Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2020
Nguyễn Hiền: Du lịch Nepal, những ngộ nhận kỳ thú
Viết vào thời điểm 1 € = 120 RS, 1 USD = 110 RS.
Khi nói đến Nepal hoặc Ấn Độ người Việt mình thường nghĩ ngay tới “xứ Phật”. Tuy nhiên, bài du ký này không đi nhiều vào các chi tiết chùa chiền hay các Phật tích. Đây là chuyến du lịch, không phải cuộc hành hương. Ngoài ra, với số vốn kiến thức về Phật giáo giới hạn, không đủ để làm thành một bài đi sâu vào chi tiết, và cuối cùng, hẳn nhiều người cũng tò mò muốn biết Nepal có gì lạ, không lẽ chỉ có đền chùa mà thôi sao.
***
Nepal là một nước nhỏ nằm kẹp giữa hai anh khổng lồ là Trung Quốc phía bắc và Ấn Độ phía nam. Diện tích bằng gần nửa nước Việt Nam, với dân số xấp xỉ 30 triệu. Nepal bị hai anh khổng lồ chèn hai bên có thể hiểu theo nghĩa đen: quốc gia này nằm ngay đường nối hai mảng lục địa đang xáp lại gần nhau: mảng Ấn Độ phía nam đang chùi xuống bên dưới mảng Á-Âu phía bắc, sự chuyển dịch này đã tạo ra rặng Hy Mã Lạp Sơn. Theo tính toán của các nhà địa chất, cứ khoảng 750 năm Nepal lại chịu một trận động đất lớn. Và điều đó vừa xảy ra năm 2015, đúng theo chu kỳ. Nhiều khu dân cư bị thiệt hại nặng, nhà cửa đền đài cung điện cũng chịu chung số phận chứ chẳng có phép lạ nào xảy ra. Nơi thì sụp mái, nơi sạt một góc, nơi chỉ còn một đống cây ngổn ngang hay đống gạch vụn. Trông cảnh hoang tàn mà chỉ biết chắt lưỡi thở dài. Bốn năm trôi qua mà dường như chưa được tái tạo bao nhiêu. Nhà dân thì dễ. Đền đài cung điện, vì là di tích lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới, cho nên bắt buộc phải xây cất lại theo cách cổ truyền. Hai trở ngại lớn là không được dùng xi-măng và không còn mấy người giỏi nghề chạm khắc gỗ như xưa. Ngoài ra, chuyện này khó thực hiện trong thời nay, khi người dân còn trăm ngàn thứ khác phải lo ngoài những sinh hoạt tâm linh.
Kathmandu, đền chùa và ngọn Everest
Khi chưa đặt chân tới Nepal, thủ đô Kathmandu trong trí tưởng tượng của tôi hẳn sẽ phải là một thành phố núi, hoang sơ, dân cư thưa thớt. Khi máy bay đáp xuống phi trường Tribhuvan, thấy cảnh quan vắng vẻ như Tân Sơn Nhứt hơn nửa thế kỷ trước, tôi vẫn tưởng như vậy…. Để rồi lầm to khi xe bắt đầu đi vào thành phố. Kathmandu thế kỷ 21 hỗn độn, xe cộ đan xen tứ tung, khói bụi mịt mù, trời mưa thì bùn đất lầy lội. Đường xá mấp mô ổ gà, sửa chỗ này vá chỗ nọ, rác rưởi tràn lan, gạch đá vất lỏng chỏng. Nhà cửa xiêu vẹo, hàng quán xập xệ, người dân ít chưng diện áo quần màu mè, nhiều người đi xe gắn máy mang khẩu trang…. Nếu phải lấy một hình tượng cụ thể so sánh, có lẽ nó giống những vùng ven đô Saigon hơn chục năm trước. Nhưng có hai điều rất khác: xe cộ không bóp kèn tin-tin liên tục, và hàng quán không có đám dân nhậu ngồi quanh những bàn đầy bia và đồ mồi đưa cay như ở Sài Gòn.Tuy vậy, vấn nạn không khí ô nhiễm ở Kathmandu có thể thấy rất rõ qua những đám khói đen từ xe hàng xịt ra và mùi dầu diesel sộc vào mũi khi chúng đi qua. Tổ chức Airvisual, trong báo cáo về ô nhiễm không khí năm 2018, qua khảo sát thực hiện tại hơn 3000 thành phố lớn thuộc 73 quốc gia về mật độ bụi mịn PM2.5 (bụi có kích thước nhỏ hơn 2,5 micron) đã sắp Kathmandu đứng hạng 99, ô nhiễm hơn cả Hà Nội (hạng 209) và Sài Gòn (hạng 415). Để so sánh với một số thủ đô: Washington hạng 2156, Amsterdam hạng 1617, Paris hạng 920…
Thành phố đang vào mùa Nam Á Vận Hội (SA Games) lần thứ 13, các trận thi đấu diễn ra ở thủ đô Kathmandu và tại Pokhara, thành phố lớn thứ nhì. Xe đi ngang nhiều cổng chào và biển quảng cáo hai bên đường. Nhờ vậy tôi mới biết có cái SA Games này, ngoài cái SEA Games (Đông Nam Á Vận Hội) thường nghe. SA Games lần này có 7 quốc gia trong vùng tham dự. 7 quốc gia này, cộng thêm Afghanistan (không tham dự vì lý do chiến tranh) hợp thành khối SAARC (South Asian Association for Regional Cooperation – Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á). Chỉ có 8 thành viên mà lại là tổ chức hợp tác kinh tế chính trị lớn nhất hành tinh với 1,5 tỷ người, lý do đơn giản là chỉ riêng Ấn Độ đã có hơn 1,3 tỷ! Có thấy con số, mới hiểu Nepal bị kẹp như thế nào giữa hai anh khổng lồ Trung Quốc và Ấn Độ. Có lẽ để chứng tỏ ta đây thật sự độc lập, Nepal áp dụng một thứ giờ rất quái dị, khác hẳn các nước trong vùng, là GMT+5:45. Có lẽ đây là quốc gia duy nhất trên thế giới dùng giờ lệch 15 phút so với múi giờ.
