muốn bỏ nước ra đi", tự nhiên anh thấy thấm đau hơn. Anh nghĩ đến những đứa con anh đem đi từ bên kia Thái Bình Dương, và những đứa con của chúng sau này. Chúng sẽ là cháu, là chắt... của anh. Chúng có sẽ bị trận cuồng phong kéo đi mất hay không? Chúng có còn muốn giữ nguồn gốc không? Chúng có tìm được bản sắc của chúng không? Chúng có bị bỏ quên không? Chúng có bị nhìn lầm không? Chúng có thể hội nhập vào giòng sông chính mà vẫn tự hào về di sản của tổ tiên không? Chúng có còn muốn trở về quê hương Việt Nam không? Và khi chúng muốn trở về, những người bên nhà có mở rộng vòng tay như đón những đứa con, đón những người anh em lưu lạc từ bao năm hay không? Chúng có sẽ là một kẻ lạ trên chính quê hương của tổ tiên chúng hay không? Chúng có bị khinh thị, bị lạc lõng như con cháu của người di dân Nhật khi trở về Nhật hay không?

 

Ngay cả chính anh nữa, anh vẫn tin là anh vẫn không thay đổi so với ngày rời nước ra đi. Nhưng dầu sao đời sống vật chất cũng ảnh hưởng đến anh và mọi người không ít. Trong khi đó hình ảnh của anh và những người ở lại có còn giống nhau như trước ngày rã đám tan hàng hay không? Những cảm nghĩ của họ và của anh có còn giống nhau sau hàng mấy chục năm trời xa cách hay không? Đó là chưa nói đến những sự thù nghịch về chính kiến, những mối hận về tù đầy không hiểu đến bao giờ mới phai nhòa được.  

 

Anh không muốn nghĩ thêm nữa, và choàng dậy gọi điện thoại cho một người bạn. Người bạn này thân với anh hồi còn ở trung học, sau này thành giáo sư, suốt đời chỉ vùi đầu vào những chồng sách cổ.  Người bạn mà được anh coi như một cây tra cứu, mỗi lần anh muốn tìm dấu vết của các vấn đề cổ xưa. Sau khi sang đây, bạn anh vẫn còn say mê với cái thú đó; sách vở tàng trữ trong nhà ông ta như một cái thư viện nhỏ. Như một cái máy, ông ta trở ngược lại bốn ngàn năm. Từ cái thuở rồng tiên gặp nhau, đời Xích Quỷ, Kinh Dương Vương, gặp Long Nữ, từ dấu chân Bách Việt, Tây Tạng theo sông Hồng Hà đi xuống, từ Nam Dương vượt Biển đi lên... miên man bất tận đưa anh xuôi đường vào giòng lịch sử. Chắc cả đêm nay, nếu có chợp mắt được lúc nào, thì hồn ông ta sẽ bay bổng về thời Văn Lang, Hồng Bàng qua Đinh, Lê, Lý, Trần... hay lẩn quẩn bên các kệ sách trong phòng. Anh mong bạn, ngày mai đầu óc đừng có để đâu đâu, đến sở làm nhìn việc này ra việc khác thì phiền lắm.

 

                                                                                  *

 

Hai hôm sau, khi đi làm về, nghe tiếng điện thoại, anh chắc là của bạn. Khi anh vừa lên tiếng trả lời thì bạn anh bắt đầu ngay như một bài luận thuyết:

 

"Tôi muốn nói với ông điều này, trước khi đi tìm bản sắc cho con ông, cho cháu ông, cho chắt ông và cho cả ông nữa, để khỏi bị nhận lầm, để sống và có thể ngẩng mặt được ở xứ nầy, để có thể hòa hợp với bà con bên nhà được, thì phải bàn đến mấy vấn đề căn bản trước."

 

"Nói đến bản sắc thì phải nói đến văn hóa, văn hóa và bản sắc thường đi liền với nhau, văn hóa tạo ra bản sắc và bản sắc duy trì văn hóa. Cho nên phải biết bản sắc và văn hóa là gì. Còn tài liệu Việt Nam mà tôi nghĩ ông có thể tin cậy được là của hai học giả Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh.

Trước hết nói về văn hóa, xem Mỹ nó định nghỉa ra sao. 

 

Theo E.B. Taylor, một nhà nhân chủng học hiện đại trong cuốn Primitive Culture 1981: "Văn hóa là một tổng hợp hỗn tạp gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật lệ, phong tục và những khả năng khác cùng tập quán đòi hỏi ở một người để thành một phần tử của xã hội đó."

 

Theo James A. Bank, một nhà đa chủng học, trong cuốn Social Education 1983, đưa đến định nghĩa gần với bản sắc hơn:"Văn hóa là những giá trị, những biểu tượng, những cách sống, những định chế do con người tạo ra để phân biệt giữa những nhóm người này với nhóm người khác."

 

Theo học giả Đào Duy Anh, trong cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương 1938, trong chương "Văn hóa là gì?" ông đi đến một định nghĩa rất là giản dị và bao quát sau khi đưa ra các dẫn chứng:

"Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh hoạt."

 

Anh sợ bạn đi từ định nghĩa này đến định nghĩa khác, sẽ bỏ bữa cơm chiều. Anh định ngắt lời nhiều lần, nhưng không được. Bạn anh cũng hiểu ý và chận ngay: "Ông đã biết rằng một nền văn hóa được tạo thành cũng phải trãi qua hàng trăm, hàng ngàn năm . Khi nói chuyện về văn hóa và bản sắc mà ông vội vàng như thế làm sao thảo luận được. Ông cũng biết tạo ra con người thì dễ, nhưng cho con người đó có một bản sắc riêng biệt không phải là một chuyện trong thời gian ngắn.Phải biết kiên nhẫn, phải biết bắt đầu đi từ đâu, phải biết những gì mình cần bỏ đi và cần tìm thêm."

 

"Ông có biết văn hóa của chúng ta có những đặc tính gì không? Trong chương tổng luận cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, học giả Đào Duy Anh đã nêu ra năm đặc tính của nền văn hóa Việt Nam:

 

"Thứ nhất văn hóa lấy nông nghiệp làm nền móng.

Thứ hai lấy gia tộc làm cơ sở, cá nhân chìm trong gia tộc.

Thứ ba là an cư lạc nghiệp, ưa chuộng hòa bình, không muốn cạnh tranh.

Thứ tư là lưu tự, lưu truyền giòng giống, tiếp nối sự nghiệp tổ tiên.

Thứ năm là thường tồn, không thay đổi, quá khứ lẫn trong hiện tại.

 

Cũng theo học giả, năm đặc tính kể trên đã có một kết quả tốt trong cái xã hội nông nghiệp. Sau đó bị va chạm với nền văn hóa "động" của Tây Phương, của kỹ nghệ thì cái văn hóa "tĩnh" của chúng ta đã bị lung lay, không thể đứng vững được, mà phải biến đổi. Đến nay, ông thử nghĩ xem, không phải mình chỉ có va chạm, mà mình bị bật gốc, bị đem đi khỏi cái nền móng cũ, sống lạc lõng trong một xã hội kỹ nghệ, thành dân thiểu số trong đa số thì ông sẽ tưởng tượng mình sẽ phải ứng biến đến mức độ nào.Thôi tôi sẽ nói ngay về bản sắc và tìm cho ông hình ảnh của người Việt Nam mà ông muốn tìm."

 

"Nhưng ông có biết bản sắc được định nghĩa là gì không? Tôi có ba cuốn tự điển tiếng Việt trong nhà. Trong cuốn của hội Khai Trí Tiến Đức, tôi tìm không thấy. Cuốn của Lê NgọcTrụ và một số tác giả thì "Bản sắc là màu sắc tự nhiên của một vật, màu sắc tượng trưng tính chất của một sự việc, một người: bản sắc quốc gia, bản sắc nghệ thuật."

 

Trong cuốn Hán Việt Tự Điển của Nguyễn văn Khôn thì "Bản sắc là chân tướng "và "chân tướng là bản tướng tướng mạo thật". Những định nghĩa này thật sơ sài, có lẽ vì trước kia chúng ta sống trên đất nước của mình nên vấn đề này không được đặt nặng.

 

Hãy lấy một định nghĩa có tính cách khoa học hơn trong cuốn tự điển The American Heritage Dictionary thì chữ "Identity" là "Toàn bộ phẩm hạnh hay nhân cách mà một cá nhân được thừa nhận là phần tử của một nhóm người."

 

Ông đã biết những định nghĩa trên, thì đi tìm hình ảnh của người Việt Nam cũng không khó khăn lắm. Từ xưa, người Việt vẫn tin mình là giống dân Giao Chỉ. Lúc tôi còn nhỏ, khoảng 11 tuổi, họa hoằn tôi thấy được một vài dân quê ở miền Bắc có bàn chân mà hai ngón cái tỏe ra. Khi hỏi thầy giáo, thì được dạy đó là bàn chân Giao Chỉ, hai ngón chân cái giao với nhau. Ngày nay, chắc ít ai muốn có cái bàn chân nguyên thuỷ đó nữa; đó là một lẽ tự nhiên chẳng cần bàn. Tôi có tìm được một đoạn, tả về người Việt Nam trong cuốn Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim, nghe xong nếu có những điểm không ưa thì cũng đừng bất bình. Tôi cũng xin ông bình tĩnh để cùng nghe cả đoạn này để cùng suy ngẫm:

 

"Người Việt Nam thuộc về loại da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn hạ phong lưu ở trong nhà luôn thì nước da trăng trắng như màu ngà cũ. Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dầy, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà lại ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng điệu đi đứng thì nhẹ nhàng và xem ra vững chắc Áo quần thì dài rộng, đàn ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt thì đàn bà mặc quần và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy cũng hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác chế nhạo.Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật. Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma, tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

 

Đàn bà thì hay làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

 

 Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng, cùng giữ một kỹ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối nước." 

 

Đoạn văn trên của cụ Trần Trọng Kim đã tả người Việt Nam trước 1930 về phong diện, y phục và đủ các tính tốt và xấu. Đến nay, qua hơn nửa thế kỷ, người Việt đã thay đổi những gì? Sự dinh dưỡng có tốt hơn để thay đổi được tướng mạo không? Y phục thì đã gần như thay đổi hoàn toàn. Những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Tiết, Nghĩa, Cần, Kiệm có còn giữ được và phát triển thêm không? Các tính xấu có bớt đi hay đã tăng thêm?

 

Một điều ông phải lưu ý con người Việt Nam nói trên đã sống trong cái xã hội hoàn toàn Việt Nam, chắc không có nhiều sự so sánh lắm. Nay đem ra sống trong một quốc gia tạp chủng. Giữa đám người từ khắp nơi trên thế giới đến, thì sự so sánh và cái nhìn sẽ có nhiều khác biệt. So với các sắc dân tại Hoa Kỳ thì người Việt đã nổi tiếng về hiếu học, minh mẫn, lanh lẹ và trọng đạo đức. Có một vài tính xấu nếu đem ra so ở đây thì chắc cũng chẳng xấu lắm. Như quỷ quyệt thì chắc không thể nào so sánh với sự quỷ quyệt khoa học của dân tạp chủng. Tiếng Mỹ thì chưa thông, ngôn từ không đủ thì sao có thể chế nhạo, bài bác hay khoác lác với ai được. Cả đến "khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, thích danh vọng" thì có thấm vào đâu với các anh Mỹ nhà giàu quyền thế. Này ông bạn, ông có thấy rất nhiều người gửi đơn xin việc, được phỏng vấn, nhưng số đông được trả về vì quá lễ phép, quá khiêm tốn, đã không biểu lộ được cái khả năng thường nhật của mình, nói chi đến sự phô trương, khoác lác.

 

Ông có thấy, các tính xấu mà cụ Trần Trọng Kim gọi là cái xấu trong cái xã hội của mình nó đã không phát hiện ra bên ngoài xã hội Mỹ, mà phiền thay, nó vẫn lẩn quẩn trong cộng đồng chúng ta để đục phá lẫn nhau, để bài bác, kiêu ngạo, khoác lác, khoe khoang với nhau. Tôi nói những điều trên không phải muốn luân lý giáo khoa với ông. Nhưng để chứng minh một điều, mình mới đến đây, chưa có kinh nghiệm va chạm nhiều, nên trong vấn đề đi tìm bản sắc, hay trở về nguồn, những cái hay, tốt riêng biệt của người mình thì cố giữ. Nhưng trong những cái hay đó, không chắc mọi điều được coi là hay ở xứ này, mà mình cứ cố giữ thì cũng hoài công phí sức. Ngay cả cái dở của mình, chưa chắc nó đã hoàn toàn dở mà mình phải bỏ, có điều mình phải điều chỉnh làm sao cho thích hợp.

 

Theo ý tôi, đi tìm bản sắc không chỉ có nghĩa thụ động, để họ phân biệt được và nhìn mình là người Việt Nam. Tuy trong cái thụ động này, thật sự nó cũng đã có bao nhiêu cố gắng, yên lặng hay ồn ào để duy trì liên tục bản chất Việt Nam. Đi tìm bản sắc còn bao hàm ý nghĩa không những tự tồn mà còn phát triển cho từng cá nhân và cho cả tập thể liên hợp. Hiệp chủng quốc là một quốc gia tiến bộ không ngừng, thay đổi rất nhanh, đào thải những kẻ đứng lại, những kẻ đi ngược dòng. Cái khó khăn của chúng ta là phải vừa theo kịp nhịp độ của họ mà vẫn giữ được bản sắc của ta.

 

Trong vấn đề văn hóa và bản sắc tại đây, người ta thường đặt ra hai vấn đề: Một là đồng hóa, hai là thích hợp hóa. Đồng hóa được Weinstock S. Alexander trong cuốn Acculturation and Occupation 1969, định nghĩa như sau: "Đồng hóa là sự mất hết văn hóa và bản sắc nguyên thủy của một cá nhân hay một tập thể để bị thu nhập vào một nền văn hóa đang thống trị.

.

Người Việt chúng ta không ai muốn bị đồng hóa, mà dù có muốn cũng không được. Hãy đem đổ những hạt đậu trắng, đậu đen, đậu vàng vào một cái tô và trộn lẫn đến trăm lần, người ta vẫn có thể nhặt ra đậu đen, đậu vàng và đậu trắng riêng biệt. Những người dân da trắng từ Âu châu đến Hoa Kỳ, chỉ ít năm sau là họ trở thành Mỹ đặc. Còn chúng ta, dù trải qua bao nhiêu thế hệ, vẫn sẽ chỉ là những hạt đậu vàng trong tô đậu hỗn hợp trên mà thôi. Quốc gia Hoa Kỳ trước kia thường chủ trương và thúc dục mọi người đồng hóa (như một melting pot). Từ khi làn sóng di dân của nhiều quốc gia tràn đến, họ đã bắt đầu thay đổi một số quan niệm, và thêm vào đó là sự thích hợp hóa, và nay lại đề cao sự đa dạng của văn hoá (Salad bowl và Cultural Diversity)". "Gác bỏ sự đồng hóa, vấn đề của chúng ta ở đây là trong cái đám đậu vàng đó, mình không bị nhận lầm là người Tàu, người Nhật hay người Phi và làm sao để các sắc dân khác trọng nể mình.

 

Nói về thích hợp hóa, đó là sự diễn biến của sự học hỏi và điều chỉnh dần dần của các cá nhân sống trong một xã hội có những dị biệt văn hóa. Thích hợp hóa là cả một nghệ thuật sống của người di dân, nhất là di dân Á Châu. Những giá trị của đời sống, những định chế xã hội, những phong tục tập quán, đời sống văn hóa, ngôn từ ngôn tự, thực phẩm, y phục và phải nói đến cả văn chương nghệ thuật v.v... của cả hai nền văn hóa, chúng ta đều cần thấu hiểu cho cuộc sống mới, mà lúc nào cũng có thể giữ được bản chất đặc thù của mình.

 

Thích hợp hóa không phải là đem hai nền văn hóa trộn lẫn với nhau. Cũng không phải cố giữ mức thăng bằng điều hòa của hai đời sống Đông và Tây. Nó là cả một sự hỗn hợp của chiến lược, chiến thuật của trường kỳ và đoản kỳ, lúc tiến, lúc lui, lúc hòa, lúc phá, lúc thoát, lúc nhập... trong từng môi trường, trong từng hoàn cảnh, từng thời gian để nắm lấy phần ưu thắng, để ẩn mình an toàn và cũng để chung sức và chia sẻ hạnh phúc cũng như gian khổ với mọi người. Nó cũng không phải là một công thức cứng nhắc, cuồng tín hay khiếp nhược và tự mình phải đặt một lằn ranh cuối của mức lùi, mức mất và một lằn ranh không vượt quá để còn có thể thắng lại được... Nói đến người di dân tại Hoa Kỳ, nhiều người cho rằng mức độ đồng hóa càng cao thì càng có nhiều cơ hội thành công và cũng như thế mức độ thích hợp hóa càng cao thì mức độ của đời sống kinh tế và xã hội cũng thấy rõ rệt khá hơn.

 

Khi nghiên cứu về bản sắc, nó đem lại cho ta nhiều ý nghĩa. Con cháu chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi "Tôi là ai?", "Tại sao tôi lại phải đổi tên?", "Tại sao tôi lại là dân Mỹ?", "Tại sao tôi không phải là một kẻ tị nạn chính trị mãi mãi?". Đi tìm bản sắc không những nó cho thấy bản ngã của ta, mà nó sẽ đem lại cho ta những niềm tự kiêu hãnh và tự kính mến mình. 

 

Ông có nhớ Alex Haley, tác giả da đen nổi tiếng trong cuốn "Roots", và sau này thành một cuốn phim trường thiên chiếu đã trên các đài truyền hình không? "Ông đã mất bao năm lần mò về cội nguồn của mình. Từ bao thế hệ nông nô tại Mỹ, ngược dòng về bộ lạc tổ tiên ông trong rừng già ngày xưa. Ông đã đưa những hình ảnh từ ngày Kunta kinte, người thiếu niên, tổ tiên của ông sống tự do trong cảnh trời đất sơ khai, ngày bị sa lưới nhốt trong cũi. Những ngày bị trói và xếp như cá hộp trong hầm tầu vượt Đại Tây Dương khổ hơn kiếp súc vật. Ngày bị đem ra bán đấu giá, và những chuỗi ngày dài làm nô lệ trong các nông trại trồng bông miền Nam..."Alex Haley đã cho mọi người biết dù là dân da đen, dù bị làm nô lệ, họ vẫn có đủ các thiên tính của con người mà thượng đế đã tạo ra. Họ vẫn có đầy đủ các đức bao dung, nhân ái, tự trọng. Họ cũng ham muốn tự do và cũng đủ sức chịu đựng như Chúa đã chịu đóng đanh trên thánh giá. Cuốn "Roots" không những có giá trị về văn học mà nó còn giúp cho mọi người nhận chân được cội nguồn và phẩm giá của dân da đen. Nó cũng đã giúp phá bỏ được phần nào sự khinh thị và mặc cảm vẫn bao trùm lên giống dân của ông.

 

Nếu bản tướng, chân tướng là của một cá nhân thì bản sắc phải do mỗi người trong tập thể cùng có chung. Có bản sắc, như có một cái khiên, cái mộc để bảo vệ cho tất cả mọi người trong cộng đồng. Nhiều vấn đề, người ngoài họ phải e dè, nếu khi chạm đến một người, tức là chạm đến cả cộng đồng. Các cá nhân dù có sống đơn độc ở nhiều nơi, họ cũng được cái dù vô hình ấy che chở.

 

"Một điều quan trọng nữa cho tất cả người Việt Nam của chúng ta, trong vài ba thập niên nữa, nếu chúng ta không tìm ra được cái bản sắc chung, thì mấy triệu người Việt Kiều tị nạn hải ngoại trên khắp thế giới sẽ thành Việt Mỹ, Việt Gia Nã Đại, Việt Pháp, Việt Đức, Việt Anh, Việt Ý, Việt Úc... Và sau này còn cả một khối hàng trăm ngàn người trong nước xuất cảng lao động tìm cách ở lại, họ sẽ thành Việt Nga, Việt Hung, Việt Tiệp. Hàng ngàn cô gái nông thôn muốn thoát khỏi cảnh lầm than ra đi để lấy chồng ngoại quốc, họ sẽ thành Việt Hàn, Việt Đài Loan, và sẽ là Việt gì gì thêm nữa. Con cái của chúng ta tự hỏi có điều gì giữ họ ngồi được với nhau, có cái gì giúp họ nhận ra là anh em, đồng bào, nếu không chỉ còn là một đống sà bần không tên. Còn thêm nữa, với bao nhiêu dị biệt và văn hóa bên ngoài, bao nhiêu pha trộn làm sao có những điểm chung với những người Việt Nam trên quê hương mấy chục năm sau.

 

Chúng ta hãy nhìn những người di dân Trung Hoa. Với kinh nghiệm của họ, họ di dân không ngừng, họ định cư ở khắp thế giới, và trải qua bao nhiêu thế hệ, dù ở đâu họ vẫn giữ được hình ảnh của họ liên tục. Chợ Tàu như một điểm tựa, và quê hương như một hậu cứ khổng lồ vô biên. Hàng năm, mỗi lần lễ song thập, tất cả các đại diện Hoa kiều trên thế giới lại quay về họp mặt tại Đài Bắc, và họ vẫn còn nói thứ tiếng của tổ tiên họ. Còn chúng ta, không biết đến bao giờ mới có một ngày như ngày "Song thập" của họ trên quê hương ta.

 

Còn di dân Nhật Bản, họ là những người chịu nhiều sự đau khổ về bản sắc với quốc gia của họ nhất. Vì biến cố lịch sử của thế chiến thứ hai, chính phủ Mỹ đã cấm di dân Nhật, và cũng đương nhiên cắt đứt sợi dây liên lạc giữa họ với quê hương họ. Không phải họ không có tinh thần quốc gia, mà chính vì lòng quốc gia quá mạnh và cũng vì sự kỳ thị giai cấp quá nghiệt ngã của dân Nhật đối với những người cùng đinh di dân Nhật mà chính họ đã lãnh hậu quả khủng hoảng về bản sắc như vậy.

 

Tôi cũng đang lo ngại rằng khi mà hận thù vẫn chưa xoá mờ được, khi mà cách đối xử của chính quyền trong nước với người Việt tị nạn hải ngoại chưa thay đổi, thì tôi nghĩ rằng tình trạng sẽ cũng không khác gì cho các thế hệ sắp tới như những kinh nghiệm của di dân Nhật Bản tại Hoa kỳ, ngoại trừ cộng đồng Việt Nam hải ngoại  phải được xây dựng một cách vững chắc.

                                                   

Thôi, mọi chuyện cứ từ từ giải quyết, đây là một vấn đề trường kỳ và liên tục. Điều cần nhất là mọi người phải biết mình muốn cái gì? Muốn đi đến đâu? Muốn cái hình ảnh của con cái mình như thế nào ở cái thế hệ thứ hai, thứ ba...? 

 

                                                                           *

 

Anh bỏ điện thoại xuống. Bữa cơm tối cũng vừa xong. Anh bước ra bao lơn để cần một chút gió. Đêm đã xuống từ lâu, trên trời lờ mờ, lác đác vài ngôi sao. Đêm hè ở đây đã khác xa với vùng trời miền nhiệt đới. Anh nhớ lại những đêm hè ở quê hương, trời đầy sao vằng vặc, giải Ngân Hà rõ mồn một chạy ngang trời. Ngày còn nhỏ, anh thường cùng với anh chị em ngồi trong sân, ngửa mặt thi đếm sao, nhưng đếm chẳng bao giờ hết được, và chỉ ngưng khi tất cả đều mỏi cổ. Tự nhiên anh liên tưởng đến anh và mọi người ở đây, như đang đứng trong đêm tối, đang cùng nhau cố tìm một vì sao định hướng, chỉ đạo cho một cuộc hành trình lâu dài mới.

Mặt khác, anh thấy bao nhiêu điều phấn khởi khác hiển hiện tích cực ở nhiều vùng, như trong các tiệm sách, những tác phẩm cũ và mới, các tạp chí bằng tiếng Việt ngày một tràn ngập trên các kệ. Báo hàng ngày, hàng tuần ê hề được phát không trong các siêu thị. Những buổi trình diễn văn nghệ, giới thiệu sách mới, hội họp chính trị rạp không còn chỗ. Chùa chiền, nhà thờ không thiếu một nơi nào. Những bài kinh, những lời giảng vẫn bằng tiếng mẹ đẻ thuở xưa. Những Little Saigon như những nôi nuôi dưỡng và phát triển văn hóa cũng như bản sắc cho người Việt hải ngọai, không những chỉ có tính cách đặc thù cho Hiệp Chủng Quốc, cho các quốc gia khác có người Việt định cư, mà còn đối biệt với những gì đang xẩy ra trong nước. Thế hệ trẻ đang mạnh mẽ tiến vào chính trường Mỹ…

Nhưng sao nhiều người, trong nỗi hân hoan nhìn thấy con mình đang soải cánh bay về tương lai, thành công trong dòng sông chính, về kinh tế cũng như chính trị, vẫn băn khoăn thấy có một khoảng trống ngày càng cách xa với những hoạt động nói trên. Còn bao nhiêu tính chất Việt Nam trong con cháu họ, khi mà trình độ ngôn ngữ ngày càng khác biệt trầm trọng. Từ biết nói, đến biết đọc và hiểu được bài văn là một chặng đường xa, nếu không có ý chí và môi trường hỗ trợ. Có người đặt câu hỏi tiếng Việt có phải là một yếu tố sống còn để giữ gìn bản sắc, tinh thần cho các thế hệ sắp tới của người Việt hải ngọai hay không? Người già luôn luôn bị quá khứ kéo lại, người trẻ thì bị tương lai kéo đi, mà trong cái xã hội siêu kỹ thuật này sức kéo gia tốc ngày càng mạnh. Văn hóa Việt Nam bằng ngoại ngữ để truyền thông với các thế hệ tương lai vẫn còn yếu kém, chập chững, do dự. Những vấn đề của họ vẫn chưa có chỗ tương xứng trong chương trình nghị sự của cộng đồng. Tương lai chưa thăng bằng với quá khứ, và nhiều mục tiêu đã bị lãng quên.

Nhiều người cho rằng những hoạt động văn hoá, nhất là báo chí ồn ào hiện nay cũng sẽ chỉ là những âm ba sẽ lịm dần trong mảnh ao tù trong những thập niên tới, nếu không có gì nối được quãng đứt gián đoạn hiện nay với những thế hệ sắp tới vì ngôn ngữ và đó là lẽ đương nhiên tiến hóa trong lịch sử di dân của nhân loại.

Đó là chưa nói đến cái bản sắc nói chung cho người Việt hải ngọai khắp nơi trong cộng đồng thế giới với biết bao dị biệt. Họ sẽ được giáo dục, có văn hóa, và có tiếng nói khác nhau. Quê hương đáng lẽ phải là những điểm chuẩn chung để mọi người còn có một cái gì để noi theo. Đó là niềm kiêu hãnh, là tình tự dân tộc, là đạo đức chính trị, là văn hóa truyền thống, là đạo đức kinh doanh…, nếu không thay đổi, chỉ thấy cái thua kém thế giới bên ngoài, còn cố nuôi lòng thù hận, và ô nhiễm mọi mặt, thì có lẽ đã muộn rồi. Như đàn cá hồi khi ra biển rộng, lúc tìm đường về, nhưng cái tổ cũ đã bị phá bỏ, các kinh rạch cũ đã bị rác rưởi lấp kín, thì chắc là lại ra đi, về  vùng vẫy tự do ở vùng biển rộng trời cao.

Thế hệ tiếp nối của con cháu chúng ta rồi chắc cũng sẽ phải lần mò đi tìm bản sắc riêng cho mình hay tự quên đi để mặc trôi theo vào dòng sông chính nơi chúng sinh trưởng.

N.C. KHANH