Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2019

Nguyễn Đức Tùng: Lưu Quang Vũ, Càng Thương Yêu Càng Không Vừa Ý (Kỳ 1)

Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh

Thơ của Lưu Quang Vũ, một nhà thơ quan trọng của những năm sáu mươi, bảy mươi, thế kỷ trước, người có số phận kỳ lạ, là sự kết hợp của hai khuynh hướng khác biệt. Trước hết, đó là phương pháp hiện thực có hơi hướm lãng mạn, phổ biến vào thời ấy. Mặt khác, bắt đầu rất sớm, dòng trữ tình- phê phán của riêng anh, trước đó gần như chưa có ở miền Bắc, nếu tính từ sau Nhân văn- Giai phẩm, một phong trào lúc ấy đã tàn lụi, không những trên các diễn đàn chính thống, mà ngay trong các sáng tạo ngầm của thành viên còn lại, những người sẽ chuyển sự chú tâm của họ về hướng khác. 

Ta lớn lên cửa sổ thay màu
Nghe tiếng chim không thấy mùa nắng nữa
Con thuyền giấy nát nhàu sau trận gió
Thành phố nghèo hơn và cũng buồn hơn 

Nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ là thơ dài, phối hợp giữa tự do và có vần, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong trẻo, rất dễ đi vào lòng người. Trong một số bài khác, nghệ thuật dùng chữ của tác giả rất chọn lọc, khó khăn, nhưng ít được chú ý hơn. 

Tóc em dài như một ngày mỏi mệt 

Tuy vậy, thơ anh không có nhiều những khoảng im lặng, khoảng trống, trái lại chúng là dòng chảy liên tục, phản chiếu một tâm hồn sôi nổi, thích biểu đạt, thuyết phục. Thơ có tư tưởng, có chủ đề, nhưng ngôn ngữ vẫn mượt mà, nhiều so sánh, đáng yêu:

Mưa ở đây như roi nắng ở đây như lửa
Em là bờ cau xanh
Là quả vườn nhà là chim tu hú
Em yêu chốn này không
Em như sông êm ả một dòng
Có yêu giông trời chớp bể

Có nhiều chất giọng lồng vào nhau, như sự đối đáp, sự nâng đỡ. Đôi khi giọng anh dịu xuống, bồi hồi: 

Tháng năm xanh, chúng ta trở về nhà
Cỏ mọc cao trong khu vườn cũ
Cái hốc nhỏ ở trên khung cửa
Vẫn còn nguyên chiếc chìa khóa năm xưa 

Bạn muốn nhắm mắt lại.

Tính giao tiếp trong thơ là một phẩm chất đặc biệt. Hiện thực của Lưu Quang Vũ thường xuyên thay đổi, phong phú, rộng lớn, cho phép nhiều cách tiếp cận. Anh thuộc thế hệ trẻ, bắt đầu nghi ngờ, nhiều bi quan, một phần vì ảnh hưởng của cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu, với tổn thất nặng nề, một phần vì đó là đặc tính của những người trẻ tuổi. Thời kỳ đầu, thơ anh là tiếng nói mơ mộng, có thể nhầm lẫn nhưng trong sáng, đau thương nhưng lãng mạn, lương tâm xã hội quanh anh hãy còn sáng chói. Những bài thơ trữ tình nếu được xếp đặt bên nhau có thể tạo thành chuỗi tự sự, tức là một trình tự tiểu thuyết, nhưng sự liên kết giữa chúng khá mỏng mảnh, cho phép người viết có nhiều tự do, tạo ra những bước nhảy ý thức, tình trạng mất cân bằng. So với các nhà thơ cùng thời, Lưu Quang Vũ chọn được góc nhìn xã hội riêng tư, tự tin, độc đáo, và không ai có thể chia sẻ với anh phẩm chất quan trọng này, xét trong toàn bộ sự nghiệp. 