Phía bắc, giữa Nepal và xứ Tây Tạng là ranh giới thiên nhiên, đỉnh rặng Hy Mã Lạp Sơn, tạm gọi là yên, cho dù rặng núi này qua những biến động địa chất vẫn đang cao thêm và trôi dần xuống phía nam. Còn ranh giới giữa Nepal và Ấn Độ thì mơ hồ hơn. Ấn Độ luôn tìm cách lấn chiếm lãnh thổ hai lân bang phía tây bắc là Pakistan và Nepal. Những vụ tranh chấp đất đai này rất hiếm khi được quốc tế chiếu cố: Nepal không có gì để thế giới phải chịu tốn nước bọt nhúng tay vào. Có một thời Ấn Độ đã khóa đường dẫn dầu, “cho mày biết tay ta”, khiến Nepal nửa năm khốn đốn. Không có dầu, tức là mọi sinh hoạt tê liệt. Điện phân phối nhỏ giọt. Người dân phải dùng đèn đốt bằng bơ trâu yak thay đèn điện hay đèn măng sông. Nước phải ra sông ra giếng hay chờ mưa xuống hoặc xe bồn phân phối (hiện tại xe bồn vẫn còn phải mỗi ngày chở nước đến cho các khách sạn vùng ngoại ô Kathmandu). Xe cộ phải mua xăng giá chợ đen mắc gấp 10, rồi bệnh viện, hãng xưởng… cũng ì ạch. Thời gian “blackout” này, nghe người dân kể lại, theo tôi, chỉ khá hơn thời bao cấp ở Việt Nam chút xíu. Và khi mối xung đột tạm được hàn gắn thì lại gặp nạn câu điện trộm khủng khiếp của toàn xã hội, cộng thêm tham nhũng, thế là lại “blackout” triền miên, tức là mọi người chẳng biết khi nào có điện, khi nào mất điện. Tình trạng này kéo dài tới 10 năm, đến năm 2016 chính phủ mới tạm ổn định được tại thủ đô Kathmandu và thành phố thứ 2, Pokhara. Cho tới hiện nay, nhiều ngã tư trong trung tâm thủ đô Kathmandu vẫn có cảnh sát đứng trong “chuồng chim” chơi trò chim bay cò bay chỉ đường y như Sài Gòn thuở chưa có tv. Tình trạng thấp thỏm vì điện và sự lệ thuộc anh ngoại bang không tốt bụng về vấn đề xăng dầu khiến cho việc cơ giới hóa nông nghiệp không thể tiến hành được. Vẫn là trâu bò kéo cày, vẫn là gặt và đập lúa với sức người. Các khách sạn tại Nepal không làm thang máy cũng vì lý do đó. Bù lại, nhân viên khách sạn – nhất là các khách sạn hạng sang – rất sốt sắng, họ có thói quen chờ khách cho tiền típ sau khi mang hành lý lên phòng ngay khi check in xong và mang xuống trước khi check out. Đành chịu thôi. Nhất là khi bạn mướn phòng ở trung tâm thành phố, phải xuống xe đi bộ leo dốc vài trăm thước với hành lý lỉnh kỉnh, thì vài đô có nghĩa lý gì, cứ để cho họ vác.
Một đất nước không có nguồn lợi gì đáng kể – ngoài dịch vụ du lịch mới nở rộ hơn chục năm nay, cũng có lợi điểm. Nepal là quốc gia duy nhất trong vùng không bị vướng vào cuộc chiến tranh chiếm thuộc địa của các đế quốc Âu châu. Quốc gia này mới từ bỏ chế độ quân chủ 30 năm nay, chấm dứt thời gian dài mấy chục vương quốc tí hon tranh giành quyền lực. Trong bước đầu chật vật xây dựng nền móng cộng hòa, người dân Nepal chưa thấy một tương lai sáng sủa. Chẳng lẽ con cháu họ lại lặng lẽ nối nghiệp nông gia, hay làm công quả cho đền chùa, hoặc khá lắm là làm trong ngành du lịch? Ngoài đường có treo nhiều pa-nô quảng cáo dịch vụ môi giới đi học ở nước ngoài: Nhật, Anh, Ấn…. Người ta cố gắng cho con học trường tư, khá hơn thì lo cho vào trường nội trú (board school), để tiếp theo là tìm chỗ học lên bậc đại học ở nước ngoài và khi tốt nghiệp kiếm cách xoay xở ở luôn nơi đó. Đây là vấn nạn lớn của Nepal, theo như những gì tôi nghe được trong câu chuyện, với một kết luận bi quan là quốc gia thiếu trầm trọng nhân lực có trình độ cao, và đó có lẽ phần nào giải thích vì sao nhiều công trình xem ra có vẻ tạm bợ chắp vá. Tuy nhiên, nhìn chung, xã hội toát ra vẻ yên bình, không đua chen. Phải chăng vì không bon chen, cho nên không tiến nhanh được? Hãy tranh luận về vấn đề này với các tu sĩ Ấn giáo và Phật giáo!
Thủ đô Kathmandu là một trong ba cố đô lớn, bên cạnh Bhaktapur và Patan, ba nơi nằm không xa nhau, cùng trong phạm vi thung lũng Kathmandu, lọt thỏm trong một góc của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Những kinh đô của Nepal đều có một khoảng sân rộng có tên gọi chung là Quảng trường Hoàng gia (Durban square), nơi tập trung các lâu đài, đền chùa lớn – cùng những sinh hoạt ăn theo không thể thiếu như nhà hàng, quán trọ (vì các nhà trong phố cổ không được phép thay đổi cấu trúc xây cất nhiều cho nên họ không thể làm khách sạn), tiệm bán đồ lưu niệm…. Muốn vào những khu này, cũng như vào thăm những điểm du lịch, đều phải mua vé. Vé vào cửa có hai ba hạng. Dân Nepal và cư dân khối SAARC được hưởng giá ưu đãi, vài nơi du khách Nepal không cần mua vé. Ngay giữa Quảng trường Hoàng gia Kathmandu có một điểm đứng mà ta – nếu may mắn có người hướng dẫn đi theo dẫn giải –có thể thích thú đứng đó chụp một tấm hình độc đáo: ba biểu tượng tôn giáo của Nepal chung sống với nhau: đền Ấn giáo, chùa Nepal và chùa Tây Tạng, may mắn là cả ba không bị hư hại nhiều trong trận động đất, và đã được tu bổ ngay.
Không được may mắn như thế, quần thể hoàng cung Hanuman Dhoka, bao gồm các tòa cung điện của triều đại Malla, điểm biểu tượng của Kathmandu, đổ nát hoang tàn. Ba quốc gia: Hoa Kỳ, Nhật và Trung Quốc đang bỏ tiền xúc tiến kế hoạch trùng tu lại, mỗi nước phụ trách một góc, nhưng tiến độ xem ra uể oải như công trình xây nhà thờ Sagrada Família ở Barcelona (tới nay gần 140 năm vẫn chưa xong). Những ông vua nằm dưới mộ hẳn đang cười nhạo chế độ đại nghị, và nghĩ thầm: phải như ta còn sống thì dân đang cắm đầu cắm cổ xây lại lâu đài đền chùa chứ đâu có bỏ bê như vậy! Tại góc do Trung Quốc phụ trách, chính phủ có cho dựng một khu triển lãm trưng bày nhiều hình ảnh và vật dụng ghi lại những hình ảnh quần thể này cho du khách có thể so sánh. Tóm lại, dấu ấn của trận động đất 4 năm trước vẫn còn ghi đậm khắp nơi, thật ngậm ngùi cho cuộc bể dâu.
Nhưng xét cho kỹ, sau khi đi xem nhiều chỗ, thì thấy dân Nepal không bê trễ trong việc tu bổ các phế tích sau trận động đất. Theo tôi, chính phủ đã cố ý lựa chọn, dành ưu tiên cho các đền chùa miếu mạo, nhất là những nơi mang bộ mặt của thành phố. Điển hình là các ngôi đền chùa vừa kể trên, chúng gần như đã trở về nguyên trạng, trong khi đền chùa nơi làng hẻo lánh thì bỏ phế, một phần cũng vì chúng quá nhiều. Còn cung vua, dinh nhà quan v.v…, chuyện đó để sau. Rất có thể vì dân cho rằng đền chùa mới là những nơi phục vụ trực tiếp đời sống tâm linh hàng ngày của họ, cho nên dốc sức ra làm, cũng là một cách tạo phước. Bảo tháp Boudhanath cách trung tâm Kathmandu hơn 10km về mạn đông bắc là một thí dụ. Đây là bảo tháp lớn nhất châu Á, lớn tới mức khó mà chụp được một tấm toàn cảnh. Bảo tháp, theo di vật mà các nhà khảo cổ còn tìm được có lịch sử hơn 1500 năm, theo thời gian lớn lần lên mỗi khi được trùng tu, cho tới khi đạt kích thước hiện giờ. Ngạc nhiên thấy tòa tháp quá sạch sẽ như có người lau chùi thường xuyên, trong khi không ai được phép leo lên tháp, đến khi hỏi ra tôi mới biết tòa tháp này khi đó đã bị sụp phần trên và mọi nơi nứt rạn, nhưng chỉ một năm rưởi sau nó đã được tái tạo. Đây là một trường hợp rất hiếm, khi mà xá lợi cất bên trong bắt buộc phải tạm di dời ra ngoài. Các bảo tháp là một kiến trúc đặc ruột, chứa xá lợi ở trung tâm. Bảo tháp ở Nepal có kiến trúc hình vòm và trơn, màu trắng, đơn giản, khác với bảo tháp ở Indonesia thường bằng đá đen có kiến trúc hình chuông với nhiều hoa văn khắp nơi. Bên trong vòng thành bao quanh Boudhanath mọi người sì sụp bò dài vái lạy, có chỗ cho thuê nệm lót và gối kê. Chung quanh Boudhanath là một vòng phố với các cửa tiệm bán quần áo, đồ kỷ niệm, tiệm ăn…, trong đó có tiệm ăn Việt Nam (Phở 99) của hai chị em Võ Thị Kim Cương/Kim Ánh, hai bà đã lập được một chuỗi tiệm ăn cùng tên tại Nepal, như vậy chắc hẳn làm ăn cũng khấm khá.
Bảo tháp Boudhanath (nath có nghĩa là đền/chùa) cùng với bảo tháp Swayambhunath– có tên phổ thông là “chùa Khỉ” vì có đàn khỉ mấy trăm con sống trên đó, là hai thắng tích Phật giáo tại Kathmandu mà du khách không thể bỏ qua. Swayambhunath nằm trên một ngọn đồi vùng phía tây Kathmandu. Tục truyền thuở xa xưa, nơi này là một cái hồ rộng bao la. Giữa hồ tự dưng nổi lên một đóa sen. Khi ấy, một vị thần trên núi gần đó nghe tin đã đến chiêm ngưỡng và cúng bái. Nhận thấy nơi đây là chốn linh thiêng, và để cho mọi người có thể dễ dàng đến hành lễ, ngài đã dùng kiếm chém vào núi đá để tạo thành một hẻm vực. Nước hồ tự dưng rút xuống thành thung lũng Kathmandu hiện giờ, cây sen nổi lên thành ngọn đồi và đóa sen biến thành bảo tháp mà người ta gọi là Swayambhunath, có nghĩa là “chùa tự sinh”. Theo truyền thuyết khác, A Dục Vương Đại Đế mới chính là người đã khiến dân xây lên ngọn bảo tháp.
Dù sao đi nữa, đây chỉ là huyền thoại được truyền tụng, nghe hướng dẫn viên nhắc đi nhắc lại tên vị thần là Manjushri, rồi thấy nơi đây có nhiều tiệm và hàng quán mang tên này hoặc tên “monkey”, thì tự dưng nhập tâm chứ lúc đó không chú ý, rồi một hôm rỗi rảnh tôi tra cứu xem thêm, mới biết Manjushri chính là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, và ngài đã cưỡi sư tử tới (sư trong tên ngài không có nghĩa là sư tử)! Bởi vậy, có khi đi giữa đường gặp Phật khi nào mình cũng không biết. Và truyện kể rằng bồ tát Văn Thù Sư Lợi không cạo đầu nên chí tới bu trong tóc, những con chí sau này trở thành lũ khỉ tại đây mà người dân cho là khỉ thiêng! Nhưng khi đó chúng tôi đã rời Swayambhunath rồi, không thể quay trở lại để xem tiếp các chi tiết, dù sao cũng khó vì mọi chữ khắc trên tháp đều là chữ Nepal, các bảng giới thiệu, chỉ dẫn không có, họ làm như du khách nào cũng phải biết rõ lịch sử và ngôn ngữ bản xứ vậy.
Quanh bảo tháp, sát bờ tường có vòng rào thép gắn những bánh xe cầu nguyện bằng đồng. Trên mỗi bánh xe có khắc chữ, chắc là một câu chú. Khách thập phương nối đuôi nhau đi quanh bảo tháp theo chiều kim đồng hồ để cùng quay chúng (đi thăm các bảo tháp, theo tập tục, bắt buộc đi theo hướng kim đồng hồ). Anh hướng dẫn nói là nếu mỗi ngày quay một chiếc và đọc một kinh, thì cả năm sẽ đi giáp một vòng. Nhưng thú thực, mấy ngày liền óc đã phải nhận liên tục những thông tin về đền chùa, mình đã không chú ý cho nên cũng chẳng muốn đếm xem có đúng như vậy không. Lũ khỉ đông đảo, leo trèo len lách khắp nơi, vậy mà chúng không giở trò ma đầu cướp giật như lũ khỉ tại Bali, Indonesia.
![]() |
Bảo tháp Boudhanath nhìn từ sân thượng của một nhà hàng trong khu (trái) và Hàng bánh xe cầu nguyện quanh bảo tháp Swayambhunath (phải) |
Hai bảo tháp này, cộng thêm khu vườn Lâm Tỳ Ni phía nam giáp ranh Ấn Độ – nơi đức Phật Thích Ca ra đời; và Phật tích tại Namo Buddha –có tảng đá ghi dấu nơi được cho là tiền thân của đức Phật Thích Ca đã hiến mình cho cọp đói để cứu đàn con vừa sinh đang nằm thoi thóp vì cọp mẹ không còn sức đi kiếm đồ ăn (hiện vẫn còn tranh cãi là điểm này nằm ở Nepal hay Pakistan – nơi đây cũng có cùng một Phật tích); là bốn Phật tích nổi tiếng nhất của Nepal. Còn những chùa nhỏ khá nhiều, nằm rải rác khắp nơi. Tuy nhiên, số lượng chùa không thấm vào đâu so với số đền Ấn giáo. Theo thống kê cuối cùng, lập năm 2011, 81% dân Nepal theo Ấn giáo trong khi chỉ có 9% theo Phật giáo. Ấn giáo trong khu vực Á châu này là một tôn giáo đã ăn sâu vào văn hóa quần chúng, thấm vào đời sống thường ngày, tạo thành những lễ nghi tập tục xã hội, giống như Thần Đạo ở Nhật Bản. Ngoài ra, khi đi sâu thêm một chút vào Ấn giáo, ta cũng nên biết là từ “Ấn” ở đây (hay Hinduism) không có nghĩa là “xứ Ấn Độ”, mà từ này nguyên thủy có nghĩa là “ngoại đạo” (ám chỉ những người không theo đạo Christ và đạo Hồi). Ấn giáo có nhiều chi nhánh khác nhau. Bài du ký này chỉ bàn đến nhánh Ấn giáo của vùng Nepal, Ấn Độ và Tibet, trong kinh sách ghi là Bà-La-Môn giáo có lẽ đúng nghĩa hơn. Thí dụ, xưa kia, sắc dân Newar cư ngụ đông đảo ở Kathmandu, họ có những nghi thức tôn giáo riêng, tại Nepal còn có những đền riêng cho sắc dân này thờ những thần của họ, như đền Taleju ở Kathmandu và Bhaktapur, và những căn nhà dành cho nữ thần Kumari (Kumari Ghar). Tại Kathmandu đây là một điểm đặc sắc không nên bỏ qua, vì nó cũng nằm trong phạm vi Quảng trường Hoàng gia và không bị hư hại nhiều. Nữ thần đương thời Kumari được tín đồ Ấn giáo xem như một người nữ đặc biệt được nữ thần Taleju nhập vào, và khi cô gái này lần đầu có kinh (hoặc bị thương tích chảy máu) cũng là lúc thần Taleju thoát ra khỏi thân xác để tìm cách nhập vào một cô gái đồng trinh khác. Các cô Kumari được tuyển chọn qua một thể thức khắt khe, phải hội đủ một số tướng tốt, và phải chứng tỏ được đức tính can đảm bẩm sinh. Cô được giữ kỹ trong một căn gác, có người phục dịch chăm sóc, và thỉnh thoảng được đưa ra ngoài ngồi trong kiệu rước đi một vòng phố. Người ta nói thường thì khoảng 4 - 5 giờ chiều các thị vệ đưa cô bé ra, mà hôm có hôm không. Thôi thì trái giờ, không xem được, mà cũng chẳng hay gì, vì họ cấm tuyệt đối không được chụp hình cô bé (thần còn sống là bực linh thiêng).
![]() |
Đền Taleju ở Kathmandu (trái) và căn gác thượng nơi cô Kumari ở (phải) |
Ngoài đền chùa, nhiều người ưa núi non đến Kathmandu để trải nghiệm sự thử thách qua các cuộc leo núi hay đi bộ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Trong số 10 ngọn núi cao nhất thế giới thì có 7 ngọn nằm (toàn phần hoặc một phần) tại Nepal, tất cả đều thuộc dãy Hy Mã Lạp Sơn. Điều ngộ nghĩnh là dân vùng này không phát âm được vần -rest, vì thế người Nepal gọi ngọn Everest là Sagarmatha (vầng trán trên bầu trời), còn người Tây Tạng gọi nó là Chomolungma (thánh mẫu của các ngọn núi), là những tên mang ý nghĩa văn hóa, thân quen với dân nhiều hơn là tên của một nhà địa lý ở một quốc gia Âu châu xa lạ!
Du khách nào mới đặt chân đến Kathmandu cũng háo hức muốn xem tận mắt và chụp vài tấm hình ngọn núi Everest tuyết phủ làm kỷ niệm. Thực tế không đơn giản như vậy. Ngoài khoảng cách hơn 200km đường chim bay từ Kathmandu tới đỉnh ngọn Everest, dãy Himalaya thường bị mây che giữa chừng, rất họa hiếm mới có một ngày vào sáng sớm tinh mơ, trời quang mây tạnh cho bạn có ít giờ ngắn ngủi xem dãy núi chập chùng sáng lên trong ánh bình minh, và sau đó may ra bạn biết được đâu là ngọn Everest. Đó là do ảo giác. Ngọn Everest ở rất xa, khi lên hình thì trông nó thấp hơn những ngọn núi nằm phía trước. Người nào trong túi rủng rỉnh thì có thể bỏ 200USD mua tour lên máy bay cánh quạt (nếu hôm đó may mắn trời ít mây) tới gần hơn chút xíu thôi, nghe người hướng dẫn chỉ trỏ, chụp vài tấm hình, thấy thêm 4 ngọn Annapurna vì chúng ở gần hơn, thế là nửa tiếng đi toi một tháng lương trung bình nơi đây.
Những dân tài tử thích núi non thì mua tour đi theo những cái track có sẵn. Dân thích leo núi thực sự lại là chuyện khác. Không phải núi nào bạn cũng được phép leo. Có những ngọn núi thiêng, cấm tuyệt không cho leo, hay chỉ cho leo tới nửa chừng. Và nếu đi sâu vào thì mới thấy chi phí để có thể leo núi cao khủng khiếp. Giấy phép để leo lên đỉnh Everest hiện tại là hơn 25 ngàn USD, chưa kể số tiền bắt buộc để mướn người hướng dẫn và mang đồ đạc. Bù lại, chuyện leo núi thời nay không khó khăn lắm, người vác đồ (sherpa) có thể mang thang nhẹ theo để dựng cho bạn leo thoải mái. Ngày 22/05/2019 có hơn 200 người chen nhau trên chặng cuối cùng nơi đỉnh núi như xếp hàng mua vé vào xem phim! Leo núi không còn thuần là môn thể thao nữa, đại đa số leo vì mục đích quyên tiền. Người thích mạo hiểm thực sự thì ao ước leo ngọn K2 thấp hơn 200m nhưng dốc đứng hiểm trở. Everest với họ trở nên quá tầm thường, chẳng có gì cần khoe khoang.
Bhaktapur và Nuwakot
Giáp ranh với khu trung tâm Kathmandu, về phía nam là Patan, một kinh đô cổ của xứ Nepal xưa. Về mặt lịch sử, Patan xưa hơn Kathmandu tới 4 thế kỷ, nhưng theo giòng thời gian, trải qua nhiều triều đại, Kathmandu dần lớn hơn và hiện tại vượt hẳn Patan. Người mới tới Kathmandu, nếu không để ý, có thể lầm tưởng khu Patan cũng thuộc trung tâm thủ đô Kathmandu. Để so sánh, có thể ví Patan như khu Bà Chiểu Gia Định còn trung tâm Kathmandu như khu chợ Bến Thành và trung tâm Lê Lợi/Nguyễn Huệ của Sài Gòn. Mọi thứ ở Patan đều mang kích cỡ nhỏ hơn. Tuy thế, Patan độc đáo ở chỗ có những đền chùa do vua A Dục xây nên khi đức vua đến viếng nơi đây (khi đó sầm uất hơn Kathmandu). Du khách nào không có thời giờ nhiều hoặc lười đi lang thang thường bỏ qua Patan – bị tàn phá nặng trong trận động đất 2015, để đi lên cố đô Bhaktapur cách Kathmandu hơn 10km về phía đông bắc, nơi đây nổi tiếng với những ngành nghề thủ công cổ truyền và những di tích lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay, khi tới nơi, họ có thể sẽ thất vọng một phần lớn. Bhaktapur bị hủy hoại nặng nề trong trận đại địa chấn đó. Một tháng sau trận động đất với tâm địa chấn nằm phía tây Kathmandu, một trận động đất thứ hai với cường độ không kém tại phía đông đã làm sụp đổ phần lớn các cung điện, đền chùa đang còn rung rinh. Bhaktapur chịu cảnh đó.
Cung điện gây được nhiều thích thú là “cung điện 55 cửa sổ” (tên chính thức đọc gãy lưỡi: Nge Nyapa Jhya Laaykoo), do một vị vua trong triều đại Malla (một vương triều lớn của một vương quốc ở xứ Nepal vào thế kỷ thứ 17 - 18, khi đó Bhaktapur là kinh đô của vương quốc này). Vua có 55 phi tần, để công bằng, ngài cho xây cung điện này làm hậu cung, mỗi bà phi có một phòng, đánh dấu bằng 55 cửa sổ có hình chạm trang trí khác nhau, mỗi cửa được làm từ một cây gỗ teak riêng. Một kiểu khôi hài đen sau khi nhìn ngắm mấy cửa sổ này (sự thực chúng không khác nhau bao nhiêu), người ta pha trò bằng cách chỉ trỏ những căn nhà quanh đó và nói “bao nhiêu cửa sổ là bấy nhiêu vợ”. Từ cung điện “55 cửa sổ” nhìn xéo sang bên, cách đó không xa là một kiến trúc độc đáo, đền Dattatraya – ngôi đền có các cột đỡ mái bằng gỗ tạc hình các vị thần phía trên, còn phía dưới là những tư thế diễn tả trong Kamasutra, chẳng biết mấy bà phi khi xưa có học hỏi được chút nào từ đây không.
Tại nhiều đền chùa, hai bên bực thang dẫn lên chánh điện có dựng tượng 5 linh vật, tượng trưng cho 5 sức mạnh của các vị thần, từ thấp lên cao. Phần lớn các đền chùa nơi đây bị hư hại nặng, gạch đá cây gỗ ngổn ngang. Chúng tôi đã đi qua nhiều nơi, nhưng hầu như chưa thấy chỗ nào có thợ thuyền rộn ràng làm việc, nếu có thì cũng uể oải, bởi vì nhìn chỉ cần thấy đống đổ nát là đã ngán quá rồi.
Các người hành nghề thủ công thì được tập trung thành từng phường: phường làm các đồ đất nung terracotta, chạm khắc gỗ, phường dệt, nơi làm chuông khánh v.v… Các phường thông thương với nhau bằng một mạng lưới hẻm hóc chật hẹp, đầy cửa hàng bán đồ lưu niệm, quán ăn và nhà nghỉ. Tại đây, tôi biết được thêm về nghề đúc chuông đồng (chuông kiểu bình bát của mấy nhà sư khất thực, không phải chuông treo) nổi tiếng của Nepal; biết phân biệt thứ thật (đúc kiểu thủ công của Nepal) và thứ bằng đồng thau do nhà máy đúc ở Trung Quốc chế tạo. Những chuông này được đúc với công dụng khác nhau: có chuông để dùng cho lễ nghi, có chuông để trị bịnh…. Phân biệt thì phân biệt, nhưng với cùng kích cỡ, giữa của giả mười đô với đồ thật một hai trăm đô (tùy độ tinh xảo), để tùy mỗi người tự quyết định.
Bhaktapur có một món ngọt ăn chơi không nên bỏ qua là yaourt trâu đông lạnh, họ gọi là Juju Dhau (với du khách thì họ gọi là King Curd), bỏ trong chén đất nhỏ, vị ngọt béo đậm đà, ăn xong đập luôn chén! Buổi tối, sau khi mãn chợ chiều lộ thiên, tại khoảng sân lớn giữa làng và trước các đền, tín đồ Ấn giáo tụ tập từng nhóm chuyện trò và ca ngâm những bài kinh, khung cảnh vừa ấm cúng vừa mang vẻ thần bí ma quái.
Nếu rời vùng này, theo con đường liên tỉnh Pasang ngược dòng sông Trisuli lên phía bắc là tới chân ngọn Langtang, sát biên giới Tây Tạng. Trisuli cùng với Bagmati là hai con sông “thiêng” nằm gần nhau, cùng bắt nguồn từ Hy Mã Lạp Sơn, chảy ngang Kathmandu và cùng đổ vào sông Hằng bên Ấn Độ. Dọc sông, người ta làm những chiếc cầu dây treo cho người đi bộ và xe hai bánh có thể đi qua vùng núi bên kia sông. Khi còn cách biên giới gần 100km, xe sẽ qua một quận hạt mang tính lịch sử, đó là Nuwakot (thủ phủ là Bidur – vì có hai địa danh trùng tên Nuwakot ở Nepal), đã bị thiệt hại nặng nề vì nằm gần tâm địa chấn. Con đường liên tỉnh Pasang là một trong vài con đường huyết mạch thông với Trung Quốc. Nuwakot, có nghĩa là 9 pháo đài, chứng tỏ đây là nơi hiểm yếu, xưa kia có thời chắc chắn là chốn màu mỡ cho vị vương đang cai trị vương quốc nhỏ của vùng nay mặc sức thu tiền mãi lộ. Năm 1996, đảng Cộng sản thân Mao ở Nepal đã âm mưu lật đổ ngai vàng bằng chiến dịch “lấy nông thôn bao vây thành thị”, trở thành cuộc nội chiến kéo dài 10 năm. Khi tàn cuộc chiến, Nuwakot trở thành một nơi có lính trấn ngự để phòng… giặc Tàu tràn sang. Những quân nhân này phần nhiều là dân Gorkha nổi tiếng thế giới về sự gan lì, hăng máu đến tàn nhẫn (chính phủ Anh có hẳn một binh đoàn lính Gorkha cho những cuộc chiến sinh tử, còn dao quắm kukri của dân Gorkha là một vật lưu niệm được ưa chuộng). Cũng như tại nhiều quốc gia, Nepal đã bãi bỏ chế độ quân dịch tốn ngân quỹ vô ích – quân đội hiện nay không còn chủ ở số lượng quân lính mà là ở mức độ kỹ thuật tác chiến hiện đại với máy móc. Quân số Nepal chỉ còn rất ít, dùng cho việc bảo vệ biên giới – cho dù chỉ mang tính hình thức, và cho việc tuần tra trong các lâm viên quốc gia, bắt kẻ săn thú cấm hoặc lâm tặc cưa gỗ trộm. Còn cảnh sát? Ngoài đường có nhiều bảng khẩu hiệu “Cảnh sát, bạn ta” (Police my friend), nhưng thực tế chỉ thấy cảnh sát công lộ chỉ đường nơi ngã tư và giải quyết giao thông ùn tắc mà thôi.
