Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2019

Nguyễn Đức Tùng: Lưu Quang Vũ, Càng Thương Yêu Càng Không Vừa Ý (Tiếp theo và hết)

Chúng ta cũng yêu quý điều gì ở Lưu Quang Vũ? Lòng khao khát tự do. 

Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển 
Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông 

Tự do của Lưu Quang Vũ có tính riêng tư hơn và vì vậy mà tuyệt đối hơn. Khi đọc lại thơ ca miền Bắc cùng thời, tôi có ấn tượng rằng hình như anh là nhà thơ hiếm hoi, vào thời điểm ấy, đi ngược lại các quy ước, thể hiện ý chí cá nhân, rẽ sang một lối hoàn toàn khác từ nền thơ đại chúng. Đi xa đến nỗi cũng còn lâu nhiều nhà thơ hôm nay có thể theo kịp. Trước hết, sớm muộn gì anh cũng vượt qua thói quen sáo rỗng của chính mình, kiểu như trong: 

Con ngựa gầy phiêu bạt thảo nguyên xa 

Vượt qua không khí tù hãm, nhìn thẳng vào cô đơn, tự làm mới vết thương tâm hồn, do đó làm mới niềm hy vọng đối với ngôn ngữ. Thoạt đầu anh cũng tham gia chiến tranh như nhiều người khác, trong xã hội ấy: hồn nhiên, tin tưởng, mơ mộng. 

Chùm nhãn chín cành cao rạo rực
Sắp gặp nắng nhựa dồn nên nhãn thức
Ta cũng bồi hồi trong đêm bâng khuâng:
Ừ xa nhà đánh giặc đã hai năm
(4. 1967) 

Tuy nhiên trong dàn đồng ca của thời đại mình, Lưu Quang Vũ dần trở nên một tiếng nói riêng lẻ, độc lập, cô độc. Điều gì đã làm cho anh nhận ra chiến tranh là trò chơi vô nghĩa, tội ác của nó không thuộc riêng bên nào, thế lực nào? Tôi nghĩ rằng chưa phải là kiến thức, hay dũng cảm, mà chính là lương tâm. 

Chúng mình không có bom nguyên tử
Chỉ có thuốc lào hút với nhau
Thương nhà thương nước thương cho bạn
Không khóc mà sao cổ nghẹn ngào

Thôi nhé mai này tiễn Khánh đi
Đường xa bom phá tàu không về
Lênh đênh ai hát ngoài song cửa
Bài ca thanh bình đêm cũ 

Bài thơ xúc động, buồn phiền, viết trong tăm tối lại toát lên ánh sáng kỳ lạ của lòng yêu đời, của trái tim sớm tổn thương, sự nổi loạn trong sạch. Ngôn ngữ phản ánh hiện thực nhưng nó còn là tiếng nói của những thế giới tư tưởng khác. Là hiện thực được làm thay đổi, được tăng cường, một thứ thời gian được uốn khúc, nén lại. So sánh giữa ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày và thơ ca là một trong những bước đầu tiên nếu bạn muốn đi tìm thi tính của ngôn ngữ. Về sau với sự phát triển của thơ hiện đại và hậu hiện đại, biên giới giữa văn xuôi và thơ lẫn lộn, sự so sánh ấy bớt quan trọng đi, nhưng không phải không còn ý nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thơ xuất hiện trước văn xuôi vì thơ là tiếng nói của cảm xúc. Xung quanh một chữ hay một nhóm chữ, mỗi nhà thơ tạo ra một trường liên tưởng. Trường liên tưởng là nghĩa có sẵn và nghĩa bổ sung của một chữ, nghĩa đen và nghĩa bóng, nghĩa từ điển và nghĩa văn hóa. 

Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường

Thơ Lưu Quang Vũ chưa hẳn là thơ phản kháng. Thời đại của anh chưa chuẩn bị cho điều ấy. Khuynh hướng tỉnh thức và phản kháng của anh sau này sẽ rõ hơn nữa, trong thể loại kịch nói, lĩnh vực mà anh nổi tiếng như tác giả tiên phong. Thơ anh cũng không có khuynh hướng châm biếm, hài hước. Anh dành thì giờ và sức lực của mình vào việc thức tỉnh, mở thông những tương tác giữa mình và bè bạn, người cùng thời, trò chuyện với họ, thuyết phục họ. Là nhà thơ hiện đại, anh dấn thân, can dự vào đời sống. 

