Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018
Trần Văn Nam: Sông Mã qua bút ký và truyện ngắn của Phạm Xuân Đài và Nguyễn Tường Thiết
![]() |
Không hiếm gì những dòng sông có liên hệ đến tác phẩm văn học của một tác giả. Nếu kể ra hết thì nhiều quá, có khi ta bỏ sót một tên tuổi nào đó mà không hay. Nếu kể về vĩ đại trên bình diện thế giới thì chắc ta không thể bỏ sót, như “Sông Don Êm Đềm” của nhà văn Nga giải Nobel văn chương Mikhail Sholokhov viết về chuyện tình trong bối cảnh buổi giao thời nội chiến ở nước Nga giữa các phe thuộc Nga Hoàng và lực lượng Cộng Sản Sô Viết đang dấy lên hồi đầu thế kỷ 20; và trong bối cảnh ven hai bờ sông Don hùng vĩ của dân Cossacks (loại người thuộc nhiều chủng tộc ở phía cực Nam nước Nga, rất thiện chiến, giỏi về kỵ binh, trước nội chiến vốn là sức mạnh phòng vệ đắc lực cho chế độ phong kiến Nga Hoàng). Hoặc như tác phẩm “Cuộc Phiêu Lưu của Huckleberry Finn” của nhà văn Mỹ Mark Twain viết về cuộc phiêu lưu trên sông Mississipi vĩ đại của một thiếu niên, qua đây nhà văn Hoa Kỳ thể hiện rất sinh động đời sống văn hoá người Mỹ ở hai bên bờ con sông dài, trong đó cũng có vần đề người da trắng người da đen. Với thiếu niên này, trên chiếc bè, dài theo con sông thao thao truyện kể về một xứ sở, về một dân tộc, về một tình bạn (With this boy, on this raft, along this river flows the story of a country, a people and a friendship). Cũng như âm nhạc trên bình diện phổ biến cho toàn thế giới, chắc ta sẽ không bỏ sót dòng sông Danube của nhạc sĩ Johann Straus; với khảo cổ thì có dòng sông Nile ở Ai Cập; với tôn giáo thì có dòng sông Hằng bên Ấn Độ; với lo âu cần phải bảo vệ môi trường xanh cho Trái Đất thì phải kể đến dòng sông dài nhất thế giới Amazon ở nước Brazil; với tranh chấp nguồn nước trong tương lai thì chắc là sông Mekong, vì nó có liên hệ đến một cường quốc đang lên gây lo ngại cho cả vùng Đông Á...
Nhưng sông Mã qua tiếng tăm bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng sở dĩ được đề cập đến trong bài này nhờ bút ký của nhà văn Phạm Xuân Đài. Bút ký do hồi ức, thêm cảm nghĩ hiện tại nên gần như là tùy bút, liên hệ đến bẩy năm sống trong trại tù cải tạo Thanh Cẩm bên bờ sông Mã (vùng thượng du tỉnh Thanh Hoá) dành cho quân-dân-chính Miền Nam sau 1975. Bài bút ký-tùy bút nhan đề “Nét Xuân Sơn” đăng trên mạng điện tử “diendantheky.net” ngày 8 tháng 2 năm 2011. Hồi ức vùng thượng du “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” (thơ Quang Dũng), phối hợp cảm nghĩ hiện tại là bối cảnh đầu xuân Nam California năm 1992. Nhà văn Phạm Xuân Đài hồi tưởng vùng thượng du xưa khi đang ngồi trong một ngôi nhà ở thành phố Irvine vào thời gian cuối tháng chạp âm lịch, thời gian có khí hậu khá lạnh và khá đẹp ở miền Nam California với dẫy núi San Gabriel phủ tuyết trắng, với cảnh trí chu đáo của thành thị văn minh làm cho thiên nhiên cũng đầy trật tự của sự ngăn nắp với các hàng cây đều đặn hai bên đường, với công viên được coi như báu vật của cư dân, với từng đàn hải âu và bồ câu không có gì sợ sệt người vì chúng được bảo vệ. Liên tưởng do có nét giống nhau là vẻ xuân sơn mỗi khi tàn đông sắp Tết; nhưng nhà văn đặt câu hỏi khá lạ: nét xuân sơn trở về nếu cảm nhận được sau mùa thu-đông mọi sự đều xám buồn tại trại cải tạo tứ bề núi đá thì cảm nhận ấy dĩ nhiên, nhưng nét xuân sơn thấy được nơi thiên nhiên chu đáo thì có phải là nét xuân sơn chính hiệu hay là do cảm nhận vay mượn từ tiên kiến, từ tập quán mỗi độ vào Xuân và Tết. Ta sẽ đọc lại những gì nhà văn đã viết để xét xem có phải đây là một ý kiến lạ: “Cứ thế trời đất đi vào mùa đông. Khí buốt căm căm, nước buốt căm căm, núi thành vô tình, xa cách, đứng riêng một cõi, hướng về trời chứ chẳng thèm hướng về người... Rồi thì núi sẽ trở lại là núi, sông trở lại là sông, người trở lại là người... cây mơ cây đào bỗng đầy nụ, và có những toán người đi về phía núi xa kiếm lá giong về gói bánh chưng Tết, thì người tù cũng dần ra khỏi trạng thái mông muội của những ngày đông dài... Bạn sẽ sững người trông thấy núi và tâm bạn, trí bạn, miệng bạn cũng thốt lên: “Nét Xuân Sơn”... Người đứng bên sông Mã đã bảy lần được tiếp sức như thế để sống còn... Buổi chiều nay, hai bốn tháng chạp năm chín hai, tôi ngồi bên cửa sổ một ngôi nhà ở vùng Irvine, nhìn ra cảnh vật xinh tươi bên ngoài, bỗng tim như đập hụt một nhịp khi nhìn thấy bóng núi phía xa xa... đã mang lại cho tôi một vẻ gì gần như là một nét xuân sơn... Trong một xứ sở được sắp xếp quá chu đáo, cả thiên nhiên cũng được “tổ chức”... Liệu cái cảm giác chuyển mùa mình cảm thấy rưng rưng trong lòng ấy là thật hay cũng là một sản phẩm làm sẵn... Cái nào là tiền chế, cái nào mới xuất phát nóng bỏng từ trái tim...”. Ta đồng ý với nhà văn cần nắm bắt nét đẹp thoáng qua của đất trời thiên nhiên và của cõi người; nhưng ta không quá biện biệt rung cảm đó (chẳng hạn nét xuân sơn) cái nào giả cái nào thật, do tác giả dường như hơi ngã về hướng duy tâm: ngoại giới có thể chỉ do Tâm gán ghép ý nghĩa; do cảm nghĩ tiền chế; do khuôn mẫu lập lại không từ tình cảm mà từ tập quán. Nét đẹp thoáng qua, nét xuân sơn của rặng núi chuyển mình vào xuân, theo tác giả thì cần níu lại bằng nghệ thuật. Phù du trở thành vĩnh viễn. Một thí dụ điển hình như cành củi trôi trên sông rộng trong bài “Tràng giang” của Huy Cận là một khoảnh khắc, nó trở thành thiên thu nhờ câu thơ “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Ở bài bút ký trên, nhà văn chỉ nói tới nét đẹp thiên nhiên thoáng qua, nhưng nét đẹp thoáng qua của cõi người, có hay không nơi một trại cải tạo vùng thượng du tỉnh Thanh Hoá. Trong một hồi ức khác (không viết thành bút ký-tùy bút, mà như những mảnh rời) cũng liên hệ đến dòng sông văn học này, bài “Thanh Cẩm... Những Mẩu Chuyện” nhà văn Phạm Xuân Đài có nhắc đến sự can thiệp của một bà thiếu úy dân tộc Mường. Bà ra lệnh cứng rắn không cho công an đánh có thể làm vong mạng phạm nhân trốn trại (đại tá Trịnh Tiếu của Việt Nam Cộng Hoà). Đại tá xác nhận nếu không có sự can thiệp ấy, chắc ông đã chết. Nét đẹp cõi người này (có thể do tình cảm cá nhân), dù tình riêng nhưng cũng là một nét đẹp nhân loại, được nhà văn kể lại.
![]() |
Nhà văn Trần Văn Nam đã qua đời vào tháng Giêng năm 2018. Một số bạn bè đến viếng mộ anh tại Westminster, Nam California. |
Bút ký nắm bắt cái thoáng qua bằng chữ nghĩa, rồi sau này thành nghệ thuật qua một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Tường Thiết. Nhà văn này vốn đã định cư ở Mỹ từ 1975, không hề ở trại cải tạo bao giờ, nhờ nghe kể mà hư cấu một chuyện tình xẩy ra ở trại cải tạo Thanh Cẩm. Như vậy đã rất hòa nhịp với nhà văn Phạm Xuân Đài: cần biến những nét đẹp khoảnh khắc thành thiên thu qua nghệ thuật. Đưa nó hoá thân vào nghệ thuật qua truyện ngắn nhan đề “Sông Mã Êm Đềm”, đăng trên mạng “diendantheky.net” ngày 10 tháng 2 năm 1913 (đã đăng khá lâu rồi, với bút hiệu Duy Sao, trên tập san “Gia Đình Thanh Cẩm” tháng 5 năm 2012). Nhà văn Nguyễn Tường Thiết hư cấu một chuyện tình giữa một tù nhân cải tạo và một nữ nhân sống trong trại, và dường như nhà văn đã áp dụng lối viết quá khứ-hiện tại đồng xuất. Truyện mở đầu với hiện tại: một cựu tù nhân trên chuyến xe lửa Bắc-Nam đi từ Hà Nội (xưa ở trại Thanh Cẩm, đã định cư Hoa Kỳ, nay trở về du lịch Việt Nam) đang qua cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã. Quá khứ chuyện tình trong trại Thanh Cẩm liền hiện về trong tâm trí cựu tù nhân với chi tiết đầy đủ về đời sống sinh hoạt trong trại: nguồn này nhà văn thâu nhận chất liệu từ các bài viết hồi ký của tù nhân thực sự, trong đó có hai bài viết kể trên của nhà văn Phạm Xuân Đài. Rồi hiện tại lại hồi phục khi xe lửa rầm rầm qua cây cầu sắt khác. Lần này, người cựu tù nhân chợt thấy hình dáng một nữ hành khách trông sao quá giống với người xưa. Chắc chắn không phải người xưa vì cô này thật trẻ, không thể là người của ba mươi năm trước. Gần sáng, thiếp ngủ, Hiếu (tên nhân vật) lần thứ hai quay về quá khứ trong giấc mơ màng do hình ảnh giống người xưa của nữ hành khách; quay về thời điểm hai người tình trốn trại thành công và lên trú ngụ trên hang Văn Dú (hang này là tên đặt do liên tưởng hang Văn Dú trong truyện “Vàng và Máu” của Thế Lữ, có nhắc đến trong hồi ký của nhà văn Phạm Xuân Đài). Rồi hiện tại trở lại lần thứ hai (kể từ đầu thì có đến ba lần ở thời điểm hiện tại, hai lần ở thời điểm quá khứ) lúc xe lửa hú còi đến ga Huế. Hai mẹ con nữ hành khách xuống ga Huế. Qua chào hỏi, Hiếu phát giác nữ hành khách đó chính là con gái của mình, kết quả do hai người tình trốn trên hang Văn Dú ba mươi năm trước. Lúc chợt phát hiện cũng là lúc hai mẹ con nữ hành khách khuất dạng trong đám người quá đông nhốn nháo trên ga Huế... Ngoài chất liệu do hồi ký về trại cải tạo, hình như nhà văn Nguyễn Tường Thiết muốn làm ta nhớ đến truyện “Bóng Người Trong Sương Mù” của nhà văn Nhất Linh (thân phụ của nhà văn Nguyễn Tường Thiết) qua ảo giác hai mẹ con nữ hành khách phản chiếu khi gần khi xa qua tấm gương cửa sổ trên toa xe lửa. Tất cả gom lại do ý muốn làm nghệ thuật, muốn biến khoảnh khắc phù du (nét đẹp thiên nhiên, nét đẹp tình cảm) thành thiên thu, như ta có nói qua ở đoạn trên. Ngoài nguồn do bút ký-tùy bút, bút ký thuần tuý ghi chép, hoặc do kể chuyện trong khi hàn huyên (hai ông Phạm Xuân Đài và Nguyễn Tường Thiết vốn quen biết thân tình, thường gặp nhau tại Seattle tiểu bang Washington hoặc quán cà phê Factory ở Westminster, quận Cam, California); nhà văn Nguyễn Tường Thiết có lẽ còn được tiếp nguồn cảm hứng để hư cấu truyện tình nơi trại cải tạo nhờ bốn câu thơ chia ly (đăng trên “diendantheky.net”. Thơ của Trần Mộng Tú)
Sông Mã cuồn cuộn chẩy
chiếc mảng đã xa bờ
em không quay đầu lại
cuộc tình hay trong mơ...
Cảm hứng viết nên truyện từ vài câu thơ hay, nhà văn Nguyễn Tường Thiết như lập lại cách thức cũng cảm hứng do thơ mà hoàn thành tác phẩm “Xóm Cầu Mới (Bèo giạt)” của nhà văn Nhất Linh trong bài “Tràng Giang” của Huy Cận:
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng...
(trich trang 391-395 cuốn sách TIẾP NỐI DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC SAU NĂM 1975 của tác gỉa TRẦN VĂN NAM. Tựa đề do DĐTK đặt)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét