Thứ Năm, 4 tháng 4, 2019

TS. Balazs Szalontai: Hà Nội-Bình Nhưỡng qua thăng trầm thời Chiến tranh Lạnh

TS. Balazs Szalontai Gửi cho BBC từ ĐH Korea, Hàn Quốc

Một áp phích tuyên truyền của Bắc Hàn về mô hình 'chủ thể'

Cả hai tiến hành đấu tranh vũ trang chống Mỹ và đối thủ miền nam. Cả hai, ít nhất trong một thời gian, cố gắng tránh bị kéo vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô. Xét về chính trị, văn hóa, ý thức hệ, Bắc Hàn có điểm chung với Bắc Việt Nam hơn bất kỳ nước nào khác. Cả hai đều là nhà nước cộng sản thành lập bên trong các nước châu Á bị chia cắt.



Liệu Bắc Hàn có thể trở thành một Việt Nam khác? 


Những điểm chung này giúp dẫn tới quan hệ hợp tác giữa Bắc Hàn và Bắc Việt, đạt đỉnh cao giai đoạn 1965-1967. 

Tuy vậy, lãnh đạo hai nước không phải lúc nào cũng thuận hòa. 

Muốn Mỹ 'mắc kẹt' ở Việt Nam 


Lần đầu tiên, các lãnh đạo Bắc Hàn đặc biệt xem trọng sự kiện ở Việt Nam là năm 1962-1963. Trong mắt họ, sự phát triển của phong trào du kích ở Nam Việt Nam chứng tỏ chiến tranh cường độ thấp có thể gây hại cho kẻ thù mà không khiến Mỹ đáp trả hạt nhân. 

Bắc Hàn quyết định dùng chiến thuật tương tự chống chế độ độc đoán Park Chung Hee. Nhưng họ đối mặt thách thức lớn: đội quân xâm nhập vào Nam Hàn không thể tìm được sự ủng hộ của dân chúng như du kích ở Nam Việt Nam. 

Do điều kiện ở Nam Hàn không thuận lợi để nuôi dưỡng cách mạng quần chúng chống chính thể Park, Kim Nhật Thành quyết định tận dụng chiến tranh Việt Nam. 

Đến cuối 1966, số quân Mỹ ở Việt Nam đã là 385.000. Trong hoàn cảnh này, Washington ít có khả năng có hành động quân sự ở Triều Tiên hơn. 

Kim kết luận nếu Mỹ kẹt cứng ở Việt Nam, ông có thể tấn công đánh quỵ chính quyền Nam Hàn. 

Để đạt mục tiêu này, Bắc Hàn đổ viện trợ quân sự và kinh tế vào Bắc Việt. Thậm chí nước này điều một số phi công chiến đấu tham gia chiến đấu chống không quân Mỹ. 

Trong ba năm, giới lãnh đạo Bắc Hàn và Bắc Việt xem nhau như đồng minh tin cậy nhất. Nhưng niềm tin không kéo dài lâu.

Chủ tịch QH VN, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đón ông Kim Jong-un cuối tháng 2/2019 ở Hà Nội trong chuyến thăm chính thức 

Tháng Giêng 1968, Bắc Hàn dùng đặc công đánh vào phủ tổng thống Nam Hàn định giết Park Chung Hee.

Khi vụ này thất bại, Bắc Hàn bắt giữ tàu tình báo Mỹ Pueblo để đánh lạc hướng chú ý. Đây là lần đầu tiên các viên chức Bắc Việt nói với các đồng chí Đông Âu rằng họ không hài lòng về Bình Nhưỡng. Có thể vì vụ tàu Pueblo khuyến khích Mỹ động viên lính dự bị và điều thêm lính tới vùng Viễn Đông.

Tháng Năm 1968, đến lượt Bắc Hàn bực mình.

Theo họ, việc mở đầu đàm phán hòa bình ở Paris nghĩa là Mỹ có thể bớt quan tâm Đông Dương và xoay sang bán đảo Triều Tiên. Lo lắng muốn giữ Mỹ ở Việt Nam, họ liên tục kêu gọi tiếp tục đấu tranh vũ trang, và bày tỏ nghi ngờ về tính khả thi của giải pháp thương lượng.

Giảm viện trợ


Quyết tâm chấm dứt chiến tranh sớm, phía người Việt giữ lập trường vừa đánh vừa đàm, trong khi Bắc Hàn nhanh chóng giảm bớt viện trợ cho Hà Nội.

Tệ hơn, thái độ thù địch của Bắc Hàn với hòa đàm Paris giúp Bắc Hàn đạt thân thiện với Trung Quốc, gây hại cho Hà Nội.

Giai đoạn 1966-67, Bắc Hàn và Bắc Việt đoàn kết trước sức ép Trung Quốc. Nhưng năm 1969, Bắc Hàn bắt đầu tách khỏi Hà Nội, hướng tới Bắc Kinh.

Khi xảy ra nội chiến Campuchia (1970-75), Kim Nhật Thành ủng hộ kế hoạch của Trung Quốc muốn tạo ra mặt trận thống nhất Bắc Hàn - Việt Nam - Lào - Campuchia - Trung Quốc. Kim nghĩ rằng nội chiến Campuchia và kế hoạch mặt trận năm nước sẽ đem lại điều tốt hơn, vì chúng bảo đảm Trung Quốc tích cực tham gia đấu tranh chống Mỹ.

Nhưng lãnh đạo Bắc Việt nghĩ khác.