Gió thổi qua ngôi nhà tối
Mùa đông cây gầy lá rơi
Mùa đông bao nhiêu người chết
Tiếng súng tiếng loa gầm thét
Đêm dài buồn bã nhớ em

Đó là một loại thơ bi đát, nhưng không chán nản. Anh là người đi xuyên qua nhiều biến động lịch sử và xã hội, mặt đầy bụi, quần áo lấm lem. Đọc thơ, tôi tin rằng anh có đời sống dân dã, hòa mình giữa đám bình dân, cũng có thể là một người lao động lam lũ thực sự. 

Thành phố đang thời hỗn loạn
Nghèo túng lọc lừa bội phản
Giết người trộm cắp khắp nơi
Con người nói với con người
Những lời hằn thù sỉ nhục
Chiều nay bốn bề mưa xám
Ra đi, anh vẫn một mình

Sự đòi hỏi thanh sạch ấy dĩ nhiên là quá đáng, đối với một xã hội như xã hội mà anh sống. Nó yêu mến những điều tan vỡ, nó tìm kiếm trong tro tàn, thức giấc giữa tiếng khóc, đi tìm lại cho dân tộc tuổi thơ ban đầu. 

Em mảnh mai dưới chiếc áo mưa
Đôi giày lấm bùn, nếp nhăn khoé miệng
Buổi ra đi nào ai ngờ được
Chiến tranh kéo dài hết tuổi trẻ ta 

Sự đánh giá những thành tựu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ phải được đặt trong bối cảnh của thời đại anh sống, cảm hứng và hạn chế của nó. Đối với nhiều người, thơ anh có thể đã cũ hoặc tên anh đã được nói đến nhiều trên báo chí. Thực ra, suy tưởng thơ ca của Lưu Quang Vũ vẫn mới, bất an, kháng cự, đầy viễn mơ. Chưa chắc đã đúng nếu gọi anh là nhà thơ phản chiến, nhưng có lẽ anh không xa lạ với khái niệm ấy. 

Bạch Mai, Yên Viên, Vọng, Láng, An Dương
phố đầy khăn tang
đêm không đèn tối mịt
chúng tôi ngồi bên nhau chờ cái chết
người các ô lên nằm ngủ vườn hoa
gió cuối mùa xót xa
thổi xoã tóc đoàn người chạy giặc
những dòng người kéo đi xé ruột
đội chiếu, ôm chăn, đeo làn, vác bọc 

Thơ là một phần của sự tìm kiếm trong chiến tranh, sự mô tả trung thực, lòng tin ngây thơ và sự nghi ngờ vào ý nghĩa của cuộc chiến, là những kết hợp mâu thuẫn giữa hy vọng và tuyệt vọng. Và khi anh nghĩ: 

đất hai miền đạn hai phe cày nát
con người ơi xin con người tỉnh thức
xưa thấp bé trước nhỏ nhoi đích hẹp
nước Việt thân yêu nước Việt của ta
sao người phải chịu nhiều đau đớn thế
thân quằn quại mọi tai ương rách xé
con nghẹn ngào nhìn mẹ, mẹ yêu ơi 

Thì từ phía khác, một đồng bào của anh, cầm súng, cũng viết: 

Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể nào vui tiếp rước hoà bình
Đêm đen quá dài nên người quá khác
Không thể nào tin sẽ có bình minh 

(Nguyễn Bắc Sơn) 

Lưu Quang Vũ vừa hướng nội vừa vị tha, vừa trầm tư chiêm nghiệm nhưng cũng thừa khả năng giao tiếp. Anh có khả năng tự quên mình đi, đánh mất mình trong các đối tượng của sự quan sát, đôi khi chăm chú lạ thường, đôi khi lơ đãng. Một nỗi ám ảnh không nguôi đối với trách nhiệm xã hội, có lẽ là dày đặc hơn trách nhiệm tình yêu. Đó là một người thơ kỳ lạ, đôi khi khó hiểu, nhân hậu nhưng khó tính, thông minh nhưng rất người. Giữa các câu thơ mượt mà là nổi giận tỉnh thức. 