Khi bè bạn gặp nhau có người theo dõi
Thầm thì không dám nói to
Khi những bài thơ anh viết ra
Chỉ một mình anh đọc

Những câu thơ ấy được viết xuống khi anh còn rất trẻ. Đó là thời kỳ sung sức, mới lạ như buổi sáng một ngày, ngôn ngữ thức dậy cùng với tình yêu, trí tuệ của bạn. Thơ là biểu hiện của người nói, tác giả, nhưng sau cùng vẫn là sự đáp ứng của người đọc, nơi bài thơ được gửi tới, nhưng bây giờ chỉ một mình anh đọc. Ngôn ngữ, tức là chữ, cấu tạo nên bài thơ. Người nào không biết dừng lại lâu ở chữ, người ấy không thể là người đọc. Bạn có thể lướt qua một trang báo, tóm tắt một tài liệu khoa học, nhưng bạn không thể lược giản một ngôn ngữ thơ ca, vốn tạo ra sự tưởng tượng, nâng đỡ sự so sánh bằng hình ảnh. Lòng dũng cảm mang người viết đến gần với độc giả và chất liệu nghệ thuật của họ. Họ cần một độ gần để xúc động và cần một quãng lùi để đè nén các xúc động ấy. 

Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều
Rách tan cả những làn sương đẹp phủ
Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá
Điều em tin là nhảm nhí mà thôi 

Trong một xã hội nhiễu nhương, một bài thơ không thể không mang ý nghĩa, trong một thời kỳ mà nhân phẩm dễ bị xúc phạm, bài thơ viết cho chính mình cũng viết cho đám đông. Thơ không chỉ mô tả sự thật mà nêu câu hỏi, kéo dài thời gian của một ngày, thay đổi định nghĩa một đời sống, thách thức những giá trị đã xác lập và vì vậy mời gọi sự đọc lại. 

Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật
Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt
Không cho ta lảng tránh
Đập cửa mọi nhà
Đứng ở mọi ngã ba
Không hát ta say mà lay ta thức 

Thơ Lưu Quang Vũ có các chủ đề: tình yêu, chiến tranh, thế sự. Anh chú ý nhiều đến khía cạnh đạo lý của người Việt Nam. Ngay từ những năm sáu mươi, khuynh hướng thế sự đã tỏ ra sắc bén ở Lưu Quang Vũ. Không có gì đáng ngạc nhiên là sau đó, những năm tám mươi, anh trở thành nhà viết kịch lừng lẫy (*). Lương tâm của người viết, ý thức công dân làm nên động lực của những vở kịch cũng như thơ của anh. Adrienne Rich: bạn phải viết, và đọc, như thể đời sống của bạn hoàn toàn phụ thuộc vào điều ấy (**). Câu nói ấy đúng cho Lưu Quang Vũ. Một ý thức về dân chủ, ý thức công dân, vốn dễ phát triển trong một xã hội ổn định lâu dài, đã xuất hiện ở anh ngay trong thời chiến và sau đó. 

Ta viết những suy tư ngây ngô vờ là trí tuệ
Những câu nhạt phèo chiếu lệ
Những lời nhàm tai ai cũng quen rồi
Mọi người quanh ta mang nỗi khổ oằn vai
Ngược đất nước tai ương xé rách
Ta viết mãi những điều vô ích
Vô duyên sao ta cứ nhoẻn miệng cười
Như phường bát âm thánh thót
Mong cuộc đời xuôi tai

Thơ anh có nhiều bài dễ thuộc, dễ nhớ. Bài "Viết cho em từ cửa biển", nói về khả năng và bất khả, ao ước và thất vọng, sự gắn bó và rời bỏ, về khát vọng tự do, không phải là thứ tự do bị đánh đồng với khái niệm tập thể chung chung, mà là tự do cá nhân rõ ràng. Nếu một bài thơ có khả năng làm rung động người đọc, thì đối với người đọc ấy, trong hoàn cảnh ấy, bài thơ có tính liệu pháp. Chúng mang bạn đi qua ngày bão tố, tới một căn nhà mà bạn từng rời bỏ thuở ấu thơ, lạc đường về. Căn nhà của nhân loại là tự do. Thơ anh làm chứng, chống lại im lặng của xã hội. 

Hải cảng trụi trần như bắp thịt
Ròng ròng mồ hôi
Mọi phía phơi ra dưới mặt trời
Cao thượng xấu xa đều không giấu được
Con người ở đây vô cùng cơ cực 

Bài thơ dài như một trường ca ngắn, với ngôn ngữ trữ tình phổ biến thời ấy, là một trong những bài thơ có thể vượt thời gian. Tiến độ của bài thơ, tempo, một khái niệm trong âm nhạc, nói về tốc độ nhanh hay chậm của giọng nói vang lên trong tâm trí người đọc. Tiến độ nhấn mạnh đến tâm trạng, thái độ, phong cách cư xử, phối hợp với tình trạng nhận thức và sự xúc cảm mà bài thơ mang lại. Về phương diện khác, tiến độ chính là hình thức ràng buộc về âm luật nhưng khó nhận ra hơn, ví dụ số câu cố định trong một chữ, sự hiệp vần. Một tiến độ nhanh như trong bài thơ này làm các câu thơ dính liền nhau, các chữ đi san sát. Đọc một câu như thế, bạn có thể thấy lượng thông tin dồn dập, nhịp thở mạnh, sức suy nghĩ táo bạo. Ngược lại, một câu thơ chậm rãi là do một cấu trúc có tiến độ buông thả, nhẹ nhõm, giàu suy nghĩ, ít hành động. Bài thơ "Viết cho em từ cửa biển" có nhiều khúc chuyển, điểm uốn, là nhờ sự thay đổi các tiến độ. Thay đổi tiến độ cần kéo theo sự thay đổi về giọng điệu tác giả. Các câu thơ dài có nhịp nhanh, câu ngắn nhịp chậm. Câu thơ ngắn thuộc về thức điệu trầm tư, câu dài thuộc về thức điệu bày tỏ, thuyết phục, tranh luận. Trong một bài thơ dài, sự lặp đi lặp lại các đề tài, các lối nói, các chữ không những không tránh được mà thực ra cần thiết. Chúng tạo ra sự tăng cường, cô đọng, mài sắc một ý tưởng. Sự tăng cường tiến độ một cách tự nhiên là kết quả của sự vận động tự nhiên của các câu thơ, nhiều khi vượt ra ngoài kiểm soát của tác giả. Trong những bài thơ dài, như của Lưu Quang Vũ, sự ngắt câu trở nên quan trọng trong mối quan hệ của nó với tiến độ, cũng như khi một người lái xe thật nhanh, sự đạp thắng, các khúc uốn trở nên quan trọng trong việc kiểm soát tốc độ. Tuy nhiên tất cả những yếu tố kỹ thuật mà tôi vừa nhắc đến, một cách không đầy đủ, đều phải dựa vào yếu tố quan trọng bậc nhất là ý tưởng và nội dung xuyên suốt bài thơ, chính ý tưởng ấy làm nền, quyết định cho tốc độ vận động và giọng nói của người nói. Nếu bạn nghĩ rằng tiến độ tăng lên ở thành phố, giảm đi ở nông thôn, tăng lên với tuổi trẻ và giảm đi với tuổi già, tăng lên với hoài bão và giảm đi với thất vọng, bạn sẽ nhìn thấy trong một bài thơ của Lưu Quang Vũ, như trong bài "Nói với mình và các bạn", tất cả những điều ấy: thiên nhiên mà anh sống, tuổi trẻ mà anh trải qua, hoài bão và thất vọng, nhiệt tình nóng bỏng và trầm tư sâu sắc. 

Đã qua cái thời nhà thơ nhìn đời bằng con mắt trong veo
Con mắt xanh non ngỡ ngàng như mắt trẻ
Hát cái lá mùa xuân ca lời chim son sẻ
Thơ tươi mát cuộc đời và an ủi lòng ta
Nhưng đến nay tất cả đã vỡ ra
Giữa tàn bạo hư vô giữa đấu tranh khốc liệt
Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật
Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt
Không cho ta lảng tránh
Đập cửa mọi nhà 

Không phải là lúc nào anh cũng tránh được sự sáo rỗng, lặp lại chính mình. Giữa những bài thơ xuất sắc, có nhiều bài còn dưới trung bình, ý tưởng không mới, cách viết dễ dãi. Tuy nhiên toàn bộ cách tiếp cận của anh đối với hiện thực, ý tưởng làm mới chính hiện thực ấy, sự đánh giá lại các giá trị thực và ảo của chiến tranh, khả năng nắm bắt lịch sử đầy tài năng, các giá trị đạo đức mà anh sở hữu, các hình ảnh mà tâm hồn anh thu giữ, sự khốn khổ của lòng yêu sự thật, tất cả những điều ấy làm cho thơ Lưu Quang Vũ có khả năng lay động lòng người. Hãy nghe anh viết về chiến tranh: 

Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông 
Khói xám phủ những toa tàu mù mịt 
Tờ báo cũ rơi trên chồng gạch ướt 
Người bẻ ghi râu bạc đứng im lìm 
Như một bức tranh tĩnh vật mà vẫn sinh động, nhiều tín hiệu. 

Thơ hay cũng là một hình thức của giáo dục đối với các thế hệ đến sau, rao giảng lịch sử, tất nhiên không phải như những bài giảng trong nhà trường. Thơ là diễn dịch một bài thơ khác, là sự biến đổi của một bài thơ trước đó, là sự viết lại một cách khác, câu chuyện được kể lại bởi một người khác, giọng nói khác. Các nhà thơ đều đi tìm chất liệu sáng tạo của mình không những trong đời sống mà còn trong tác phẩm thời trước. Chất liệu ngôn ngữ của Lưu Quang Vũ là một chất liệu thành phố, mặc dù anh có nhiều bài viết về thôn quê, hay "phố huyện" nhỏ, đời sống nông dân, các liên tưởng làng quê. 

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Ống tre ngà và mềm mại như tơ 

Ở một số nhà thơ Âu Mỹ, sự lo lắng chịu ảnh hưởng lẫn nhau thể hiện rõ rệt, điều này hình như không đặt ra ở các nhà thơ người Việt. Lưu Quang Vũ viết với giọng sôi nổi nhưng khách quan, giữ một khoảng cách giữa tác giả và người đọc, nhờ vào việc sử dụng vần điệu vừa phải, các câu thơ tự do dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên khi làm thơ có vần, anh chưa có ý thức thoát ra khỏi các quy luật của chúng, như các nhà thơ khác, sau này. 

Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già 

(bài Tiếng Việt)

Thơ như thế hãy còn cũ kỹ. Truyền thống trong văn chương không phải chỉ là quá khứ, đó là một gia sản sống động, một sinh thể, và các nhà thơ có ý thức nghề nghiệp tìm đến với chúng để lắng nghe, để học tập, để sửa đổi. Chỉ có một nền thơ dựa trên tinh thần như thế mới có thể phát triển, tự làm mới, đi xa. Câu chuyện kể trong một bài thơ là cảm hứng tự sự được biến đổi đi dưới áp lực trữ tình. Câu chuyện không phải là diễn tiến theo thời gian của một sự việc mà là sự sắp xếp chủ quan của người viết, tái tạo một hiện thực đã xảy ra hay giả định xảy ra. Chúng ta trình bày đời sống của chúng ta, tình yêu và phản bội của chúng ta, niềm hân hoan và thống khổ của chúng ta, sự vâng lời ngu muội và tính phản kháng rực rỡ của chúng ta, qua hình thức của chuyện kể. Xung đột là bí quyết: nỗi xung đột thường gặp trong thơ là xung đột nội tâm, thầm lặng nhưng khó khăn. 

Cuộc chiến còn dai dẳng
Hai bên chĩa súng vào nhau
Tuổi trẻ buồn, những chuyến đi, bao câu hỏi không lời giải
Đất nước mênh mông nắng cháy
Mai Nguyễn mặc áo lính, khoác ba-lô
Khánh xuôi về Phòng, mình ở lại
Người ra đi không biết đi làm gì
Người ở lại không biết ở lại làm gì
Đêm mưa thức với nhau trong quán cà phê
Đốm thuốc cháy môi không nói
Tinh mơ một thằng con giai râu rậm lên xe
Không cô gái nào vẫy theo
Ra tiễn chỉ có hai anh trông có vẻ dở người
Ngồi uống một ấm trà ở ngã tư chợ Hôm 

Thơ mộc mạc, mới, kỳ lạ. 

Câu chuyện trong thơ không chỉ là cách tái tạo các kinh nghiệm cá nhân mà còn để gìn giữ các xúc động của người viết và người đọc, nuôi dưỡng chúng, trao cho chúng sự tự tin, sức sống. Nỗi buồn của xã hội, sự tăm tối của một thế hệ, lối sống nghèo nàn của một đất nước chiến tranh trở nên có thể hiểu được và chịu đựng được khi biến thành câu chuyện kể. Không phải là không có những xung đột xã hội, giữa người và người: 

Lòng tốt ở đây chẳng đáng một xu
Càng có tài lọc lừa càng nặng 

Sự liên tục của các câu thơ, hay sự mất liên tục, đều là những dấu hiệu cho ta thấy nhà thơ thuộc về trường thẩm mỹ nào. Lưu Quang Vũ cũng viết về tổn thương mà con người gây ra cho thiên nhiên và, mặt khác, chiến tranh gây ra cho con người. Hầu hết các nhà thơ hiện nay đều nghiêng về thơ trữ tình, một nghệ thuật đầy tính chủ quan và riêng tư, trong khi đó tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, các hình thức văn học khác có khuynh hướng ngược lại: chúng ngày càng tự sự hóa, khách quan hóa. Sự trở thành một nhà viết kịch chứng tỏ Lưu Quang Vũ có thể cùng lúc phát triển hai khuynh hướng, chủ quan trong thơ và khách quan trên sân khấu. Cái gì trong thơ anh ám ảnh tôi nhiều nhất? 

Thơ Khánh buồn như lòng đất nước
Thơ hay đời loạn chẳng đâu dùng
Vườn cũ cây tàn chim chết cả
Người chơi đàn nguyệt có còn không
Lòng yêu cái đẹp của anh. 

Khoảng cách giữa nhà thơ và người đọc càng gần, sự thân mật càng lớn, sự đồng hóa của người đọc và người viết dễ xảy ra; nhưng khoảng cách ấy càng xa, người đọc càng có nhiều tự do lựa chọn. Thơ có khả năng mở những cánh cửa cho phép bạn bước vào thiên nhiên, trở lại với nguồn suối nguyên thủy. Thơ không thay đổi thực tế lịch sử, thủ tiêu tình thế tuyệt vọng, nhưng, bằng cách thay đổi nhận thức và xúc động, làm thay đổi chúng ta. 

Đêm nay lại hành quân qua phố huyện
Một vầng trăng bạc, mấy chòm sao
Phố nhỏ nằm ven bờ cát sông Thao
Đêm nghe rì rầm nước chảy
Gió thổi xạc xào lau sậy
Rừng cọ bạt ngàn, nối tiếp nhau 

Lưu Quang Vũ quan sát kỹ, nhắc đến phố huyện một cách đậm đà trong những bài thơ viết sớm của anh. Có lẽ đó là vùng đất nơi anh sinh ra và lớn lên, có kỷ niệm ấu thời. Lưu Quang Vũ không dùng nhiều hình thức ngắt câu giữa chừng và vắt dòng, vì vậy câu thơ của anh trọn vẹn, rõ nghĩa, dễ hiểu, được nhiều người thích nhưng không khai mở, phóng túng như những câu bị cắt, và đó cũng là một nhược điểm. Một nhà thơ có thể mở rộng hay bẻ gãy cấu trúc văn phạm chừng nào chúng phục vụ cho mục đích nghệ thuật. Các câu thơ bị ngắt đoạn trở thành hình ảnh linh động mà nhà thơ muốn mô tả. Nhưng những câu thơ tình của Lưu Quang Vũ vẫn có thể vừa trong trẻo lại vừa mê đắm, quặn thắt. 

Em là hàng cau xanh 
Là quả vườn nhà 
Là chim tu hú 
Em có yêu chốn này không 

Đôi khi, con người cần sống đến cùng tận cảm giác bất an, tình huống bi kịch, nhờ thế, làm tăng lên lòng dũng cảm, tình yêu đối với đời sống, hoan lạc. Sự thăng hoa. Trong bài thơ "Viết cho em từ cửa biển", tác giả dường như muốn sống nhiều cuộc đời, không chỉ cuộc đời của người khác, mà nhiều cuộc đời trong một quãng ngắn. Bài thơ là tình yêu đối với biển cả, đất cảng Hải Phòng, khám phá. Như một người vừa thoát được hay sắp thoát được cảnh ngục tù tăm tối, hít thở khí trời, hơi gió mặn từ biển, mở hết lòng ngực. Hầu hết mọi trường hợp, con người tan biến vào hoàn cảnh, trở thành một nhân vật của sân khấu, nhưng trong bài thơ này, nhân vật ấy đứng tách ra, một mình nhìn lại, nhìn quanh, quan sát cuộc sống, ghi nhận chi tiết. Không phải bản mô tả hiện thực, thơ trữ tình cho phép bạn đắm mình trong những kinh nghiệm trực tiếp, bạn thở không khí ấy, bơi trong dòng nước ấy, lo âu và hy vọng trước biển ấy. 

Con sông giống cuộc đời anh
Anh là cậu bé nhặt than
Là ông già buông câu im lặng
Là quả dưa tròn trên khoang nắng
Là lá sú vàng trôi ở cửa sông 

Các hành động bị dừng lại, tạo ấn tượng phim ảnh. Hình ảnh trong bài này lãng mạn, đẹp, mặc dù có thể bị trách là dễ dãi. Hạnh phúc không xuất hiện nhiều trong thơ Lưu Quang Vũ, tuy từng xuất hiện trong những bài thơ đầu tiên, và về sau rải rác. Tình yêu của anh nhiều chất suy nghĩ, hồi tưởng, hơn là những phút hiện tại, hiếm hoi. 

Mưa không mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn
Quyển sách cũ bài thơ nhòe nét chữ
Em đã tin trời xanh ngoài cửa sổ
Trời đen sầm cửa sập nát vai em 

Tưởng hoa hồng là hương của đêm
Hoa đã rụng và em không khóc được
Những câu hỏi ban đầu đơn giản nhất
Ngỡ giải đáp rồi nay vẫn xé lòng em 

Trang sách tình yêu có ngôi sao lên
Không giống với cuộc đời thô bạo
Vì ta lầm đường hay vì trời nổi bão
Thương bạn bè ngơ ngác ngóng tin nhau 

Nhà thơ Jane Hirshfield có viết đâu đó, một bài thơ là một cái tách chứa đầy chữ tràn ra ngoài, nghĩa của chúng vượt ra khỏi khả năng dung chứa của cái tách ấy. Sự chứa đầy và sự tràn ra này có tính bí ẩn, làm nên đời sống của thơ. Cấu trúc gồm hai phần: trật tự mà các thông tin được sắp xếp, và bản thân các thông tin ấy. Hay nói cách khác, cấu trúc của một bài thơ có thể dung chứa một lượng thông tin lớn hơn nội dung của bài thơ. Chúng ta lớn lên, trưởng thành, là nhờ triển nở các giới hạn. Thơ mang bạn tới gần các giới hạn. 

Tôi viết những bài thơ chống lại chính tôi
Chống lại bóng đen trì trệ của đời
Chống lại những bài thơ tôi đã viết cùng những ai ưa thích nó
Làm sao đọc thơ tôi anh giận dữ băn khoăn xấu hổ
Cãi lại tôi hay ghét tôi đi nữa
Nhưng anh thôi hờ hững sống bình yên 

Lưu Quang Vũ thường bình luận, và đó không phải là những thí dụ thành công, nhưng chúng ta chấp nhận, lắng nghe giọng tác giả, vừa muốn tranh luận vừa muốn lắng nghe tiếp. Rất sớm, thơ anh đã mới nhờ biết dùng giác quan: 

Anh ngồi trên đống bao hàng 
Giữa những người thợ cười nói rì rầm 
Những thủy thủ nồng hơi rượu chát 
Tiếng than vãn, tiếng nỉ non, tiếng đùa, tiếng khóc 

Có một điều gì khó giải thích trong vẻ đẹp hơi trau chuốt của ngôn ngữ này. Hay là sự tội nghiệp quyến rũ? 

Em con tàu về cảng mưa đêm 
Ngã tư ngô đồng rụng lá 
Con sông mờ thân cầu đổ 

Như thế là vừa. Chỉ cần tài hoa quá tay lên một chút, anh sẽ trở thành người sử dụng tu từ xuất sắc, hay hạ giọng xuống, để trở nên thương cảm, là hai điều tối kỵ trong phép làm thơ. 

Em đừng thương anh nữa 
Anh đi lủi thủi trên đường 

Hai câu đó không nên đặt chung với nhau. Lưu Quang Vũ cũng không tránh được cách viết “tả chân” mà vào thời ấy có lẽ là phương pháp phổ biến. Tuy vậy anh vẫn có những quan sát khá đắt: 

Bác tôi chỉ huy trinh sát sư đoàn 
Người anh hùng tuổi thơ tôi thán phục 
Nay thủ trưởng một văn phòng lớn 
Suốt ngày lau xe đạp chữa đèn pin 

Vậy là còn khá. Thời bây giờ các ông thủ trưởng ấy không còn thì giờ lau xe đạp chữa đèn pin, có lẽ họ bận rộn các phe nhậu nhẹt đền chùa khấn vái. Một bài thơ sống được khi có khả năng vượt qua ngữ cảnh của nó, giữa những mảnh vỡ hiện thực. Không phải chỉ con người, thiên nhiên cũng xuất hiện đầy màu sắc trong thơ Lưu Quang Vũ, phong phú, sôi động. Một xã hội càng tách rời thiên nhiên, con người ở đó càng có đời sống tinh thần nghèo nàn, ích kỷ, ngu dốt, bất chấp tiện nghi vật chất, sự giàu có. Khi loài người nhận ra bất hạnh, họ trở về với đất, rừng, biển, bà mẹ thiên nhiên. 

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm 
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về 

Hai câu đầu tiên cảm động, đẹp, đúng là ngôn ngữ của anh. Nhưng ở câu thứ ba: 

Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm 

Anh bắt đầu không chống được cám dỗ của thói quen mô tả thay vì suy tưởng, như cách mà ta dễ thấy ở hầu hết các nhà thơ Việt hiện nay, và đưa quá nhiều hình ảnh vào. Tôi ngại rằng anh sẽ không thoát khỏi chúng. Quả nhiên, anh tiếp: 

Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre 

Một câu thơ nhiều chi tiết có thể làm hỏng một đoạn. Mà đoạn hay nhất trong bài thơ dài, mười hai đoạn, bốn mươi tám câu. Bạn an tâm, đó không phải là bài thơ tiêu biểu của Lưu Quang Vũ, mặc dù hình như là bài duy nhất được đưa vào các tuyển tập chính thức: anh đi xa hơn chúng nhiều, không những trong suy tư sâu về tình yêu, đất nước, mà cả trong sự tiếp cận dũng mãnh đối với hiện thực. 

(Còn tiếp một kỳ)