Theo họ, bước đi của Bình Nhưỡng thách thức vai trò chủ đạo mà Bắc Việt xem là của mình ở Đông Dương. Trong một khối do Trung Quốc dẫn dắt lại không có Liên Xô, ảnh hưởng của Hà Nội sẽ bị Bắc Kinh che khuất.

Ngoài ra, Trung Quốc và Bắc Hàn muốn hỗ trợ quân sự trực tiếp cho du kích Khmer Đỏ, thay vì chuyển vũ khí qua đường Bắc Việt giống Liên Xô đã làm. Vậy là nội chiến Campuchia tạo ra hai tam giác thù nghịch: trục Bắc Hàn - Campuchia - Trung Quốc đối lại với liên minh Lào - Liên Xô - Việt Nam.

Lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng không thích thú với cuộc đối thoại (tuy chết yểu) giữa Bắc Hàn và Nam Hàn. Ngày 4/7/1972, chính phủ hai miền Triều Tiên ra tuyên bố chung kêu gọi "thống nhất đất nước". Có thể lo ngại của Việt Nam là một khi Bắc Hàn chấp nhận Nam Hàn là đối tác thương lượng, Mỹ có thể dùng đối thoại Triều Tiên làm tiền lệ hối thúc Hà Nội thương lượng song phương với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Ngày 23-26 tháng Giêng 1973, phái đoàn Bắc Việt của phó thủ tướng Lê Thanh Nghị thăm Bắc Hàn, nhưng chủ nhà đón tiếp lạnh nhạt. Bắc Hàn từ chối cấp gạo và vũ khí cho Hà Nội. Nhưng Bắc Hàn nói "uy tín quốc tế" của Bắc Hàn khiến hai nước cần ra tuyên bố chung giả mạo rằng Bắc Hàn hào phóng viện trợ cho Việt Nam.

Sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa ngày 19/1/1974, Bắc Hàn là một trong số rất ít nước chính thức công nhận đây là lãnh thổ Trung Quốc.

Sau 1975, chưa hòa thuận


Chiến tranh Việt Nam kết thúc không giúp hai chính thể cộng sản hòa thuận trở lại.

Ngược lại, nó tạo ra vấn đề mới.

Báo chí Bắc Hàn viết tương đối ít về chiến thắng của Bắc Việt, trong khi giới chức Bắc Hàn, trong chốn riêng tư, phàn nàn rằng Mỹ, sau khi bị đá khỏi Nam Việt Nam, nay tăng cường kiểm soát Nam Hàn.

Một điểm bất ngờ khi Bắc Việt chiếm Sài Gòn là họ bắt được bốn nhà ngoại giao Nam Hàn.

Việt Nam không cho bốn người này ra đi, nhưng cũng không giao cho Bắc Hàn.

Bắc Hàn muốn trao đổi nhóm này với các điệp viên miền bắc bị giam ở Nam Hàn.

Rốt cuộc, Việt Nam tổ chức đàm phán với hai phía Triều Tiên ở đất trung lập. Đối thoại ba bên diễn ra ở New Delhi mùa hè 1978.

Khi Nam Hàn đề nghị Bình Nhưỡng trao danh sách điệp viên mà Bắc Hàn muốn trao đổi, Bắc Hàn không chịu nêu tên ai với lý do nếu công bố tên thì hóa ra thừa nhận những người này làm gián điệp. Bắc Hàn làm tình hình thêm phức tạp khi đòi trả 70 tù nhân đổi lấy một người Nam Hàn.

Rốt cuộc, Việt Nam thấy không thể trao đổi với Bình Nhưỡng nên quyết định đơn phương và vô điều kiện thả bốn tù nhân.

Vào thời điểm này, Bình Nhưỡng và Hà Nội còn căng thẳng vì Campuchia. Hà Nội không thích thú gì khi tháng 9/1977, Pol Pot thăm cả Trung Quốc và Bắc Hàn. 

Trong nhiều năm Bắc Hàn theo chính sách đề cao quân đội nhưng gần đây đã chuyển sang nhấn mạnh phát triển kinh tế

Căng thẳng lên đỉnh cao mùa đông 1978-79, khi Việt Nam tiến vào Campuchia để lật đổ Pol Pot. 

Ngày 13/1/1979, tờ báo chính thức của Bắc Hàn, Rodong Sinmun, lên án cuộc xâm lăng của Việt Nam. 

Tháng Hai năm đó, khi Trung Quốc mở "chiến tranh trừng phạt" Việt Nam, báo chí Bắc Hàn thậm chí còn không đả động sự kiện. 

Trong thập niên 1980, lãnh đạo Bắc Hàn đòi quân Việt Nam rút khỏi Campuchia. Tại các cuộc họp của phong trào Không Liên kết, họ đòi Campuchia được đại diện bởi chính quyền Pol Pot, và thậm chí đòi đuổi Việt Nam ra khỏi tổ chức. 

Sau khi Việt Nam rút khỏi Campuchia, sự kiện này rốt cuộc xóa bỏ trở ngại trong hợp tác Bắc Hàn - Việt Nam. 

Nhưng do thời gian thù địch của Bắc Hàn, Việt Nam ngày càng không chịu ủng hộ Bình Nhưỡng chống Seoul. 

Ngược lại, Hà Nội bắt đầu xem Nam Hàn là đối tác kinh tế và mô hình tiềm năng cho Đổi mới. 

Sau khi Trung Quốc thành lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc tháng 8/1992, Hà Nội nhanh chóng ký Tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Seoul ngày 22/12/1992. 

Quan hệ Việt - Triều từ đó chuyển sang một bước mới, thành quan hệ tay ba với cả Hàn Quốc.