![]() |
Cầu treo bắc ngang sông Trisuli tại thành phố Dhading (trái) và một góc Nuwakot hoang tàn đổ nát (phải) |
Pokhara
Tạm ngưng viết về đền chùa, bây giờ mình đi ngược trở lại, xuôi theo dòng Trisuli sang phía tây, men theo quốc lộ H4. Người dân ở Nepal gọi con đường này là xa lộ Prithvi, tên một vị vua của vương quốc Gorkha vào cuối thế kỷ 18, nhiều hàng quán nơi những làng dọc con lộ mang luôn tên này cho dễ nhớ. Quốc lộ H4 men sườn núi chạy dọc theo dòng Trisuli cả trăm cây số, là một đường xa lộ mới được mở rộng thêm. Một bên là vách núi cao vọi, bên kia là vực sâu thẳm đổ xuống con sông. Suốt dọc đường, rải rác quán ăn và tiệm tạp hóa hay quầy bán trái cây mang từ những vườn trong làng quanh đó. Những nơi buôn bán này, khi đường sắp được nới rộng đã được lệnh giải tỏa, phải dời đi, nhưng dời đi đâu bây giờ. Không dời thì bị cắt đứt một khúc mặt tiền, nhiều căn còn thấy rõ dấu phạt ngang của “đội khoan cắt bê tông” như thời mở rộng lộ giới ở Sài Gòn. Những căn đã quá sát bờ vực thì chẳng còn cách nào khác hơn là dời thêm ra, làm thêm bộ đà xéo bằng gỗ chống vào vách núi để bợ, căn nhà nằm meo một nửa giữa trời, nhìn là đã thấy nổi gai ốc. Kiểu này chắc chắn có sanh nghề tử nghiệp, nhưng họ chẳng còn cách nào khác. Cả mấy đời sống nhờ người qua lại, nếu trở vào làng thì biết làm gì mà ăn.
Xe di chuyển trên xa lộ phần lớn là xe hàng và xe đò, rất ít xe tư nhân. Hơn nửa số xe hàng mang logo Tata, công ty Ấn Độ này chắc điếc đặc với lời cảnh báo về khói thải từ xe. Năm 2008 hãng này gây chấn động thế giới khi tung ra chiếc Tata Nano 4 cửa với giá chưa tới 2000 đô la. Tôi cố tìm xem chiếc này hình dạng ra sao, nhưng sau đó mới biết là chiếc Nano chỉ bán trong nội địa Ấn Độ. Dân chúng đi xe gắn máy nhỏ, đường dốc không thể dùng xe đạp. Xe hơi đúng là “xế hộp” hay “xe con”, tức là loại super compact nhỏ xíu vuông vức, hiệu Suzuki hay Daihatsu. Các tài, lơ xe đò Việt Nam và Nepal nên trao đổi kinh nghiệm với nhau: một nước vừa bóp còi thúc đít vừa đập thành xe la hét vang trời, một nước im lặng dùng đèn. Thật thích thú khi nhìn tài xế ở Nepal chạy trên đường, họ luồn lách rất nhanh nhưng với vẻ thong dong kỳ lạ, và hay nhất là nhìn họ ra hiệu với nhau bằng đèn chớp theo cách riêng từ xa để biết sẽ phải nhường đường ra sao, ngay cả khi có xe nhỏ hay xe gắn máy len vô giữa. Một điểm tôi cho là tốt ở Nepal là dọc đường xa lộ có nhiều dãy cầu tiêu công cộng – thường là nằm chung với cây xăng hay quán xá, chỉ có điều phần đông là “xí xổm” hôi rình, may thì có vòi xịt nước và một cái xô nước bên cạnh, xui thì mới bước vào là vội tháo lui. Dù sao cũng còn hơn là phải chui vào bụi. Nhưng đám tài xế xe đò có cái app rất hay, nó cho biết nơi nào sạch, nơi nào có “xí bệt” (bàn cầu ngồi), và họ ngừng đúng chỗ.
Đường cao tốc không có nhiều, khi rời đường xa lộ là vào những con đường lồi lõm đầy ổ gà. Do mưa lũ thường xuyên, đường không được trải nhựa mà lát đá dăm, rồi để xe hủ lô cán qua cán lại cho bằng mặt. Nạn đất chuồi, đường lở… làm xe phải dừng là chuyện thường ngày, mà khổ nhất là không biết chừng nào mới thông. Có lần bị ngừng xe như vậy, thấy mấy bà bưng rổ đựng bánh trái ra bầy ở lề đường và đi chào mời, thì ra họ là dân làng gần đó, biết là khúc này thường bị kẹt cho nên luôn trong tình trạng chuẩn bị kiếm chút tiền lẻ. Nhà cửa thường sơn màu vàng, màu đỏ terracotta hay màu nâu cho tiệp với màu đất núi. Dọc đường, đôi khi thấy những người hành hương chậm rãi đi một mình, quần áo luộm thuộm, vai vác bọc hành trang cột nơi đầu gậy, thấy là nhớ ngay đến hình thiền tổ Bồ Đề Đạt Ma.
(Còn tiếp một kỳ)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét