Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020
Ngô Nhân Dụng (VOA Blog): Bịt miệng dân, có cần hay không?
Người phương Tây gọi cái đó là mặt nạ, mask. Người Việt gọi là “khẩu trang,” cái tên êm ái, nghe như một thứ đeo vào giúp cái miệng nhìn xinh đẹp hơn.
Giờ xin gọi nó là cái “che miệng!” Hay là cái “bịt miệng.” Nó là thứ người ta không thích nhưng vẫn phải đeo; đểngăn không truyền con virus corona trong phổi mình bay qua mũi người khác.
Khi loài virus corona mở cuộc tổng tấn công, nhiều người dân Mỹ đã phản đối chính quyền bắt họ phải “bịt miệng,” theo nghĩa đen.
Nhưng ở nhiều nước độc tài trên thế giới thì người dân đang “bịt miệng” theo nghĩa bóng, cũng vì con vi khuẩn corona.
Một người bị bịt niệng đầu tiên có lẽ là Bác sĩ Lý Văn Lượng. Ông nghĩ rằng bệnh nhân của mình mắc một căn bệnh lạ, một loài vi khuẩn mới xuất hiện. Ông hỏi ý kiến, trên mạng, trao đổi với một số đồng nghiệp. Nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc ra lệnh bịt miệng ông ngay. Bác sĩ Lý Văn Lượng phải công khai tự kiểm thảo, và im tiếng. Sau này Bắc Kinh phong ông làm “liệt sĩ,” gia đình được trợ cấp, giống như các người khác đã chết vì bệnh Covid 19!
Trung Cộng tiếp tục bịt miệng gần 900 triệu công dân mạng trong lục địa. Nhiều thông tin bị đục bỏ ngay khi xuất hiện trên mạng, nếu có những chữ như tên vi khuẩn Coronavirus hay tên Lý Văn Lượng. Giáo sư Thôi Vĩnh Nguyên, dạy Đại học Truyền thông ở Bắc Kinh bàn luận quá nhiều về bệnh Covid 19 với 20 triệu người theo dõi anh, cũng bị bịt miệng. Chương mục của anh trên Weibo, bị đóng cửa.
Các chính quyền độc tài khắp thế giới cũng ra tay bịt miệng những người có ý kiến khác họ, nhân cơn bệnh dịch Covid 19: Đóng cửa báo, cắt các chương mục trên mạng, hoặc bắt bỏ tù.
Nguyễn Văn Tuấn: Những cuộc xâm lăng mềm (đọc sách "Hidden Hand" của Clive Hamilton và Mareike Ohlberg)
Hai tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg mới xuất bản một cuốn sách nhan đề "Hidden Hand" (Giấu Tay). Cuốn sách là một công trình sưu khảo công phu về những cuộc xâm lăng và khuynh đảo của Trung Cộng vào hệ thống chánh trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, và truyền thông ở các nước phương Tây. Có thể xem đó là cuộc xâm lăng mềm, với tiền là phương tiện chánh. Đây là một cuốn sách hết sức thú vị, cung cấp rất nhiều thông tin mang tính mở mắt cho những ai quan tâm đến thời cuộc và sự ảnh hưởng của Trung Cộng trên trường quốc tế, kể cả Việt Nam. Bài điểm sách này sẽ điểm qua những nội dung chánh, và chia sẻ vài thông điệp chánh trong cuốn sách.
Ở Úc, tuần vừa qua xảy ra một biến cố chánh trị làm cho cuốn sách này trở nên tâm điểm của thời cuộc. Một thượng nghị sĩ Úc tên Shaoquett Moselmane (gốc Lebanon) bị cảnh sát xét nhà riêng sau một thời gian bị cơ quan tình báo Úc ASIO điều tra về những mối liên hệ giữa ông với đảng cộng sản Trung Cộng. Ông dân biểu đã là đối tượng được báo chí theo dõi về mối liên hệ giữa ông và đảng cộng sản Trung Cộng. Từ năm 2018, ông và người phụ tá là John Zhang (gốc Tàu) có những phát biểu ủng hộ nhà cầm quyền Trung Cộng và chỉ trích những chánh sách cứng rắn của Úc đối với Trung Cộng.
Báo chí Úc cho biết nếu chứng cớ từ cuộc điều tra đầy đủ, ông dân biểu này có thể bị truy tố ra toà về tội giúp cho thế lực nước ngoài can thiệp vào chánh trường Úc. Nếu bị truy tố thì đây là trường hợp đầu tiên trên thế giới về sự can thiệp của nước ngoài vào chánh trường địa phương. Những gì diễn ra trong trường hợp của vị dân biểu này có thể nói là rất phù hợp với những chiến lược gây ảnh hưởng của Trung Cộng trong các thể chế dân chủ ở phương Tây.
Chiến Tranh Lạnh
Từ điển tiếng Anh định nghĩa Hidden Hand là thế lực gây ra những tác động tiêu cực. Hidden Hand cũng có thể hiểu là những người ở vào vị trí quyền lực cao nhứt nhưng giấu mặt. Hidden Hand cũng có thể là một hội ái hữu kiểm soát một mạng hội kín, và những hội kín này thực hiện những mệnh lệnh của thế lực cấp trên. Thường, những người thực hiện mệnh lệnh không biết ai là người ra lệnh.
Có lẽ mượn ý nghĩa đó, nên hai tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg (H&O) đặt tựa đề cho cuốn sách mới là Hidden Hand [1] để mô tả những hoạt động của Đảng cộng sản Trung Cộng (CCP) nhằm lũng đoạn chánh trường phương Tây và thiết lập một trật tự thế giới mới theo ý tưởng của những kẻ điều hành CCP, mà người đứng đầu hiện nay là Tập Cận Bình.
Tại sao Hidden Hand? Thật ra, đây là cuốn sách nối tiếp cuốn Silent Invasion (Cuộc xâm lăng thầm lặng) công bố vào năm 2017 mà tôi có điểm sách [2]. Silent Invasion viết về những chiêu trò xâm lăng vào Úc của CCP, còn Hidden Hand thì viết về cuộc xâm lăng của CCP vào các nước phương Tây. Cuộc xâm lăng này diễn ra trên tất cả lãnh vực, từ chánh trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, gián điệp, đến văn hoá.
Cứ mỗi lần Mĩ hay Úc nêu những hành động hung hãn của Trung Cộng ở Biển Đông (hay bất cứ nơi nào trên thế giới), thì phía Trung Cộng đều cho viên phát ngôn than phiền rằng Mĩ dùng ngôn ngữ thời Chiến Tranh Lạnh, là khơi dậy chủ nghĩa McCarthy. Mới đây, trong lúc mối quan hệ ngoại giao giữa Úc và Trung Cộng hơi căng thẳng, viên phát ngôn Tàu cũng nói rằng Úc hành xử như thời Chiến Tranh Lạnh.
Ngoài miệng thì than phiền như thế, nhưng về thực chất thì Trung Cộng đã thực hiện Chiến Tranh Lạnh từ … 30 năm trước. Theo H&O, Trung Cộng sau thời chế độ Xô Viết sụp đổ tự xem mình bị vây hãm bởi các kẻ thù, và những kẻ thù này cần bị đánh bại và vô hiệu hoá. Để đánh bại kẻ thù, CCP đã phát động một cuộc Chiến Tranh Lạnh từ thập niên 1990!
Trong Lời nói đầu, tác giả cho biết nhiều người trong giới trí thức ở phương Tây đánh giá thấp hay bác bỏ sự đe doạ của Trung Cộng đối với nền dân chủ phương Tây. Hai tác giả cho rằng đó chính là lí do tại sao họ viết Hidden Hand. Nói cách khác, tác giả muốn 'giáo dục' những ai còn ngây thơ với mối đe doạ từ Trung Cộng.
Sách bao gồm 13 chương, bàn những vấn đề về sự vận hành và tổ chức của CCP, cách thức mà nó tranh thủ vận động trong và ngoài nước qua mạng lưới công an và gián điệp, các biện pháp kiểm soát hệ thống truyền thông, các chương trình lũng đoạn thông tin ở phương Tây, và ý tưởng thay đổi trật tự thế giới. Nội dung chánh của sách chỉ chừng 270 trang, nhưng phần tham khảo và bị chú chiếm 130 trang, chứng tỏ tác giả đã đầu tư rất nhiều công sức và thời giờ vào việc soạn thảo cuốn sách.
CCP và những người bạn
CCP đã xây dựng hẳn một mạng lưới ảnh hưởng trên đất Mĩ từ thập niên 1970. Họ có khả năng và đã mua chuộc rất nhiều kí giả, nhà khoa học, học giả, thậm chí chánh trị gia và những nhà vận động làm việc cho họ. Cả Joe Biden và Donald Trump đều xem mình là "bạn" của Tập Cận Bình. Dưới thời Obama, Mĩ đã đứng khoanh tay nhìn Trung Cộng xây dựng những công trình quân sự trên Biển Đông, vì Obama cũng đánh giá thấp mối đe doạ của Trung Cộng. John Bloomberg, ứng cử viên phó tổng thống Mĩ, cũng có thể xem là một người bạn thân của Tập. Chẳng những các chánh khách, mà gia đình của họ (như gia đình của Donald Trump, con rể Jared Kushner và con gái Ivanka Trump) cũng là bạn thương mại với Trung Cộng. Trung Cộng đã có những người bạn như thế giúp cho họ đạt được những mục tiêu dài hạn.
Nhưng đừng tưởng rằng Trung Cộng xem mọi người bạn như nhau. Đối với CCP, cái gì cũng được phân nhóm, và bạn bè cũng được phân nhóm. Phân nhóm để có chánh sách đối phó và đối xử. Đối với người ngoại quốc, CCP chia thành 4 nhóm như sau:
· Nhóm 1 là những người bạn. Đây là những người đồng ý với và ủng hộ chủ trương của CCP hết mình. Họ thường được trích dẫn trên hệ thống truyền thông của TC;
· Nhóm 2 là những người bạn có thể tin được. Họ thường là những người trong giới doanh nhân mà CCP có thể dựa dẫm vào, nhưng không thể tin tưởng;
· Nhóm 3 là những học giả và giới kí giả. Đây là những người yêu Trung Cộng, nhưng biết rõ những chiêu trò xấu và bẩn của cộng sản và CCP;
· Nhóm 4 là 'kẻ thù'. Đây là những người yêu Trung Hoa và văn minh Trung Hoa, nhưng ghét cộng sản. Đây là những kẻ mà CCP sẵn sàng bôi nhọ mỗi khi có dịp;
· Nhóm 5 là 'thờ ơ'. Đây là những người không biết và không cần biết về Trung Cộng. Trong cái nhìn của CCP, đây là những người có ích và có thể gây ảnh hưởng bằng cách mời họ xuất hiện trong các dịp lễ lạc để tạo ra ấn tượng tốt.
Trong một chương viết về cách CCP lũng đoạn các quan chức ngoại giao nước ngoài, H&O cho biết các đại sứ khi mới tới Trung Cộng, họ trước hết bị 'cách li' với các nhân vật cao cấp trong CCP. Sau đó một thời gian, họ sẽ nhận được tin nhắn rằng một quan chức cao cấp trong CCP muốn gặp họ. Mục tiêu là làm cho người được mời đến gặp cảm thấy mình 'đặc biệt', được tin cẩn, và có thể tiếp cận những thông tin mà người khác không có. Tuy nhiên, đó chỉ là một chiêu trò tâm lí để khai thác đối phương!
Khi cần đe doạ, Trung Cộng dùng ngôn ngữ mơ hồ, mù mờ, để cho đối tượng tha hồ đoán. Thật ra, đây là một chiêu trò của người cộng sản Tàu, vì sự mơ hồ có tác dụng gây sợ hãi nhiều người, và ai cũng có thể là những kẻ thù của chế độ.
Đảng và doanh nghiệp: hôn phối chánh trị
Trong chế độ Trung Cộng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đảng là một cuộc hôn phối chánh trị. Mối liên hệ giữa các cán bộ cao cấp trong đảng và doanh nghiệp diễn ra 2 chiều: cá nhân và chánh trị. Các cán bộ cao cấp trong đảng hoặc gia đình của họ đều đứng đằng sau hay có quyền lợi tài chánh với doanh nghiệp, và họ hưởng lợi từ doanh nghiệp. Trong mỗi doanh nghiệp cấp trung và lớn đều có chi bộ của CCP, và chi bộ chính là nhóm người định hướng, thậm chí điều hành, doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có cán bộ của đảng 'bảo trợ' thường làm ăn khấm khá, và họ được ưu tiên nhiều lãnh vực, kể cả đóng thuế ít hơn các công ti ngoài đảng. Công cuộc chống tham nhũng mà Tập Cận Bình phát động thật ra chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể đến các doanh nghiệp do CCP bảo trợ.
Có thể nói tất cả các nhân vật đứng đầu các tập đoàn lớn (như Alibaba, Baidu, Huawei, Tencent, v.v.) đều là đảng viên của CCP hay tỏ lòng trung thành tuyệt đối với CCP. Richard Liu (được xem là một Jeff Bezos của Trung Cộng) từng nói rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thành hiện thực trong thế hệ này. Xu Jiayin, một đại gia bất động sản tuyên bố rằng "tất cả những gì tập đoàn sở hữu là do Đảng cho". Đại gia kĩ nghệ nặng Liang Wengen thì cảm tính hơn khi nói "cuộc đời của tôi thuộc về Đảng".
Trong quan hệ doanh nghiệp nước ngoài, CCP còn cài đặt người vào các thiết chế kinh tế của Mĩ và Âu châu. Một trong những thiết chế mà CCP nhắm tới để gây ảnh hưởng là Wall Street. Trong chuyến viếng thăm Mĩ, thủ tướng Trung Cộng không tới Washington trước, mà đến New York, nơi mà ông có những cuộc hội kiến bận rộn với các nhân vật trong hệ thống tài chánh Mĩ. Những sếp của các tập đoàn lớn như JP Morgan, Merrill Lynch, Morgan Stanley, Dow Jones, Goldman Sachs, Citigroup, Bank of America, v.v. đều được tiếp đón trọng thị. Sau lần tiếp đón là hàng loạt hợp đồng thương mại trị giá tỉ USD được kí kết.
Nhưng CCP còn nghĩ đến thế hệ tương lai, và các thiết chế tài chánh Mĩ là mục tiêu. Câu lạc bộ công tử và tiểu thơ (princelings) là một nhóm trong chương trình này. Chẳng hạn như tập đoàn JP Morgan có một chương trình có tên là "Sons and Daughters Program" (nhưng các tập đoàn Mĩ lớn đều có những chương trình tương tợ) nhằm nâng đỡ các con cháu của các cán bộ cộng sản cao cấp từ Trung Cộng. Chẳng hạn như Goldman Sachs chỉ riêng năm 2013 đã có 25 con cháu cộng sản, trong đó có cả cháu nội của Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Merrill Lynch và Citigroup cũng có nhiều nhân viên là các công tử và tiểu thơ của CCP, kể cả con dâu của Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang). Morgan Stanley thì mướn con trai của Chu Dung Cơ (Zhu Rongji) và con gái của Chủ tịch của Ngân hàng Phát Triển Chen Yuan. Đây là những công tử và tiểu thơ đã hoặc đang theo học tại các trường hàng đầu của Mĩ. Có thể nói [chương trình] "Sons and Daughters Program" hoặc tương tợ là nơi ươm mầm cho thế hệ elite tài chánh tương lai của Trung Cộng.
Hoa kiều vụ
Hiện nay, có khoảng 50 đến 60 triệu Hoa kiều ở nước ngoài. CCP xem đây là một nguồn lực rất quan trọng trong chiến lược ảnh hưởng thế giới. Trong 3 thập niên qua, Trung Cộng đã có nhiều biện pháp và chương trình nhằm kéo những Hoa kiều về 'đất mẹ' bằng cách này hay cách khác. Một trong những tổ chức quan trọng nhứt của CCP là "Mặt Trận Đoàn Kết" (United Front), với nhiệm vụ chánh là quản lí Hoa kiều và cái mà họ gọi là "qiaowu" (Hoa kiều vụ). Hai cơ quan phụ trách việc hiện các chánh sách là Cục Người Hoa ở Nước Ngoài, viết tắt là OCAO (rất giống với "Uỷ ban Người Việt ở nước ngoài" của Việt Nam). Tuy nhiên, mạng lưới tổ chức thì phức tạp hơn nhiều so với những gì tôi mô tả (có thể xem trang 124-125 để thấy sơ đồ tổ chức nhằm khuynh đảo Hoa kiều).
Một số trong cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài trở thành không chỉ là những tiếng nói của CCP, mà còn một lực lượng đe doạ những ai dám thách thức sự đàn áp của Trung Cộng. Những thành viên của Pháp Luân Công bị xách nhiễu và đe doạ bởi những "Hoa kiều" ở New York là một ví dụ. Sinh viên gốc Duy Ngô Nhĩ nói về sự tàn ác của CCP cũng bị sinh viên Trung Cộng đe doạ. Một số Hoa kiều 'độc lập' (tức không dính dáng gì đến CCP) cũng bị đe doạ và cô lập. Ở Đức, sự lộng hành của các Hoa kiều thân cộng nghiêm trọng đến nỗi có Hoa kiều độc lập cho rằng họ xem Đức như là một sân vườn của đảng cộng sản Trung Cộng!
Một chiến lược của CCP và khuyến khích và hỗ trợ cho Hoa kiều tham chánh trong chánh trường địa phương, họ gọi chương trình này là "huaren canzheng" (Hoa kiều tham chánh). Qua chương trình này, CCP giới thiệu những ứng viên gốc Hoa nhưng thân cộng (dĩ nhiên) ra ứng cử cấp địa phương, bang, và thậm chí liên bang. Họ đã thành công đưa Hoa kiều vào những vị trí quan trọng ở Anh, Úc, và vài địa phương ở Mĩ.
Mạng lưới gián điệp: phi chánh thống
Các trung tâm gián điệp phương Tây thường chỉ tập trung vào những việc như đánh cắp tài liệu mật của chánh phủ và quân sự, bằng cách tuyển mộ những điệp viên hay cài điệp viên vào chánh phủ và cơ quan quân sự. Nhưng hoạt động gián điệp của Trung Cộng vượt ra ngoài biên giới truyền thống đó và bao gồm luôn cả đánh cắp thông tin mật từ các công ti kĩ nghệ, tập đoàn kinh tế, và cả tổ chức dân sự.
Hệ thống tổ chức gián điệp và tình báo của Trung Cộng phức tạp hơn nhiều so với các chánh phủ phương Tây. Ở cấp trung ương có 2 cơ quan tình báo quan trọng là Tổng Cục I (trực thuộc Bộ Công An) và Tổng Cục II (còn gọi là 2PLA, thuộc Bộ Quốc Phòng). Tổng cục I về chức năng thì tương đương với CIA và FBI cộng lại, nhưng còn có quyền lực chánh trị. Tổng cục II dùng nhà báo, học giả, và nhà ngoại giao làm bề mặt để hoạt động, và cũng có quyền lực chánh trị. Ngoài hai cục đó, Trung Cộng còn có những Cục khác như Cục 10 (lo các vấn đề ở nước ngoài), Cục 11 (liên quan đến các 'think tank', viện nghiên cứu), Cục 12 (lo về các vấn đề xã hội), v.v. Theo FBI, chỉ riêng Cục 12 đã thành lập hơn 3000 công ti làm bình phong cho những hoạt động gián điệp trên thế giới.
Các 'ổ' gián điệp Trung Cộng không chỉ tuyển dụng người trong nước, mà còn tuyển dụng người nước ngoài và áp dụng các thủ thuật tâm lí để gây áp lực đến nạn nhân. Vào thập niên 1990, cẩm nang của MI5 (cơ quan tình báo Anh) dành cho các doanh nhân làm ăn ở Trung Cộng có cảnh báo rằng không nên nhận những món quà quá mức, và cảnh giác với những lời tâng bốc tận mây xanh. Chiến thuật của tình báo Trung Cộng là làm cho nạn nhân mang nợ bằng những món đắt tiền hay mĩ nhân kế, để nạn nhân tự cảm thấy có nghĩa vụ phải đáp nghĩa. Hình thức đáp nghĩa có thể đưa nạn nhân vào vòng tay của các ổ gián điệp Trung Cộng.
Cục tình báo Úc (ASIO) cũng hay cảnh báo giới ngoại giao và doanh nhân Úc về những chiêu trò theo dõi của an ninh Trung Cộng. ASIO khuyên tất cả các thành viên trong đoàn không dùng charger điện thoại của khách sạn, không dùng bất cứ USB nào được cho làm quà, không bao giờ để máy tính cá nhân trong phòng khách sạn, v.v. Một hình thức hăm doạ khác là meinren ji, dùng hình ảnh của nạn nhân trong những tình huống khó xử (có khi là hình ảnh ghép, sửa) làm cho nạn nhân rơi vào vòng kìm toả của gián điệp Trung Cộng.
Truyền thông: "Họ của chúng tôi là Đảng"
Chương 9 của cuốn sách là một trong những chương thú vị, vì trong đó tác giả bàn về hệ thống truyền thông của CCP. Đây là chương 'mở mắt' cho nhiều người phương Tây, nhưng có lẽ chẳng làm ngạc nhiên ai đã quen với sự kiểm soát hệ thống truyền thông của đảng cộng sản. Nói ngắn gọn và ví von, tất cả nhà báo Trung Cộng chỉ có một họ duy nhứt: Đảng.
Ai cũng biết CCP kiểm soát hệ thống truyền thông một cách toàn diện, không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Sự trung thành của giới báo chí đối với CCP là tuyệt đối. Ban Tư Tưởng của CCP thường xuyên gởi chỉ thị cho tất cả các báo và đài mỗi tuần, hướng dẫn vấn đề gì cần được đề cập và đề cập như thế nào, ai cần được nhắc đến hay không nên nhắc đến, và hệ thống phải tuân thủ tuyệt đối; họ không có lựa chọn.
Nếu hệ thống truyền thông không tuân thủ, thì họ sẽ bị phạt. Hình phạt có thể chỉ là cảnh cáo, nhưng cũng có khi cả 'sanh mạng chánh trị'. Chẳng hạn như năm 2015, 4 kí giả Trung Cộng bị phạt vì họ đánh vần sai vài chữ trong bài diễn văn của Tập Cận Bình làm cho người đọc hiểu rằng Tập Cận Bình sắp từ chức. Trong cùng năm, một kí giả chuyên về tài chánh bị bắt vì anh ta công bố những con số thật (nhưng đối với CCP thì đó là những thông tin nguỵ tạo).
Ngay từ 1955, Mao Trạch Đông đã huấn thị cho Tân Hoa Xã rằng phải "quản lí toàn cầu", và phải "làm cho cả thế giới nghe tiếng nói của Trung Cộng". Thời của Mao thì Tân Hoa Xã tập trung vào việc tuyên truyền ở Á châu và Phi châu, nhưng dưới thời Tập Cận Bình thì cánh tay của Tân Hoa Xã vươn ra Âu châu và Mĩ châu. Tính từ năm 2009 đến nay, Tân Hoa Xã đã có 180 văn phòng ngoài Trung Cộng, với tổng hành dinh vùng đặt ở New York, Brussels, Hồng Kong, Moscow, Cairo, Vạn Tượng (Lào), và Mexico City. Từ 2010, Tân Hoa Xã có hẳn một kênh CNC World (cạnh tranh với CNN?) truyền tin bằng tiếng Anh đến thế giới.
Ngoài Tân Hoa Xã, Trung Cộng còn có tờ nhựt báo China Daily (tiếng Anh). China Daily được thành lập vào năm 1981, với sự giúp đỡ của nhựt báo "The Age" của Úc và tài trợ từ Chánh phủ Úc. Tờ China Daily nhận chỉ thị từ CCP qua Cục Thông Tin Quốc Gia để quảng bá quan điểm của CCP và thông tin từ Trung Cộng đến thế giới.
CCP còn tích cực huấn luyện kí giả từ các nước đang phát triển. Theo "Reporters without Orders" hàng vạn kí giả từ các nước nghèo (như Việt Nam) được Tân Hoa Xã tài trợ để tham dự các lớp tập huấn do Ban Tư Tưởng của CCP tổ chức. Những kí giả này sẽ là những "sứ giả" cho CCP và qua đó phát huy 'quyền lực mềm' của Trung Cộng.
Một chiến lược truyền thông khác của Trung Cộng có tên là "Mua tàu đi biển" (Buying a boat to sail the sea). Theo chiến lược này, Trung Cộng tung tiền ra mua cổ phần những tập đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây. Nếu mua không được, họ áp dụng chiến lược "Mượn tàu đi biển" ("borrowing a boat to sail the sea"), mà theo đó, Trung Cộng thương lượng với các tập đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây (như New York Times, Wall Street Journal, Washington Post, Daily Telegraph, Sydney Morning Herald, Le Figaro, El Pais) để thêm một phụ chương có tên là "China Watch" do China Daily sản xuất. Ngay cả tập san khoa học lừng danh Nature cũng có phụ chương chỉ dành cho Trung Cộng.
Trong khi Trung Cộng nâng cao nỗ lực quảng bá quan điểm của CCP ra nước ngoài, thì cái cơ chế này lại hạn chế, thậm chí ngăn chận, luồng thông tin từ ngoài vào Trung Cộng. Từ năm 2009 Trung Cộng đã chận hầu hết các mạng xã hội từ phương Tây (như facebook, google, twitter). Chỉ có mạng LinkedIn của Microsoft thì không bị chận vì LinkedIn sẵn sàng theo đường lối hay làm theo chỉ thị của CCP.
Nhưng CCP lại dùng mạng xã hội phương Tây để quảng bá các tin giả (fake news). Theo H&O, Trung Cộng có hẳn một đội quân dư luận viên (có tên là "Đảng 50 xu" hay "50 cent Party) vốn là những nhân viên trong hệ thống chánh quyền của Trung Cộng. Đội quân dư luận viên này chỉ có một nhiệm vụ duy nhứt là tung tin giả, đe doạ, và khủng bố những người nào có quan điểm khác với CCP. Mỗi năm, đội dư luận viên này tung ra 450 triệu bình luận trên các mạng xã hội phương Tây, với đa số là nguỵ biện và chửi bới, hay nói chung là 'misinformation'. Đối tượng của họ là Đài Loan, Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Năm 2019, Twitter phải khoá hơn 1000 tài khoản, và sau đó hơn 200,000 tài khoản mà họ nghi là do nhà nước Trung Cộng bảo trợ.
Chánh trị hoá văn hoá
Đối với CCP, văn hoá là một mặt trận, nên Trung Cộng rất quan tâm đến việc chánh trị hoá văn hoá. Tập Cận Bình không giấu diếm gì khi muốn CCP là chủ nhân, là bảo hộ nhân văn hoá Trung Hoa. Đảng cộng sản tự cho mình cái quyền phán xét cái nào là văn hoá chánh thống, và cái nào không phải là văn hoá Trung Cộng. Một ví dụ tiêu biểu là áo sẩm (qipao hay cheongsam) vốn được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Trung Hoa, nhưng thật ra nó có nguồn gốc từ Mãn Châu và được phụ nữ Trung Hoa mặc lần đầu vào những năm 1910. Trong thời Mao, áo sẩm được xem là trang phục của giới tư sản, nhưng gần đây thì nó được xem là một biểu tượng văn hoá của Trung Cộng. Và, CCP nhứt định dành quyền quảng bá áo sẩm, không có bất cứ một tổ chức tư nhân nào liên quan.
Dĩ nhiên, trong một xã hội mà CCP kiểm soát tất cả lãnh vực, thì văn học cũng không thể thoát khỏi vòng kim toả. Một ví dụ tiêu biểu là chủ trương và tầm nhìn của Hội Nhà Văn Trung Cộng. Hội này tuyên bố nhiệm vụ số 1 là "tổ chức các nhà văn học tập về chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng của Mao Trạch Đông, và lí thuyết của Đặng Tiểu Bình, và học tập đường lối chánh sách của đảng." Thỉnh thoảng cũng có nhà văn tự trọng xin ra khỏi Hội, nhưng đa số nhà văn thì muốn lưu lại trong Hội để hưởng phước lợi và có dịp đi nước ngoài để 'giao lưu' cùng các đồng nghiệp phương Tây.
Năm 2011, CCP lưu hành một tài liệu nhan đề "Culture Going Global", mà trong đó họ vạch ra những chiến lược để quảng bá văn hoá Trung Cộng đến thế giới, và CCP muốn dùng văn hoá để kết nối tất cả Hoa kiều ở nước ngoài. Một tập đoàn có tên là "Poly Culture" được ra đời vào năm 2000, và nhanh chóng trở thành một 'thương hiệu' trong giới elite phương Tây. Theo đánh giá của các chuyên gia phân tích, Poly Culture có giá trị 140 tỉ USD. Poly Culture còn là sân chơi của các công tử và tiểu thơ đỏ, là con cháu của các cán bộ thượng tầng trong CCP.
Hoạt động của Poly Culture rất đa dạng. Họ tổ chức hàng loạt chương trình hoà nhạc tại các hí viện lừng danh nhứt và lớn nhứt ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, v.v. Họ bảo trợ các cuộc triển lãm tranh ảnh về Trung Cộng, và thiết lập các viện bảo tàng quảng bá văn hoá Trung Cộng tại các nước phương Tây. Nhưng thay vì hoạt động văn hoá thuần tuý như là một phương tiện ngoại giao, thì Poly Culture lại đem chánh trị vào văn hoá và gây áp lực lên những nhóm mà họ bảo trợ. Ở Canada và Âu châu, họ ép buộc ban tổ chức triển lãm không được dùng hình ảnh của Pháp Luân Công, và những hình ảnh mà họ xem là có yếu tố chánh trị. Thế nhưng trớ trêu thay, họ lại chánh trị hoá triển lãm bằng những hình ảnh của Tập Cận Bình!
Khoa học và công nghệ
Có lẽ lãnh vực khoa học và công nghệ là món mà CCP thèm thuồng nhứt. Điều này cũng dễ hiểu, vì để hiện đại hoá đất nước, Trung Cộng cần đến nhân tài "knowhow" về khoa học và công nghệ. Để thu hút nhân tài, CCP đề ra kế sách "Ngàn Nhân Tài" (Thousand Talents Plan). Theo kế sách TTP, nhà khoa học sẽ được cung cấp tài trợ và cơ sở vật chất để làm nghiên cứu tại Trung Cộng. Số tiền tài trợ rất hấp dẫn, và dễ làm xiêu lòng những nhà khoa học đang bị khó khăn về tài trợ ở các nước phương Tây. Do đó, Trung Cộng đã thu hút hàng vạn nhân tài từ các nước phương Tây. Đa số những người tài này là các nhà khoa học gốc Hoa, nhưng chương trình Thousand Talents Plan còn tuyển cả giới khoa học không phân biệt quốc tịch.
Không chỉ tuyển dụng nhân tài về Trung Cộng, CCP còn tích cực đánh cắp kĩ thuật và dữ liệu khoa học từ các nước phương Tây, đặc biệt là Mĩ. Ỡ Mĩ, có khá nhiều nhà khoa học gốc Hoa, và một số giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống khoa học. Chẳng hạn như Bộ Năng Lượng (Department of Energy) có đến 35,000 nhà khoa học nước ngoài đang làm việc tại các trung tâm nghiên cứu (kể cả nghiên cứu về vũ khí), và trong số này có chừng 10,000 người gốc Hoa hay từ Trung Cộng. Qua các chương trình giao lưu, CCP dùng các nhà khoa học gốc Hoa ở Mĩ để thu thập dữ liệu khoa học đem về Trung Cộng.
Một số nhà khoa học đã trở thành nạn nhân của 'chương trình' đánh cắp khoa học này. Năm ngoái, trung tâm nghiên cứu và điều trị ung thư MD Anderson (Mĩ) phát hiện một số nhà khoa học gốc Hoa chuyển tài liệu cho Trung Cộng, và những người này đã bị sa thải. Năm nay (2020), một nạn nhân nổi tiếng khác là Giáo sư Charles Lieber (Đại học Harvard) bị FBI bắt vì có cáo buộc rằng ông được tuyển vào chương trình Thousand Talents Plan và nhận lợi lộc (lương 50,000 USD mỗi tháng [?] và chuyển giao công nghệ cho Đại học Công nghệ Vũ Hán) nhưng ông không khai báo với phía Mĩ về những hoạt động đó. Nhưng trong thực tế thì có hàng trăm vụ đánh cắp khoa học khác ít khi nào được đề cập trên báo chí.
Nhiều nhà khoa học Trung Cộng mang chức danh khoa học (giáo sư) sang các nước phương Tây để hợp tác nghiên cứu, nhưng trong thực tế họ là những sĩ quan quân đội cao cấp. Theo Alex Joske (một chuyên gia nghiên cứu về Trung Cộng), tính từ 2007 đến nay (2020), quân đội Tàu đã gởi ra nước ngoài hơn 2500 nhà khoa học nhưng thực chất là những sĩ quan cao cấp. Họ hợp tác tại các đại học hàng đầu của các nước phương Tây. Ở Úc, hai trường đại học được đề cập đến là Đại học New South Wales và Đại học Công nghệ Sydney.
* * *
Trong khi các chánh khách phương Tây đặt câu hỏi có phải họ đang ở vào thời Chiến Tranh Lạnh với Trung Cộng, thì Trung Cộng đã có câu trả lời từ 30 năm trước. Không chỉ có câu trả lời mà họ còn chủ động phát động một cuộc chiến tranh như thế dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua Hidden Hand, bạn đọc có thể thấy rõ những lãnh vực mà Trung Cộng dưới sự điều hành của CCP đã xâm nhập vào hệ thống các thiết chế chánh trị, kinh tế, khoa học và công nghệ, truyền thông, và văn hoá của các nước phương Tây. Gần như các nước giàu có như Mĩ, Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada, Úc, v.v. đều không 'thoát' khỏi sự xâm nhập của CCP. Do đó, câu chuyện về ông dân biểu Úc được đề cập trong phần đầu của bài điểm sách này chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm.
Đối với chúng ta, người Việt Nam, đọc cuốn sách này rất 'thấm' và học được rất nhiều điều. Nhìn những nước phương Tây bị ảnh hưởng, thì câu hỏi Việt Nam có bị ảnh hưởng hay không là câu hỏi thừa thãi. Thỉnh thoảng người nước ngoài đọc báo chí Việt Nam bắt gặp những danh từ mới như "Thế lực thù địch", "Quyền lực mềm", "Trỗi dậy trong hoà bình", hay tên của những cơ quan như "Tổng cục II", "Mặt trận đoàn kết", mà không biết đến từ đâu, thì cuốn sách này cho chúng ta một câu trả lời về xuất xứ: Trung Cộng.
Trong phần mở đầu sách, Hamilton và Ohlberg quan sát rằng giới kí giả và học giả khi mới tới Trung Cộng (qua những chuyến đi do CCP tài trợ) thường có ấn tượng rằng đó là một đất nước phát triển thần kì, với tốc độ phát triển kinh tế cao nhứt nhì thế giới. Họ kinh ngạc trước những công trình kì vĩ, những công nghệ chẳng thua kém gì so với phương Tây. Tuy nhiên, họ quên rằng các nước khác cũng phát triển như vậy, thậm chí còn cao hơn Trung Cộng. Họ cũng quên rằng CCP chính là thế lực làm cho Trung Hoa lạc hậu cả 1 thế kỉ. Họ ca ngợi rằng 700 triệu người Hoa đã thoát khỏi cái nghèo, nhưng họ quên rằng từ 1949 đến nay, chính CCP là thủ phạm làm cho hàng trăm triệu người Hoa nghèo đói.
Tóm lại, Hidden Hand là một cuốn sách hay và đáng đọc như cuốn trước (Silent Invasion). Có thể xem cuốn sách là một cảnh báo -- có lẽ hơi muộn -- về mối đe doạ của Trung Cộng đến trật tự thế giới do phương Tây lãnh đạo. Chiến lược "Một Vành Đai, Một Con Đường" mà Trung Cộng đang quảng bá, khi đặt trong bối cảnh chung, có lẽ chỉ là một con ngựa Troia mà thôi. Trong khi nhiều người vẫn còn rơi vào những "bẫy mật" của Trung Cộng, thì cũng có nhiều người trong giới trí thức phương Tây đã ngộ ra mối đe doạ và có những hành động ngăn chận. Cuốn sách này có lẽ sẽ giúp cho những ai còn thờ ơ (nhóm 5, theo cách phân loại của CCP) hiểu được những hình thức xâm lăng mềm, và hi vọng sẽ không rơi vào những cái "bẫy mật" được trải thảm bằng tiền.
___________
[1] Sách Hidden Hand của Simon Hamilton và Mareike Ohlberg, do Nhà xuất bản Hardie Grant phát hành vào tháng 5/2020. Sách có 402 trang, bao gồm 270 trang nội dung chánh và 132 trang bị chú và tài liệu tham khảo.
Tác giả Simon Hamilton là giáo sư về đạo đức công chúng (Public Ethics) thuộc Đại học Charles Sturt (Canberra). Tiến sĩ Mareike Ohlberg là một nhà nghiên cứu gốc Đức chuyên nghiên cứu về các chánh sách và ảnh hưởng của Trung Cộng.
Bùi Bích Hà: Thư gửi các con
Santa Ana ngày 16/6/2020
Con yêu quý của mẹ,
Mẹ vừa được đọc lá thư tâm tình của những đứa con tuyệt vời viết gửi người lớn trong mỗi gia đình người Việt di tản đang định cư khắp nơi trên đất nước Hoa Kỳ. Tuy không có tên con trong ban soạn thảo lá thư nhưng mẹ đoán con ít nhiều có cùng tâm cảnh với các bạn ấy nên cho phép mẹ nhân cơ hội này, được chia sẻ với con những suy nghĩ cũng canh cánh trong lòng mẹ bao lâu nay.
Lá thư được soạn thảo thật kỹ lưỡng, từng chữ, từng câu, được cân nhắc thận trọng, như thể các con đã tự kiềm chế mình rất lâu trước nhiều điều các con không chấp nhận nhưng các con muốn giữ hòa khí với ông bà, cha mẹ, họ hàng nên đã không lên tiếng. Có lẽ tình máu mủ và văn hóa lễ giáo tổ tiên để lại đã thành nếp, khiến các con biết cư xử chừng mực với người trên kẻ dưới, không nỡ làm cha mẹ lo buồn. Tốt nghiệp trung học, hầu hết các con đều chọn trường ở xa để có cơ hội chứng tỏ với cha mẹ là các con đã thực sự trưởng thành và có thể tự quyết định mọi việc trong đời mình. Các con có một bề ngoài để cha mẹ yên lòng, chắc không ngờ cha mẹ cũng có một bề ngoài để các con tin là các con đã nghĩ đúng về cha mẹ. Mẹ nói như vậy là vì cha mẹ đều có một thời tuổi trẻ như các con, ngày ngày cắp sách đi học, lễ phép thưa gửi ông bà nhưng cha mẹ cũng có những niềm riêng giấu kín, ít nhiều không còn đặt niềm tin kính tuyệt đối vào cha mẹ như những năm chưa biết tự mình suy nghĩ. Ngày nay, ở Mỹ, các con có tự do và cuộc sống nhiều thuận lợi hơn cha mẹ khi bằng tuổi các con ở quê nhà. Các con được thật sự tôn trọng trong một thế giới riêng tư đằng sau cánh cửa phòng luôn đóng khép, các con có một khoảng cách không cần che đậy với cha mẹ mà dường như nó chưa bao giờ làm các con bận tâm. Mẹ biết các con rất ghét hai chữ “Ngày xưa” (xin lỗi, mẹ không có chữ nào hơn) mỗi lần cha mẹ có dịp kể lại kinh nghiệm “Trứng khôn hơn vịt” của mình thời mới lớn để “ôn cố tri tân,” sống tốt hơn với các con ở thời đại này. Vì không ai trả lời được cái trứng có trước hay con vịt có trước nên thời nay, thực tế cho thấy câu ngụ ngôn nói trên có thể hiểu theo nghĩa đen. Ngày mới lớn, cha mẹ, nhất là mẹ, cũng có lúc ngột ngạt với tư duy của ông bà mà mẹ (có một chút hãnh tiến) cho là không bắt kịp đà tiến hóa của xã hội để có thể hiểu được mẹ, hoàn toàn không biết rằng nếu mẹ không vững vàng trên cái nền nhà cũ lâu đời là sự khôn ngoan của ông bà, mẹ sẽ vào đời bằng những bước chân chông chênh, vấp váp và nhiều thất vọng.
Mẹ vui mừng đọc lá thư tâm huyết, đầy tình người của hàng trăm tuổi trẻ không sống thờ ơ trong quãng thời gian vừa qua với quá nhiều biến động và quá nhiều vấn đề mà trái tim trong trẻo, khỏe mạnh của các con không thể bỏ qua, không thể không ray rứt, và sau cùng, lễ độ “tuyên chiến” với cha mẹ. Để tháo gỡ tình trạng bao lâu nay chúng ta sống với nhau
BBC Tiếng Việt: Vụ phi công Pakistan - 27 người làm việc tại Việt Nam ra sao?
Cục Hàng không Việt Nam cho biết, qua rà soát, Cục đã cấp chứng chỉ tại VN cho 27 phi công mang quốc tịch Pakistan, nhưng bốn hãng bay đều khẳng định không còn phi công Pakistan.
Cục Hàng không Việt Nam cho biết trong số 27 phi công Pakistan đã được cơ quan này cấp giấy phép và năng lực chuyên môn hiện có 12 người còn hiệu lực hợp đồng và 15 người đã hết hợp đồng hoặc do dịch bệnh đã về nước.
Trong 12 phi công ''còn hiệu lực hợp đồng'' từng có 11 người làm việc cho Vietjet, 1 người làm việc cho Jetstar Pacific.
Trong thông cáo báo chí gửi tới các cơ quan truyền thông, Vietjet khẳng định hiện không có phi công quốc tịch Pakistan hay được cấp chứng chỉ tại Pakistan đang làm nhiệm vụ bay.
"Ngay khi có thông tin từ phía Pakistan, Vietjet đã chủ động rà soát, và không phân công làm nhiệm vụ với các phi công thuộc diện cần hãng kiểm tra, đánh giá. Vietjet khẳng định hiện không có phi công quốc tịch Pakistan hay được cấp chứng chỉ tại Pakistan đang làm nhiệm vụ bay.
"Trước đó, trong tổng số 27 phi công Pakistan làm việc tại các hãng hàng không Việt Nam thì có 11 phi công làm tại Vietjet.
"Hãng đang phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước, nhanh chóng xác minh các thông tin bằng cấp của đội ngũ phi công, đảm bảo không phân biệt đối xử, công bằng cho tất cả đội ngũ lao động đang làm việc tại hãng, với mục tiêu cao nhất là an toàn cho mọi chuyến bay," thông cáo viết.
Trong đó, trường hợp phi công làm cho Jetstar Pacific thì hãng cho biết người này đã về nước từ khi dịch Covdi-19 xảy ra, hiện không còn ở Việt Nam và không bay cho Jetstar Pacific.
Theo báo Tuổi Trẻ, thống kê của Cục Hàng không Việt Nam, còn 1 phi công Jetstar Pacific đang làm việc, nhưng hãng khẳng định không có, là vì phi công Pakistan này đã về nước từ khi dịch Covdi-19 xảy ra, hiện không còn ở Việt Nam và không bay cho Jetstar Pacific.
Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2020
Lê Hữu: “Về ngang trường Luật”
Hình minh hoạ, ML |
Đường Duy Tân, chợ Bến Thành
Chân ai thả bộ còn in khóe cười
(thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn…Câu hát quen thuộc từng được nghe đi nghe lại trên các làn sóng phát thanh ở miền Nam một thời nào. “Nỗi buồn hoa phượng”, tên bài hát của Thanh Sơn, có thể xem là bài “tình ca học trò” tiêu biểu thuở ấy với sân trường phượng vỹ, với tiếng ve gọi hè, với những tà áo nữ sinh nhẹ bay trong gió và những lưu bút ngày xanh chuyền tay nhau của những cô cậu học trò dưới mái trường trung học mến yêu.
Cho đến một ngày kia, những “tình ca học trò” này bỗng trổ sang một nhánh khác; nói khác hơn, được “nâng cấp” thành những bài “tình ca sinh viên”. Không còn những “phượng thắm sân trường”, những “cổng trường vôi tím”, những “một thời áo trắng”… Sân trường trung học được thay bằng khuôn viên đại học, lớp học được thay bằng giảng đường, hình ảnh cô nữ sinh hay mơ hay mộng được thay bằng cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công (“Anh không chết đâu em”, nhạc Trần Thiện Thanh). Lần đầu tiên người ta nghe được những câu hát:
Trả lại em yêu / khung trời đại học…
Buổi chiều khuôn viên / mây trời xanh ngát… (“Trả lại em yêu”, nhạc Phạm Duy). Hay là:
Trần Doãn Nho: donotenter
Quãng mê lối sống tự nhiên, nhất định là vì chịu ảnh hưởng của ông nội. Ông từng sống một cuộc đời viên mãn, năm 86 tuổi, giã từ trần gian êm thắm, không quằn quại vì bệnh nan y, cũng không nằm liệt giường liệt chiếu hành hạ người thân năm này qua tháng khác. Trước giờ ra đi về một nơi vô danh nào đó, ông còn gọi con cháu đến, nhắn nhủ: tao sống lâu, sống khỏe là vì tao luôn luôn nương theo cái tự nhiên mà cư xử với cuộc đời.
Những năm đầu thập niên 1980, Quãng theo một phong trào không có bàn tay nhà nước sờ vào:“niệu liệu pháp”. Cái tập sách nhỏ, in ấn lem nhem vài ba chục trang đuợc chuyền tay nhau như một cứu tinh của thời hậu-30-tháng-tư. Trước hết, nó hợp thời: phòng bệnh và trị bệnh không cần thuốc. Nó hơi hướm triết lý: dùng chính mình để chữa bệnh cho mình. Nó giản tiện: có sẵn ngay trong người, không cần toa. Nó thích hợp với cái túi không tiền của mọi người, không sợ chạy vạy chợ đen chợ đỏ: miễn phí. Và còn đặc biệt hơn nữa: nó khoa học. Người ta bảo nước tiểu là chất thải độc hại. Sai! Này nhé, sách niệu liệu pháp dạy: nước tiểu bao gồm 95% nước, 2,5% là hỗn hợp các khoáng chất, muối, hormon và enzim, còn chất gây độc hại là urê chỉ chiếm có 2,5%, không đáng kể. Đã thế, cái lượng nhỏ xíu này, khi uống vào, thay vì hại, nó lại có lợi vì giúp thanh lọc và làm sạch các chất nhầy dư thừa trong cơ thể. Kết luận: nước tiểu hoàn toàn vô trùng sau khi bài tiết và lại có tác dụng khử trùng, có thể dùng nước tiểu để uống, súc miệng, rửa ráy bộ phận sinh dục, nhỏ mắt, nhỏ tai, xao bóp da, tóc….Nó trị nhiều thứ bệnh, kể cả ung thư. Thực đa dụng và đa hiệu hết biết. Một liệu pháp tuyệt vời dựa trên nguyên tắc “chu trình tự nhiên” xuất hiện trong thời buổi tiến lên xã hội chủ nghĩa khi người người không có tiền mua thuốc mà có tiền cũng không có thuốc để mua.
Quãng uống nước tiểu của mình rất chăm chỉ. Riết, đâm nghiện cái mùi vị khai khai của thứ chất lỏng vàng nhờ nhờ hứng từ cơ thể mình đựng trong chiếc chén nhỏ; ngày nào quên uống, nhớ. Thế mà bỗng dưng có ngày Quãng phát ngán, vả, cũng chả thấy bệnh hoạn gì, bèn âm thầm nghỉ. Tưởng thôi chuyện đã qua thì cho qua bỗng nhận được một tin lạ làm Quãng sửng sốt và bối rối. Số là người cô ruột của Quãng bị đủ thứ bệnh lặt vặt của một phụ nữ hơn mười lần sinh nở, có lần ngất xỉu giữa đường, bác sĩ tìm không ra nguyên nhân, bèn nghe lời Quãng, uống nước tiểu đều đặn, cho đến một hôm, bỗng nhiên, bà tìm thấy trong cái ly đựng nước tiểu của mình hàng ngày kiến ở đâu chen chúc bu vào tùm lum. Giật mình, bà đi bác sĩ làm xét nghiệm thì hóa ra, bà bị bệnh đái tháo đường. Tin buồn thành vui. Niệu liệu pháp đã giúp người cô phát hiện một thứ bệnh mà hồi đó ở Việt Nam không mấy người biết.
Phạm Viêm Phương: Phỏng Vấn Nhà Văn Cung Tích Biền (Kỳ 4)
Kỳ IV. Việc cầm bút, Cái-viết-ra, cũng là một Trả-Lời.
Sự cần thiết của việc nghiên cứu, phê bình trong văn học, tôi nghĩ rằng, “Một tác phẩm được một tác giả viết ra, mới là người đi... một chân rưởi, lúc được nhà phê bình ra tâm nghiên cứu, bình giải, là lúc đi đủ... cả hai chân. Độc giả đến với những tác phẩm lớn, cần một tầm cao tiếp cận, đều phải cần một ‘cây đèn bấm’. Đèn bấm ấy là nơi nhà phê bình”.
- Phạm Viêm Phương: Riêng ông, mấy năm rời xa Việt Nam có khiến ông hụt hẫng như bị cắt khỏi nguồn chất liệu sống như nguyên liệu không thể thiếu cho sáng tác (như thần Antaeus mất sức mạnh khi rời khỏi mặt đất của mẹ hắn là nữ thần Đất Gaia) không? Nếu có thì ông vượt qua cảnh này như thế nào?
Cung Tích Biền: Hỏi rằng “...rời xa Việt Nam có khiến ông hụt hẫng như bị cắt khỏi nguồn chất liệu sống như nguyên liệu không thể thiếu cho sáng tác...”, thì tôi chưa hiểu hết, hoặc có thể hiểu lầm, giữa “chất liệu sống”, và chất liệu “sống”.
Tôi hiểu, “chất liệu sống” là cái luôn xảy ra trong đời sống; chất liệu “sống”, cũng là những tương tác ấy, nhưng mình được trực tiếp tham dự không qua chế biến. Thịt sống là thịt chưa qua nấu nướng. Tiền tươi [sống], là tiền mặt đưa trực tiếp tay trao tay, không thông qua chi phiếu, hoặc chuyển qua trương mục ngân hàng của nhau. Chất lượng “sống”, là cái trực tiếp nhìn thấy, trực tiếp tham dự, không thông qua các hình thức kể lại, tường thuật hình ảnh.
Trong một thế giới “ảo” của hôm nay, mọi thông tin đều được toàn cầu chia sẻ trong từng phút giây, rất chi tiết, rất rõ thật qua từng lời nói, hình ảnh, từng con số. Tại Việt Nam, người hâm mộ có thể xem trực tiếp một trận bóng đá bên tận xứ Âu châu, Nam Mỹ, chỉ vài giây ngay sau khi trái bóng lăn trên sân. Bất kỳ một nơi nào trên trái đất cũng có thể theo dõi từng giờ con virút corona tác hành như thế nào, số người nhiễm bệnh, số người chết, thậm chí giá một cái khẩu trang nơi nào tăng cao nơi nào vẫn giữ nguyên giá bán. Bất cứ tình tiết, tình hình gì ở trong một nước, người nước ngoài vẫn có nhiều phương cách, phương tiện, kênh thông tin, để theo giỏi sát rạt. Như thế, người cầm bút chẳng mất đi đâu, “nguồn chất liệu sống, như nguyên liệu cho sáng tác...”.
Giáo Sư Đàm Trung Pháp [1]: Tại Sao Nhiều Học Trò Ngoại Quốc Viết Tiếng Anh Quá Kém?
Bài nói chuyện của tôi hôm nay với quý đồng nghiệp bắt nguồn từ bài viết mang tên What teachers need to know about language phổ biến vào mùa hè năm 2000 của Giáo sư Lily Wong Fillmore thuộc University of California at Berkeley và Giáo sư Catherine Snow thuộc Harvard University [2]. Đọc xong bài viết ấy, tôi thấy như nỗi ưu tư của chính tôi (và có lẽ của nhiều nhà giáo dục ngôn ngữ khác nữa) đã được hai tác giả nói dùm lên một cách rất hùng hồn. Bài viết ngắn gọn này của họ là lời cảnh tỉnh cấp kỳ cho nghề nghiệp chúng ta!
Hai vị giáo sư nêu trên nhận thấy hình như các học trò mà tiếng mẹ đẻ không phải là Anh ngữ càng ngày càng bị khó khăn trong việc học hỏi ngôn ngữ này. Có những em khi ghi danh học mẫu giáo được xếp loại “khả năng Anh ngữ hạn chế” và “13 năm sau đó” khi tốt nghiệp trung học vẫn thuộc loại “khả năng Anh ngữ hạn chế”! Ngay cả những em rất chăm chỉ học hành, thuộc đủ mọi sắc tộc, bất kể là sản phẩm của giáo dục song ngữ hoặc là của giáo dục ESL, cũng không chinh phục được Anh ngữ.
Những dữ kiện từ chương trình ESL của University of California at Irvine mới đây vẽ lên một hình ảnh bi đát: 60% các sinh viên năm thứ nhất đã rớt bài thi luận văn Anh ngữ tại trường này, và 90% của các sinh viên thi rớt này là người Á châu đã từng theo học ở Mỹ tối thiểu là 8 năm. Đó là các em học sinh đã tốt nghiệp trung học với hạng danh dự, đã từng học các lớp Anh ngữ cao cấp (AP English). Nhưng, khổ thay, khả năng viết tiếng Anh của các em cho chúng ta thấy các em không nắm vững được cú pháp thứ tiếng này chút nào! Đó là chuyện ở California. Còn ở Texas thì cách đây ít lâu tôi có nhận được một thư mời viết bằng thứ tiếng Anh thuộc loại vừa tả của một sinh viên gốc người Việt, nguyên văn như sau: “Do you always wanted to know what is the different between the Vietnamese and American culture? Do you always wondering why our parents thinking are so differences than we are? Than come to the Living Two Cultures Conference!” Đọc xong thư mời với những lỗi văn phạm khủng khiếp ấy, tôi chợt rùng mình [3].
Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2020
Trần Mộng Tú: KHALIL GIBRAN
![]() |
Khalil Gibran |
Khalil Gibran, thi sĩ người Liban. Ông sinh ngày 6 tháng 1 năm 1883 tại Syria-Balan, ông mất 10 tháng 4 năm 1931 (48 tuổi) tại New York - Mỹ. Ông nổi tiếng trong hai tác phẩm thơ: The Prophet và Broken Wings.
The Prophet được phổ biến và nổi tiếng trong những năm 1930 và một lần nữa trong trào lưu chống văn minh xã hội vào những năm 1960.
Khalil Gibran là một trong ba nhà thơ có sách bán chạy nhất của mọi thời đại cùng Shakespeare và Lão Tử.
Trần Mộng Tú chuyển dịch hai bài Thơ nổi tiếng của Thi Sĩ trong The Prophet, mà hầu hết người yêu Thơ đều đã đọc qua.
Hôn Nhân
Hãy yêu nhau hôm nay và mãi mãi
Ở bên nhau cho tới ngày thinh không Chúa gọi
nhưng chúng ta sẽ không trói buộc nhau
tình như gió nhởn nhơ ca hát
giữa khoảng cách hai ta
không một vướng mắc nào
Cho nhau trái tim
nhưng đừng cất giữ
đừng biến nhau thành sở hữu riêng tư
hồn là bờ bãi
tình yêu là biển
hãy để biển luân lưu hạnh phúc
giữa hai bờ.
Ta sẽ rót cho nhau đầy chén rượu
nhưng này em ta chẳng uống chung ly
*Song Thao: Mũ Áo Xênh Xang
Năm nay các cô các cậu ra trường không vui. Vì dịch bệnh, họ không được xênh xang mũ áo lãnh bằng trước bá quan thiên hạ. Xứ sở này người ta chuộng học vấn và tri thức. Cứ xong một cấp học là ồn ào tổ chức lễ ra trường, mũ áo đủ bộ, hoa hoét tưng bừng. Kể cũng hay và vui. Đây là một cách khuyến khích các cô các cậu chú tâm học hỏi. Vui nên phớt lờ truyền thống. Truyền thống là mũ áo ra trường chỉ dành cho các sinh viên đại học. Nhưng truyền thống đôi khi cũng phải theo thời, nói vậy nghe bù trất. Đã truyền thống thì cứng ngắc, chẳng cựa quậy chi được, theo thời sao đặng. Thời nay vui là chính nên ra trường trung học, tiểu học và ngay cả mẫu giáo, nhà trẻ cũng mũ áo như ai.
Cháu tôi, ra trường mẫu giáo, cô giáo cũng làm cho chiếc mũ vuông bằng giấy, mỗi đứa một màu, ăn uống, chụp hình tíu tít, cứ như đã thành ông nghè bà nghè hết. Về nhà, chiếc mũ vẫn trên đầu, nhất định không gỡ ra, ngồi lê la chơi dưới sàn nhà, tạo nên một loại nghè ngây ngô.
Các buổi lễ ra trường năm nay cũng…ngây ngô. Ra trường ảo với bằng thiệt. Nhật báo Người Việt ra ngày 10/6/2020 có bài báo nhan đề: “Học Sinh Gốc Việt và Lễ Tốt Nghiệp Online: Những Nỗi Buồn Giấu Kín” của ký giả Đoan Trang viết về nỗi buồn đa dạng của con em chúng ta.
Trò Caitlin Tô kể ra một nỗi buồn: “Tuần trước, trường của con gửi email cho học sinh đến trường để lấy áo và nón đem về chụp hình cho ngày tốt nghiệp. Nhà trường dặn tụi con quay video lại, rồi gửi cho hiệu trưởng. Tới ngày Thứ Sáu, 12 Tháng Sáu, khi trường tổ chức lễ tốt nghiệp trên YouTube, tụi con vào xem, khi đó hiệu trưởng đọc tên ai, thì họ sẽ chiếu video mà tụi con gửi tới.”. Ra trường ảo như vậy, buồn thiệt. Em Caitlin tâm sự tiếp: “Ồ, con thấy buồn lắm, mấy bạn con cũng buồn. Con và mấy bạn nói với nhau, mình chờ đợi ngày này suốt 13 năm rồi, bây giờ đến ngày ra trường, không có bạn cùng ngồi bên cạnh, không có ba mẹ đi cùng, không được đeo dây, rồi đi lên bục để nhận giấy tốt nghiệp.”.
Phạm Viêm Phương: Phỏng Vấn Nhà Văn Cung Tích Biền (Kỳ 3)
KỲ III
“Trên hành trình sáng tạo, nhà văn không chỉ thấy chiếc bóng của những thực thể hữu hình, sản phẩm của ánh sáng, mà là cả chiếc bóng vô hình, linh hồn của vạn vật”.
Phạm Viêm Phương: Sau biến cố 1975, phần lớn nhà văn đã thành danh thời Cộng Hòa ở lại trong nước đã bỏ bút. Riêng ông cầm bút trở lại, sức viết lại sung mãn hơn xưa. Xin ông cho biết vì lý do gì?
Cung Tích Biền: Bất cứ vì lý do gì, một nhà văn khi còn sức viết mạnh mẽ, mà không thể viết được nữa là một bất hạnh. Khi “Không còn được viết nữa”, vì những lý do áp bức, cường quyền, vì chữ-nghĩa-bị-gông-cùm, ta phải cố mà thoát khỏi cái bất hạnh ấy.
Trong hoàn cảnh một Việt Nam Hôm nay, một nhà văn khi còn sức viết mà không được viết, chỉ là bất hạnh thứ nhất. Nếu anh buông xuôi, chữ nghĩa anh sẽ chết, anh đành phải sống, trong thảm cảnh chết dần. Nếu anh viết tiếp với lòng trung thành, nhân văn, với cái gan nói ra sự thật, bất hạnh sẽ được nhân đôi. Đó là sự trừng trị từ phía nhà đương quyền.
Anh bảo rằng ngòi bút tôi sung mãn, sâu sắc, về sau?
Chính một giai đoạn lịch sử cuồng nghịch, xã hội con người dần biến ra một nhung nhúc tử thi, xú uế tối tăm, chính đó, đã tạo ra cho mỗi con người một sức bật mạnh mẽ để thoát ly.
Mỗi thoát ly một tính cách biểu hiện. Có người dương khẩu hiệu, cầm đao kiếm. Tôi là nhà văn, tôi trút vào chữ nghĩa. Chữ nghĩa, cũng là một loại thuốc nhuộm màu cho tâm cảm, tâm thức con người.
Phạm Viêm Phương: Nhưng vì sao ông cầm bút trở lại vào năm 1987 mà không là sớm hơn hay muộn hơn?
Võ Phiến: Ăn Và Đọc
Thỉnh thoảng chúng ta gặp ở tiệm một vài người Mỹ ngồi ăn phở. Có người cầm đũa khá thạo. Trong số một đôi triệu người Mỹ luân phiên đến xứ này rồi ra đi, những kẻ tò mò tiến xa vào nếp sống Việt Nam tới mức ấy chắc không lấy gì làm nhiều. Các kẻ ấy trở về nước, giữa dăm ba câu chuyện ly kỳ về đất Việt xa xôi kể với bạn bè, có thể múa biểu diễn cặp đũa, có thể nói đến cái mùi lạ lùng của rau quế vừa ăn vừa ngắt từng lá bỏ vào tô phở, đến cái vị ngộ nghĩnh của những tép củ hành nhúng trong nước dùng vớt ra với chỏm lá xanh xanh v.v... Như thế là vượt xa quá những khuôn sáo, những chỗ gặp gỡ thông thường của các du khách rồi. Du khách Tây phương nói về món ăn Việt, bất quá gặp nhau ở món nước mắm, rồi thôi.
Vậy những người Mỹ hiếm hoi nọ đáng khen, về sự hiểu biết rộng rãi.
Tuy nhiên từ chỗ biết ăn phở cho đến cái trình độ am hiểu các đặc điểm, các sở trường sở đoản của từng thứ phở bò, phở gà, phở nước, phở áp chảo, phở tái, phở chín, phở nạm, phở gầu, phở sụn v.v..., còn nhiều cách biệt. Rồi từ chỗ thạo phở cho đến cái tâm tình về phở như của Nguyễn Tuân, lại còn một tầng cách biệt nữa. “Nắm vững” một món ăn — chỉ một món thôi — đâu phải dễ.
Thật vậy, không cứ là khách ngoại quốc, ngay đến người Việt Nam không phải ai cũng bưng tô phở mà ăn như nhau, với những cảm tưởng giống nhau. Một nông dân ở thôn ấp nào đó ngoài Phú Yên, Quảng Ngãi v.v... ăn phở Bắc cũng như ăn hủ tiếu Mỹ Tho, cũng như ăn mì Tàu, nghĩa là hững hờ. Còn người nông dân ở Cà Mau, Rạch Giá v.v... chẳng hạn có thể có sự thiên vị bất lợi cho phở. Người Việt miền Nam chỉ hoan hỉ chấp nhận món phở sau một vài canh cải, tức sau khi đã trút vào tô phở được non nửa dĩa giá sống.
Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020
Trần Văn Chánh: Nhà Đương Cuộc Cộng Sản Việt Nam Không Phạm Sai Lầm Và Cũng Không Đổi Mới
Khoảng 20 năm nay, tôi đã viết hàng trăm bài đăng trên các báo chí công khai trong nước (kẹt lắm không đăng đâu được mới phải gởi lên mạng internet vài ba bài), phần nhiều thuộc loại chính luận, liên quan đủ mọi vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng, theo hướng phê bình góp ý thẳng thắn cho các nhà đương cuộc với ước mong đất nước Việt Nam chúng ta ngày một khá hơn và người dân lao động bớt phải lao đao lận đận trong một trong một xã hội tiếng là xã hội chủ nghĩa nhưng đầy rẫy bất công mà hố ngăn cách giàu nghèo ngày một thêm giãn rộng, các hiện tượng tham nhũng tiêu cực ngày một thêm gia tăng, tội ác và đạo đức xã hội xuống cấp như lao dốc đến mức vô phương cứu chữa!
Trong khi vận dụng ngòi bút một cách đầy thiện ý như vậy, tôi đã cố ý không dùng tới chữ Đảng (hay Đại hội Đảng, Nghị quyết Đảng. Điều lệ Đảng…) vì không muốn trực tiếp đụng chạm vào cái gọi “vùng cấm”, một thứ cấm kỵ vô hình không có văn bản pháp luật quy định mà ai muốn góp ý gì cũng phải liệu hồn! Và để tránh dùng chữ “Đảng” vốn mang một hàm ý đỏ hoét và dữ dội, tôi đã phải thay thế bằng một số từ ngữ nghe nhẹ nhàng hơn, như Nhà nước, Chính phủ, hoặc “nhà cầm quyền”, “nhà đương cuộc”, “nhà chức trách”, hoặc lịch sự hơn nữa là “những người có trách nhiệm”…
Tôi chỉ là một phần tử quá bé nhỏ, một công dân không chức vụ, cùng lúc và song song với tôi còn có hàng trăm, hàng ngàn vị nhân sĩ trí thức, cán bộ công nhân viên chức nhà nước và thường dân, họ cũng tận tình góp ý vì được nhà cầm quyền “của dân, do dân, vì dân” khích lệ, mục đích là để góp phần đổi mới diện mạo đất nước về các mặt chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội…. Nhưng sau nhiều chục năm tỏ bày trung thực chính kiến đủ kiểu đủ nơi, mọi người đều cảm thấy rõ ý kiến của mình dường như lạc lõng vô vọng trước sự lúng túng bất lực của cái tổ chức thành trì xơ cứng có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện đất nước, vì những điều gì cần được khắc phục thì trái lại chỉ có tăng thêm hoặc biến tướng một cách thiên hình vạn trạng (như nạn đặc quyền đặc lợi, chạy chức chạy quyền, tham nhũng hối lộ, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, nhiễm độc thực phẩm, bằng dỏm bằng giả, gian lận thi cử…), số cán bộ cấp cao vào tù ngày một đông thêm, tệ nạn xã hội không giảm… Giả định đem tất cả những điều mọi người góp ý phân loại ra gom lại thành sách, thì cũng phải trên chục ngàn quyển dày cộp, phải xây một thư viện “dân ý” rộng bằng thư viện quốc gia chứa cũng không đủ!
Mỹ Hằng - BBC News Tiếng Việt: Vụ Repsol - Phía sau hàng trăm triệu đôla VN phải đền bù là gì?
Ngoài việc phải đền bù công ty dầu khí Tây Ban Nha Repsol một khoản tiền khổng lồ, chính phủ VN đang đứng trước thách thức đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng trong nước và sự e dè của các đối tác năng lượng nước ngoài.
Repsol mới đây đã chính thức nhượng lại cho PetrolVietnam cổ phần ba lô dầu, trong đó có dự án Cá Rồng Đỏ, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của VN vốn đã bị đình trệ ba năm nay, do sức ép từ Trung Quốc.
Bình luận về động thái này với BBC News Tiếng Việt, TS Bill Hayton, nhà nghiên cứu Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, đồng thời là phóng viên BBC News từ Anh quốc, cho hay:
"Việc này chứng tỏ TQ đã thành công trong việc đe dọa VN để gây áp lực buộc Repsol ngừng khoan dầu."
"Việt Nam duy trì các quyền của mình về lý thuyết nhưng không thể thực hiện các quyền ấy trên thực tế."
"Nó không có nghĩa rằng Việt Nam đã từ bỏ các quyền của mình nhưng có vẻ như Việt Nam không thể tiếp tục [thực hiện các quyền này] một mình."
Các công ty dầu khí quốc tế 'cẩn trọng' hơn với thị trường VN?
TS Bill Hayton nhìn nhận rằng sự việc xảy ra với Repsol đang khiến các công ty dầu khí khác cẩn trọng hơn khi đầu tư vào các khu vực dính dáng tới Trung Quốc. Ông nói:
"Các công ty dầu khí quốc tế có vẻ đang cẩn trọng hơn rất nhiều, đặc biệt là ở các khu vực gần với, hoặc cắt qua, đường chín đoạn của Trung Quốc.
Lê Mạnh Hùng: Sách của ông Bolton không làm người ủng hộ TT Trump thay đổi
![]() |
Cuốn sách của ông John Bolton không tạo ra một chấn động nào... (Hình: Justin Sullivan/Getty Images) |
Tuần này tôi nhận được hai cái email từ nhóm thân hữu những người bạn đồng trường. Một anh hỏi anh kia về cuốn sách của ông John Bolton và được anh kia trả lời rằng anh không thèm đọc, cùng xỉ vả thêm ông John Bolton là đồ “ăn cháo đái bát.”
Điều này làm tôi suy nghĩ. Trong một trường hợp bình thường, việc xuất bản một cuốn sách như của ông John Bolton có thể nói là sẽ tạo ra một chấn động. Trong cuốn sách “The Room Where It Happened,” hết trang này đến trang khác ông Bolton mô tả một vị tổng thống có một sự dốt nát đáng ngạc nhiên, thiếu khả năng và cả đến công nhiên hủ hóa trong việc điều hành chính sách ngoại giao của mình.
Ông Bolton, một người Cộng Hòa và bảo thủ chân chính còn đến cả biện luận rằng những người Dân Chủ đã quá dè dặt trong việc đàn hạch ông Trump. Đó là bởi vì ông Trump theo ông Bolton thường xuyên đặt quyền lợi chính trị của mình lên trên quyền lợi của quốc gia trong việc thực hiện chính sách ngoại giao.
Trần Anh Tuấn: Bắt 6 người một ngày - “vào trước bắt sau”?
Có lẽ cái câu “vào trước bắt sau” của ông Phạm Chí Dũng chưa bao giờ lại phản ánh đúng thực trạng của Việt nam đến như thế. Hiệp định thương mại đã có trong tay, phía Hà nội cho rằng họ muốn bắt bớ ai, vi phạm nhân quyền ra sao cũng được.
Đâu phải tự nhiên thành những người đấu tranh?
Gia đình bà Cấn Thị Thêu trở thành những dân oan mất đất từ năm 2008 khi chính quyền đền bù đất cho dân với giá rẻ mạt chỉ vài ba trăm nghìn một mét vuông. Sau khi phân lô bán nền, giá đất được rao bán với giá 31 triệu đồng một mét vuông.
Không chấp nhận bất công, gia đình bà Cấn Thị Thêu cùng dân oan Dương Nội đã bước vào một cuộc chiến không cân sức với nhà cầm quyền. Hai vợ chồng bà Thêu cùng bị bắt và bị kết án 15 tháng tù, với tội danh 257 Bộ Luật Hình Sự về tội chống người thi hành công vụ năm 2014.
Bà Cấn Thị Thêu lại bị xử 20 tháng tù giam vì tội “gây rối trật tự công cộng” tháng 11 năm 2016. Tại phiên xử phúc thẩm, bà Thêu đã nói: “Đảng cộng sản Việt Nam là đảng phản bội lại nhân dân và đất nước, là một đảng phái hèn với giặc, ác với dân. Ở Việt Nam không có công lý, công lý chỉ là tên của một diễn viên hài”.
Thứ Năm, 25 tháng 6, 2020
Từ Thức: Giới hạn của sự chịu đựng
Những người như bà Tâm, gia đình bà Thêu, bắt họ rất dễ, dễ hơn mang quân ra Tư Chính, Hoàng Sa chống xâm lăng, hay vác đơn khiếu nại mất đất, mất biển đảo lên toà đại sứ Tàu. Nhưng chụp mũ họ rất khó. Trong khi truyền thống của cộng sản là chụp mũ cho nạn nhân, trước khi bỏ tù hay khai tử.
Không thể chụp cho họ cái mũ “ba que”: họ là nông dân, sinh ra, lớn lên trong lòng chế độ.
Không thể chụp cho họ cái mũ Việt Tân: họ không thuộc một tổ chức nào, không đòi lật đổ ai.
Không thể gán cho họ tham vọng chính trị: họ chỉ mong yên thân, cày cấy trên ruộng vườn của chính mình.
Họ chỉ là những người dân còn lương tri để nổi loạn trước những bất công trước mắt.
Bắt họ rất dễ, nhưng càng dễ, hậu quả càng tệ hại cho tập đoàn cầm quyền.
Hình ảnh trước mắt những người thờ ơ nhất, là cả một lực lượng an ninh được huy động để bắt những người đàn bà chân yếu tay mềm, những thanh niên tay không. Những người thuộc đám đông thầm lặng. Giữa lúc kinh tế cực kỳ khó khăn, sơn hà cực kỳ nguy biến, nỗi lo đè lên vai dân, nước ngập tới cổ.
Bắt họ rất dễ, nhưng không dập tắt được bạo loạn, trái lại, chỉ làm cho sự phẫn nộ gia tăng. Có thể làn sóng bạo hành, nhằm gieo kinh hoàng trên đầu dân, theo nguyên tắc Lê Nin. để nhắc dân ai là chủ, ai có quyền sinh sát trên đất nước này, sẽ làm giảm bớt các phong trào chống đối trong một thời gian ngắn, nhưng sẽ làm cho ngọn lửa bất mãn âm ỷ, chỉ chờ cơ hội để bùng nổ
“Sự bất công đưa tới sự nổi loạn, bất tuân luật pháp. Đó là một môi trường bất an đưa tới hỗn loạn”. (L’injustice appelle la révolte, le contournement des lois. C'est un environnement instable qui conduit au chaos. Didier Decourt)
Những kẻ gây ra sự hỗn loạn đó là tập đoàn cầm quyền.
Người Việt: Công an bắt bà Cấn Thị Thêu và con trai Trịnh Bá Phương tại Hà Nội
![]() |
Trịnh Bá Phương trong video clip phát trực tuyến trên Facebook sáng sớm 24 Tháng Sáu. (Hình: NV cắt từ FB) |
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hai mẹ con nhà hoạt động nhân quyền Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Phương bị nhà cầm quyền CSVN bắt giữ sáng sớm ngày Thứ Tư, 24 Tháng Sáu, tại Hà Nội.
Hiện chưa rõ lý do của vụ bắt giữ, nhưng có thể hiểu là vì những lời phát biểu và các thông tin những tháng gần đây mà anh Trịnh Bá Phương phổ biến trên trang Facebook cá nhân liên quan đến vụ đấu tranh chống cưỡng chế đất tại xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức.
Trên trang Facebook Trịnh Bá Phương, đăng tải một video clip trực tuyến dài 6 phút 32 giây về chuyện xảy ra sáng sớm khoảng hơn 5 giờ sáng giờ địa phương ngày Thứ Tư, 24 Tháng Sáu (giờ địa phương) tại nhà của anh ở phường Dương Nội, quận Hà Đông, Hà Nội.
Link video: https://www.facebook.com/trinhbaphuong.trinhba/videos/2572802852981402/?t=36
Trong clip này, anh Phương cho biết hàng chục công an đủ loại cả thường phục và sắc phục, nam và nữ, vây kín nhà anh. Họ không vào nhà đươc vì nhà có rào sắt và có khóa, trong khi anh đứng phía bên trong thông báo cho mọi người biết tình hình.
Anh Trịnh Bá Phương cho hay, anh hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu anh bị bắt thì không có ý định tự tử trong tù, nên nếu anh chết thì không phải do anh tự tử mà là do bị tra tấn đánh đập ép cung. Nếu chẳng may anh chết thì anh không muốn gia đình chôn cất mà để đó làm bằng chứng cho tội ác của CSVN.
Đồng thời, anh Phương tin rằng, việc anh bị nhà cầm quyền CSVN bắt tù chỉ vì anh nói lên sự thật cũng như đưa thông tin về vụ nhà cầm quyền thành phố Hà Nội đàn áp và giết dân Đồng Tâm. Hiện 29 người dân Đồng Tâm đang bị giam giữ, đối diện với những bản án nặng nề.
Mai Vân (RFI): Ý đồ “dạy cho Ấn Độ một bài học” của Bắc Kinh thất bại
Ngày 15/06/2020, một vụ đụng độ đẫm máu đã bất ngờ xẩy ra giữa binh lính Ấn Độ và Trung Quốc tại thung lũng Galwan vùng Ladakh, ở khu vực biên giới có tranh chấp giữa hai nước trên vùng Himalaya. Dù không dùng đến súng đạn, mà chỉ dùng gậy, đá và tay không, cuộc giáp lá cà đã khiến cho 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng, và một tổn thất được cho là nặng hơn phía Trung Quốc, nhưng bị Bắc Kinh hoàn toàn che giấu.
Ai là người đã khơi mào cho sự cố biên giới, mà hãng tin Anh Reuters ngày 17/06 cho là nghiêm trọng nhất giữa Ấn Độ và Trung Quốc từ năm 1967 đến nay ? Câu hỏi này đến giờ chưa có lời giải đáp rõ ràng. Bắc Kinh thì tố cáo New Delhi cho lính vượt biên giới trước, ngược lại thì Ấn Độ khẳng định Trung Quốc đã xâm phạm lãnh thổ của mình.
Trong bối cảnh đó, ngày 22/06 vừa qua, tạp chí Mỹ US News and World Report đã tiết lộ nội dung một thẩm định của tình báo Mỹ theo đó thì chính phía Trung Quốc đã ra lệnh tấn công vào lính Ấn Độ ở vùng thung lũng sông Galwan. Người ra lệnh là viên tướng Trung Quốc chịu trách nhiệm khu vực biên giới, nhưng theo giới phân tích, chủ tịch Trung Quốc không thể không biết đến lệnh tấn công này.
“Dạy một bài học” cho Ấn Độ như với Việt Nam ?
Tạp chí Mỹ đã trích dẫn một nguồn tin biết rõ bản báo cáo của tình báo Mỹ xác nhận rằng tướng Triệu Tông Kỳ (Zhao Zongqi), tư lệnh Chiến Khu Tây Bộ của Quân Đội Trung Quốc, là người đã tán đồng chiến dịch tấn công ở vùng biên giới tranh chấp, nằm ở phía bắc Ấn Độ, nhưng ở phía tây nam Trung Quốc.
Theo nguồn tin trên, viên tướng họ Triệu là một trong số rất ít cựu binh có kinh nghiệm chiến trường thực thụ còn phục vụ trong quân đội Trung Quốc. Là người đã giám sát những vụ đối đầu với Ấn Độ trước đây, tướng Triệu Tông Kỳ từng cho rằng Trung Quốc không nên tỏ ra mềm yếu để khỏi bị Mỹ và đồng minh của Mỹ, kể cả Ấn Độ, lợi dụng. Theo nhân vật này, cuộc “đối đầu” vừa qua là một “bài học dạy cho Ấn Độ”.
Vũ Đông Hà: Hiểm hoạ "Đồng Chí Oan" của đảng
Vũ Đông Hà (Danlambao) - Biến cố Đồng Tâm được nhiều đảng viên cộng sản mọi cấp xem đó là vấn nạn cấp thiết của đảng. Lý do: đây không phải là vấn nạn "Dân Oan" của người dân ngoài đảng. Đó là vấn nạn "Đồng Chí Oan" dẫn đến những đấu đá mãnh liệt hơn trong nội bộ đảng.
Đến khi Đồng Tâm xảy ra thì bên cạnh thành phần Dân Oan xuất hiện thêm thành phần "Đồng Chí Oan".
Đối với thành phần "bị trị" trong đảng, hành động "đảng ta" cướp đất, cướp tài sản và giết luôn đảng viên tại Đồng Tâm cũng không khác gì việc chúa đảng và phe cánh đã cướp ghế, cướp của và giết chết sinh mạng chính trị của "phe ta" qua màn đốt lò chống tham nhũng. Các quan chức, cán bộ cộng sản sau nhiều năm tháng dửng dưng trước vấn nạn dân oan (vì chúng là dân, ta là đảng) ngày nay mới giật mình: đồng chí rồi cũng bị cướp khi bị chúa đảng xếp vào thành phần đồng rận - bị cho tự chuyển biến tự chuyển hóa từ chí sang rận.
Thứ Tư, 24 tháng 6, 2020
Đỗ Quý Toàn: Một nhà báo tại Sài Gòn trước năm 1975
LỜI TÒA SOẠNDưới đây là bài thuyết trình bằng tiếng Anh của nhà báo Ngô Nhân Dụng, tức Đỗ Quý Toàn, trong cuộc hội thảo “Voices From The Everyday South: Civilian Lives during the Viet Nam War” tổ thức tại Haverford College, thị xã Haverford, PA ngày 1 tháng 11 năm 2019. Trong cuộc hội thảo này các thuyết trình viên, thuộc nhiều nghề nghiệp khác nhau, được yêu cầu kể chuyện thật đời mình trong cuộc sống tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975.Ban tổ chức cho biết cuộc hội thảo “Voices from the Everyday South: Civilian Lives during the Viet Nam War” (Tiếng nói từ đời sống hàng ngày: Đời sống thường dân trong thời chiến tranh Việt Nam) nhắm mời những người dân Việt ở miền Nam trong thời gian từ 1954 đến 1975 để nói chuyện về nhiều khía cạnh của cuộc sống giữa thời chiến. Cuộc sống của thành phần dân sự trong miền Nam thường lu mờ sau các biến cố chính trị và quân sự. Cuộc hội thảo nhấn mạnh đến cuộc sống của những người dân bình thường để hy vọng mở lại bầu không khí lịch sử trong giai đoạn này, ngõ hầu cho người Việt cũng như người Mỹ hiểu rõ về cuộc chiến tranh hơn.DIỄN ĐÀN THẾ KỶ
A Journalist in Saigon before 1975
I never thought I would end up working in journalism. There was no journalism school in Viet Nam until 1968, when a one year certificate in journalism was finally offered at the University of Dalat. I attended the Faculty of Education at the University of Saigon and started my teaching career in 1962 at Chu Văn An, a high school.
Like many journalists of my generation, I became a writer, a reporter and finally a columnist “for fun,” not to make serious money.
I started writing poems and short stories while in high school. I sent my works to weekly magazines or daily newspapers. There were some magazines specially for young students, they published unsolicited works; occasionally, we got paid.
Diễm Thi, RFA: Báo chí Việt Nam thời Pháp bị ông Hồ Chí Minh đánh giá sai sự thật?
Tự do báo chí thời Pháp
Trong cuốn “Đây ‘công lý’ của thực dân Pháp ở Đông Dương!” của tác giả Nguyễn Ái Quốc được NXB Sự Thật phát hành ở Hà Nội năm 1962 có bài viết về ‘Chế độ báo chí’. Nguyễn Ái Quốc là tên ông Hồ Chí Minh sử dụng từ ngày 18 tháng 6 năm 1919 đến ngày 13 tháng 8 năm 1942.
Ở trang 81 tác giả viết rằng: “Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi…
Mãi đến bây giờ, chưa có người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo cả. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở các nước Châu Âu hay Châu Á khác, chứ không phải là một tờ báo do chính quyền thành lập và giao cho bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hóa và ru ngủ dân chúng. Báo đầu độc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có ba hay bốn tờ đấy.”
Nhà báo độc lập Ngô Nhật Đăng nêu quan điểm của ông về phát biểu vừa nêu mà ông Hồ Chí Minh đề cập đến báo chí Việt Nam thời Pháp:
“Vấn đề này chúng ta phải nhìn lại lịch sử. Năm 1925 ở Pháp, ông Nguyễn Ái Quốc tố cáo chuyện ở Đông Dương không có tự do báo chí. Chuyện đó là hoàn toàn sai.
Báo chí Sài Gòn được hưởng chế độ như Pháp, hoàn toàn có thể tự do ra báo. Nếu báo bằng tiếng Việt Nam thì cần phải xin phép nhưng không bị kiểm duyệt. Đến năm 1915 thì báo chí tự do bắt đầu ra Bắc và tự do báo chí ngày đó rất dễ dàng. Điều này chúng ta có thể tìm hiểu qua lịch sử hoặc qua hồi ký của ông Vũ Bằng, cuốn “40 năm nói láo”. Qua đó chúng ta thấy thời Pháp thuộc Việt Nam hoàn toàn có tự do báo chí chứ không phải như ông Nguyễn Ái Quốc nói.”
Thụy My (RFI): Trung Quốc, nguồn gốc tất cả mọi xung đột ở châu Á-Thái Bình Dương
Tất cả các điểm nóng hiện nay tại châu Á-Thái Bình Dương đều có liên quan đến Trung Quốc. « Bộ tứ Quad +3 » sẽ tham gia vào « chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương », một khái niệm làm Bắc Kinh đau đầu. Các chuyên gia của đại học Thanh Hoa nhìn nhận, sự thống trị của Hoa Kỳ có lẽ đã là quá khứ, nhưng thế giới vẫn chưa thể thuộc về Trung Quốc.
Liên quan đến châu Á, trong bài « Chiến lược của Bắc Kinh trong căng thẳng tại châu Á-Thái Bình Dương », thông tín viên Simon Leplâtre của Le Monde nhận định, trong lúc các vụ đụng độ liên tục xảy ra trong khu vực, các nước láng giềng của Trung Quốc cố gắng giảm bị lệ thuộc.
Trung Quốc : Chiếc mặt nạ đã rơi !
Viện trưởng Viện Quan hệ Quốc tế thuộc trường đại học Thanh Hoa, ông Diêm Học Thông (Yan Xuetong) khi chủ trì « World Peace Forum » ở Bắc Kinh hôm 16/06/2020 đã tuyên bố : « Sẽ không còn lãnh đạo toàn cầu trong những thập niên tới, vai trò của các tổ chức quốc tế giảm sút, trật tự thế giới sẽ là một trật tự xấu ». Nhận định này cách xa cả ngàn dặm so với « cộng đồng nhân loại cùng chung vận mệnh » của Tập Cận Bình, trong khi ông Diêm là một trong những nhà tư tưởng chính của ngành ngoại giao Trung Quốc.
Vô số điểm nóng hiện nay : xung đột đẫm máu Ấn-Trung trên rặng Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), Bắc Triều Tiên cho nổ văn phòng liên lạc với Hàn Quốc, Bắc Kinh áp đặt luật an ninh quốc gia lên Hồng Kông bất chấp sự phản đối của G7, nhiều vụ tập trận bất thường xung quanh Đài Loan…
Ngô Ngọc Trai: Những lề lối nhận thức lạc hậu đã kết án Hồ Duy Hải
Có thể nói, quan điểm đường lối kết tội vụ Hồ Duy Hải là một lề lối giải quyết án có tính chất khung, có thể áp dụng trong nhiều vụ án khác.
Cho nên nếu nói Hồ Duy Hải bị oan thì chính cái lối nhận thức và lối làm án là cái gây oan cho Hồ Duy Hải.
Ở đây cần thừa nhận, Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao gồm những người có chuyên môn kinh nghiệm và có thể thực sự tin rằng việc kết án Hồ Duy Hải có tội là đúng đắn, công lý.
Các Thẩm phán đó đã hằn sâu nhận thức về một đường lối làm án, một lề lối nhận thức đã thành nếp, thành thói quen, họ không thấy có vấn đề gì với một cung cách đánh giá chứng cứ và kết án như vậy.
Hồ sơ vụ án khi chuyển đến họ sẽ nghiên cứu trong vài tháng, thấy rằng có nhiều lời khai nhận tội và mọi thứ phù hợp với nhau, thì khi đó đã tạo thành niềm tin nội tâm bị cáo có tội.
Vậy giờ đây những người muốn cứu Hồ Duy Hải thì phải cứu bằng cách nào?
Làm sao để vượt qua được nhận thức của các Thẩm phán?
Chỉ có một cách, đó là nâng cao tiêu chuẩn xét xử.
Tức là đòi hỏi phải nâng cao điều kiện cơ sở kết tội, nhất là án tử hình, yêu cầu phải xác lập những cơ sở vững chắc cho việc kết tội.
Bằng cách đó một mặt sẽ giữ được thể diện cho ngành Tòa án, động viên họ rằng việc kết tội như vậy là không sai với những gì đã là truyền thống lâu nay, từ đó tạo khả năng chấp thuận về việc thảo luận và xây dựng một tiêu chuẩn cao hơn cho việc xét xử.
Khi không bị quy trách nhiệm người ta mới có lý do cho sự hợp tác thay đổi.
Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020
Tuấn Khanh: Báo chí đảng & báo chí người Việt
Cũng cần có lúc, các nhà nghiên cứu về lịch sử nên đặt lại câu hỏi, vì sao ngày 21-6 hàng năm, được gọi là ngày Báo chí Việt Nam, chứ không phải gọi đúng tên là ngày báo chí của đảng Cộng sản Việt Nam? Dĩ nhiên, việc xét lại này, cần dựa trên lòng tự trọng và sự tử tế của trí thức Việt Nam có suy nghĩ tự do, không tư tưởng nô lệ đảng phái nào.
Theo những gì mà tư liệu của nhà nước hiện nay đưa ra, ngày 21-6-1925 là ngày mà ông Lý Thụy (tức Hồ Chí Minh) cho ra đời tờ Thanh Niên, một tờ báo có nội dung cho phong trào kháng Pháp. Nhưng quan trọng hơn, tờ báo này còn nhằm tạo ảnh hưởng cho khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản và phong trào cách mạng của ông Lý Thụy – một bí danh được đặt từ Trung Quốc.
Tờ Thanh Niên, so với những bậc tiền bối của báo chí Việt ngữ, ra đời muộn hơn và thật lòng mà nói, ngoài chuyện chính trị, thì việc đóng góp mở mang nghề nghiệp không thể bì được các tờ hàng đầu như Gia Định Báo (15-4-1865), Nông Cổ Mín Đàm (1-8-1901), Nam Phong Tạp Chí (1-7-1917), Nữ Giới Chung (tháng 7-1918)… Về lịch sử, Thanh Niên có hình thức như truyền đơn, in trên giấy sáp, tên báo viết bằng chữ Việt và chữ Hán, đầu trang 1 bên trái có hình ngôi sao 5 cánh, giữa ngôi sao có chữ số là số kỳ của tờ báo phát hành. Báo phát hành bí mật và bất định kỳ, (200 – 300 bản/kỳ), mỗi kỳ hai trang, có lúc 4 trang, khổ giấy nhỏ 13×18).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)