Ta đã làm gì? như lũ viết thuê
Chạy theo những biển hàng ngắn ngủi
Những khuôn phép những trang in những hư danh một buổi
Ta nịnh người để người lại khinh ta
Sớm già cỗi, cố quên đi phẩm cách
Muốn yên thân ta trở thành hèn nhát
Nhân dân có cần thơ của ta đâu ? 

Do hoàn cảnh chiến tranh và chia cắt, người Việt ở miền Bắc và miền Nam là những thực thể xã hội biệt lập, văn chương của họ cũng biệt lập. Lưu Quang Vũ viết trong một xã hội khép kín, thời chiến tranh, nơi mà phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, thứ mà ngày nay nhiều người muốn mau chóng quên đi, và các tác phẩm xô viết, cổ điển Nga, và phần nào, mặc dù ít hơn một cách đáng ngạc nhiên, văn học Đông Âu và Trung quốc, hoàn toàn làm chủ tình hình, chi phối sáng tác đến tận gốc rễ. Trong bối cảnh ấy, viết như anh, như trong bài thơ "Nói với mình và các bạn", và trong nhiều bài khác nữa, tâm tình, tranh luận, là kỳ lạ. Trong một cấu trúc liên tục, câu dài ngắn khác nhau, tác giả mô tả hoàn cảnh, sự kiện, quan sát, một nơi chốn và một khí hậu, và từ đó vượt ra để có cái nhìn phóng chiếu về mình và người. Chúng ta đọc thấy ở đó lời trách móc nhẹ nhàng, sự phán đoán sắc sảo mà đôi khi ngôn ngữ không theo kịp, vượt lên tất cả là nhận thức xã hội đi trước thời đại, sự thất vọng đối với tha nhân, tiếng thở dài được kìm nén về khung cảnh chiến tranh và tù đọng, tù đọng và chiến tranh. Sử dụng những câu nhiều mệnh đề, lối nói lơ lửng, làm cho câu thơ thay đổi như hơi thở, như sự chuyển động vật lý của một người nói đứng trước chúng ta, làm cho tâm hồn anh có mặt như một thân xác. 

Tối đen thành phố đêm lưu lạc
Máy bay giặc rít ở trên đầu
Ba thằng da vàng ngồi uống rượu
Mặt buồn như sỏi dưới hang sâu 

Thơ thế sự dùng ngôn ngữ có tính tuyệt đối, của đối lập, mâu thuẫn, tương tác. Thơ chính trị tham gia vào phân loại, phân chia thế giới ra thành những khoảng hẹp hơn, các dân tộc, các lớp người, các đẳng cấp, thậm chí những người tốt và những người xấu. 

Nhà văn xưa tôi yêu mến mê say 
Nay già lão được chính quyền sủng ái 
Lưng còng xuống quên cả lời mình nói 
Phản bội những điều trong cuốn sách thiêng liêng 

Thơ có thông điệp và đó vừa là ưu điểm vừa là khuyết điểm. Đó là những suy nghĩ dằn vặt của một người ý thức về những ngày đen tối sẽ tới, với một giọng nói thân mật nhưng nghiêm khắc. Tin tưởng vào một người nào, là chúng ta tự đặt mình vào vị trí có thể bị tổn thương, nhưng tính chất dễ bị tổn thương lại tạo ra giá trị của lòng tin. Lòng tin, lòng dũng cảm đi với nhau, mang con người lại gần nhau. Bài thơ chống lại thói quen lãnh đạm trong một xã hội có nhiều biến động, các mối ràng buộc tan vỡ, cô đơn, mệt mỏi. Nếu ở một số nhà thơ khác, việc tách rời văn bản và tác giả đôi khi có thể làm được, thì ở Lưu Quang Vũ, điều này khó khăn. Chính đời sống của tác giả, tiểu sử, các chi tiết có thật, tình yêu, hôn nhân, gia đình, sự tan vỡ hôn nhân, mối quan hệ với nhà thơ Xuân Quỳnh, đến các quyết định có tính xã hội như nhập ngũ và tự động rời bỏ quân ngũ, bất chấp kỷ luật, một thái độ chống chiến tranh rõ ràng, sự trở lại với đời sống văn học, tham gia vào sân khấu một cách sôi động, tất cả những điều ấy bổ sung vào việc cắt nghĩa các bài thơ của Lưu Quang Vũ. Tuy tác phẩm nghệ thuật không phải là đời sống, vì đời sống đầy rẫy những ngẫu nhiên, mọi chi tiết trong văn chương vẫn cần giải thích. Những câu hỏi có tính nghệ thuật mà anh nêu ra chắc chắn vẫn còn đó, không mất đi và không cạn kiệt, khi chúng ta chiếu vào nó ánh sáng của phân tích hôm nay. 

Có những lúc tâm hồn tôi rách nát
Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu? 

Câu thơ là lý do để người đọc muốn đọc câu thơ kế tiếp nó. Lực hấp dẫn ấy tạo ra động lực của bài thơ. Hình ảnh của Lưu Quang Vũ phong phú, thay đổi, như trong bức tranh của một họa sĩ sử dụng nhiều màu sắc, nhiều góc nhìn. Tôi nghĩ anh cũng có tài năng hội họa, mặc dù không biết trong đời thực, anh có vẽ không? Trong bài thơ "Viết cho em từ cửa biển", màu sắc được pha chọn lọc, đẹp, có màu sáng tươi, có màu tối ảm đạm, có tiếng khóc và tiếng cười. Đó là bài thơ nửa hiện thực nửa siêu thực, dồn dập, âm điệu xô đẩy nhau tạo ra cảm xúc tựa như ảo giác. Thông tin trong thơ tạo ra luồng chảy, mặc dù chữ đã được viết xong, các câu đã kết thúc, thế mà khi đọc bạn hình dung sự mở ra, tiên đoán, sự tham dự vào. Ngôn ngữ trở thành trò chơi, làm cho mọi thứ nhẹ nhõm, làm cho chúng ta có thể lướt đi trên mặt đất như những đứa trẻ trên mặt băng. Sau khi kết thúc chiến tranh, chắc chắn Lưu Quang Vũ đã vào miền Nam như nhiều người khác, nhưng tôi không tìm thấy những ghi chép đặc biệt nào, sự gặp gỡ của anh và những người làm văn học khác chẳng hạn, những dấu ấn mà chúng để lại trong thơ. Mặc dù thế, anh đã có thể viết về vấn đề hậu chiến rất sớm. 

Quang Trung lên làm vua, người về nhà cày ruộng
Bị lão trương tuần quát nạt cũng run
Nhưng mỗi lần đất nước sắp suy vong
Người đều cứu cỗ xe ra khỏi vực
Đôi khi người nổi giận
Đôi khi thôi, nhưng thật là khủng khiếp
Như gió điên, như nước phá tung bờ
Người vung tay: cung điện ra tro
Người xô khẽ, thế là nhào, vua chúa
Người phân xử công minh ít bữa
Chia áo cơm khắp lượt dân nghèo
Rồi lại về cày ruộng, chăn trâu,
Đơm cá, bế con, nuôi gà, nấu rượu
Như an phận ngù ngờ cam chịu
Mặc những ngài xảo quyệt lăng xăng

Người viết thực sự và người đọc thực sự của thơ ca chịu sức ép của quá khứ: có nhiều khả năng họ sẽ sống một cách khổ sở hơn những cuộc đời phong phú hơn. Tôi nhấn mạnh chữ thực sự. Nhiều người bỏ thời gian để săn đuổi các đề tài. Thật ra đề tài và chất liệu sáng tạo có sẵn ở đó, quanh mỗi người, trong mỗi người. Chất liệu nghệ thuật trước hết là sự quan tâm của người nghệ sĩ đối với cuộc đời. Thơ trữ tình đi tìm sự cô đọng; cô đọng là khả năng tập trung chú ý của bài thơ vào các tình huống, các rung cảm, các xung đột, trong một ngôn ngữ tiết kiệm. 

Mưa ở đây như roi nắng ở đây như lửa
Em là bờ cau xanh
Là quả vườn nhà là chim tu hú
Em yêu chốn này không
Em như sông êm ả một dòng
Có yêu giông trời chớp bể

Nhiều người nói đến tính thơ của một bài văn, một diễn ngôn, thậm chí một sự vật hay một tác phẩm nghệ thuật phi ngôn ngữ như hội họa hay điêu khắc. Tôi cho rằng tính thơ ấy là độ tập trung dày đặc của tính trữ tình, khi các ẩn dụ có thể tác động mạnh mẽ lên người đọc, trong một môi trường tạo ra bởi các giao thoa của âm nhạc và ngôn ngữ. 

Bây giờ là bắt đầu những khó khăn của thời hậu chiến 
Chưa ai dựng nhà trên bãi nền đổ nát 
Nơi máu đổ quá nhiều chưa ai dám trồng hoa 
Chưa ai yêu thương bên huyệt mộ căm thù 
(5. 1975) 

Cấu trúc của một tác phẩm nghệ thuật cũng chia các hành động và các sự vật ra làm hai, những điều khả tín và những điều bất khả tín. Sinh thời hình như Lưu Quang Vũ chỉ in một tập thơ, in chung với Bằng Việt, tập Hương cây - Bếp lửa năm 1968. Đó là sự kết hợp khá vụng về: hai nhà thơ này về sau sẽ đi hai con đường khác nhau. 

Đừng hiểu sai lòng tôi
Làm việc cô đơn thật là quá sức
Sau những lúc bông phèng bên các bạn
Tôi càng thêm buồn chán đến rùng mình
Đã quá nhiều người làm tôi thất vọng 

Nghệ thuật của một xã hội trong một giai đoạn có tính đặc trưng cho xã hội trong giai đoạn ấy. Tính đặc trưng làm cho nghệ thuật ấy trở nên khó hiểu đối với một xã hội khác, hay một giai đoạn khác, không những khó hiểu mà còn tỏ ra xa lạ, đáng ngờ vực. Và trong vài trường hợp, đáng căm ghét. Khác với khoa học kỹ thuật, nghệ thuật không tiến bộ một chiều theo nghĩa ngày hôm sau biết nhiều hơn ngày hôm trước. Nghệ thuật của ngày hôm nay chưa chắc đã sánh được với nghệ thuật của nhiều năm trước, và đôi khi sự khác nhau chỉ là ở tiếp nhận của độc giả, sở thích của thời đại. Sự phát triển của thơ trữ tình trong thời hiện đại làm cho tính chất nhân chứng của thơ mờ đi. Tuy nhiên vì đối tượng của thơ trữ tình là đời sống cá nhân, nó có thể trở thành người ghi lại đời sống tâm hồn của chúng ta, phản ứng chân thật của con người trước tình cảnh lịch sử. Nếu có thời gian để viết nhiều hơn, Lưu Quang Vũ có lẽ sẽ còn nhiều sáng tạo mới mẻ, tìm kiếm những hình thức mới và đầy đủ hơn cho khả năng kiệt xuất của anh đối với sự phân tích thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm, chống lại tính vô mục đích của đời sống, sự trống rỗng của tâm hồn người Việt, sự băng hoại của xã hội. Có một điều gì sâu xa, mạnh mẽ, gần như là ám ảnh về thân phận, có tính siêu hình, chưa kịp bộc lộ trong thơ anh. 

không ai phải chôn giấu điều mình nghĩ
không còn ai đạp lên những mối tình
không còn hàng rào biên giới nhà giam
không còn đứa trẻ móc túi nào để mọi người xúm vào đánh đập

Cảm giác thuộc về cái khác là tình trạng song đôi của tình yêu vị tha. Chủ nghĩa cá nhân khi bị đẩy đến cực đoan trở thành ích kỷ, chỉ có thể được kiểm soát bởi tình yêu vị tha, cảm giác thuộc về, nhu cầu chia sẻ các giá trị. Thơ anh nhiều lời, có nhiều bài mà người khó tính như tôi có thể cắt ngắn được nữa, nhưng chính trong những bài dài như thế, chân dung của một người như anh, trong thời đại ấy, trường hợp ấy, trở nên rõ ràng như vậy, mới có thể "hiểu được" đối với các thế hệ sau. Lưu Quang Vũ là một trường hợp hiếm khi thơ và đời gần nhau, tương thích, lòng yêu mến của người đọc dành cho anh là dành cả cho thơ, cho kịch, cho người, cho vợ con (***).Trong thơ anh có nước mắt, nhưng đó là nước mắt đêm trước của ngày lương tâm đứng lên, ít nhất ở nơi kỳ vọng của Lưu Quang Vũ, cho sự thật và cái tốt đẹp đồng hiện, những điều có lẽ anh chưa kịp nhìn thấy. 

Đừng phút nào mệt mỏi, thơ ta ơi 

Như thế cũng là mệt lắm. Ý tưởng về việc kêu gọi người khác sống cuộc đời có ý nghĩa không phải là một ý tưởng trừu tượng, mà là thôi thúc tự nhiên ở Lưu Quang Vũ, kẻ trải nghiệm. 

Cơ sự làm sao đến nỗi này
Mông lung không đoán được ngày mai
Máu chảy thành sông thây chất núi
Bè bạn tan hoang mình rã rời 

Sự thay đổi chất giọng một cách tinh tế trong cùng một bài thơ của Lưu Quang Vũ là điều cần chú ý. Sức mạnh của sự đổi hướng này mang bài thơ đi xa, vượt qua khuôn khổ của nó. Rõ ràng có một nỗi khổ đau, riêng, được nén lại trong đoạn thơ trên. Tất nhiên không phải bao giờ anh cũng khác thời đại mình, đi ngược chiều, nhưng cảm nhận của anh về chiến tranh là cụ thể, trực tiếp. 

Anh và con ở đây 
Tháng sáu trời thật nóng 
Vẫn nỗi lo thiếu ăn 
Vẫn nỗi lo lũ lụt 
Lửa đạn còn cháy bỏng 
Những làng biên giới xa 

Người đọc bao giờ cũng đọc một bài thơ từ kinh nghiệm có sẵn của mình với những bài thơ trước đó, trong khi người làm thơ viết bài thơ ấy từ những cảm xúc và ý tưởng riêng. Khi những cảm xúc và ý tưởng của hai bên, vốn khác biệt nhau, có thể đến gần nhau, trò chuyện cùng nhau, tương tác, bài thơ sẽ là sự sáng tạo. 

Như ngôi sao trên cột buồm trơ trọi
Anh nhìn vào bóng tối
Con tàu đêm nay đi về đâu
Nhớ đôi môi xót đau
Nhớ bàn tay đắm đuối
Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi
Về cuộc đời ghê gớm ta yêu 

Ngôn ngữ có thể gọi tên sự vật, nhờ thế tạo ra sự hiểu biết và chia sẻ giữa người này và người khác, sự tranh luận, đồng tình. Đặt tên, nói ra, than khóc, hát lên, là những thứ mà con người có thể tác động lên hoàn cảnh. Thực ra một tác phẩm văn chương chỉ có thể làm người đọc rung động nếu nguồn rung động ấy đã ươm mầm sẵn trong chúng ta, từng được nung nấu bởi ý chí của chúng ta. 

Con người chưa được làm người
Bao lệnh cấm đang đè lên thế giới
Cấm yêu thương cấm khát vọng cấm tự do
Bao con chim bị nhốt ở trong tù
Bao giải băng đen che kín mắt 

Sống là sống có ích cho người khác. Tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ là một động lực, là sự dịch chuyển các quan tâm, là sự chuyển giao các giá trị. Tình yêu ấy vị tha vì đó là sự tử tế đối với mỗi người, đối với sự sống. Ngược lại, sự dửng dưng, thói vô minh, khởi đầu từ hai nguồn: sự thiếu hiểu biết và sự ích kỷ. 

Thơ sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước cả
Càng thương yêu càng không vừa ý với mọi điều

Như thế, thơ Lưu Quang Vũ thuộc về hôm nay, là tâm hồn và xương thịt của chúng ta, tiếng nói và giấc mơ của chúng ta, là sự bị cầm giữ và sự vượt thoát của chúng ta. 

Nguyễn Đức Tùng 



Chú Thích: 

(*) Di cảo Lưu Quang Vũ, in lần thứ hai, Lưu Khánh Thơ tuyển soạn, NXB Trẻ, 2018. 

"Trong cái nhìn của tôi, Việt Nam có những nhà văn hóa lớn. Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa." (PGS Phan Ngọc) 

(**) ghi theo trí nhớ: "you must write, and read, as your life totally depends on it. 

(***) Di cảo, sách đã dẫn. 

"Hai mươi năm sau ngày anh mất ở tuổi bốn mươi, đọc những bài thơ anh viết tuổi hai mươi thấm đầy máu và lửa, tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ nhân dân, nhà thơ yêu nước." (Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên) 

(ĐỌC THƠ 16)