Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018
PHẠM XUÂN ĐÀI: CHUYỆN ĐÁ BANH
Tranh của Đinh Trường Chinh - Tháng Bảy, 2018
Lời Tòa Soạn.- Bài dưới đây được viết cách đây đúng 20 năm, nhân World Cup năm 1998
diễn ra tại nước Pháp, và Pháp đã lên ngôi vô địch. World Cup năm nay 2018 được
tổ chức lần đầu tiên tại nước Nga, Pháp đã được vào chung kết với Croatia ngày
15 tháng 8, và một lần nữa Le Jour De
Gloire lại đến với nước Pháp. Đội Pháp đã thắng Croatia với tỉ số 4-2, đoạt
chức vô địch World Cup 2018.
Dù hai thập niên đã qua từ khi
bài này được đăng lần đầu trên tạp chí Thế Kỷ 21 số 112, tháng Tám 1998, tâm
tình và những vấn đề về bóng đá của người di dân Việt Nam có vẻ vẫn thế (tuy
bài có được thêm bớt gọt dũa lại chút đỉnh), chúng tôi xin mời độc giả xem
lại... cho vui. DĐTK
World Cup tổ chức ở Pháp năm nay đem lại cho những người đàn ông Việt Nam trung niên đang
tị nạn tại Hoa Kỳ ít nhiều thích thú say mê đích
thực, sau những năm tháng sống lửng lơ với một cố gắng thích ứng liên tục với
một văn hóa mới, một cố gắng mà họ biết không bao giờ đạt tới đích. Tất cả vui
thú say mê của một đời người hoàn tất từ thời người ây còn trẻ, và khi đã sống
tròm trèm nửa đời rồi mới gặp hoàn cảnh đòi hỏi phải đổi mọi chuyện thì rất
khó, nếu không nói là chẳng thể được. Vì thế người ta phải tiếp tục ăn cơm với
cá kho, ăn phở, hủ tiếu, bún riêu, mì Quảng, tiếp tục coi video và nghe CD nhạc
Việt Nam, tiếp tục xuất bản và đọc sách báo tiếng Việt, tiếp tục xây dựng chùa
chiền và tu viện Phật giáo... Nói cho lớn lao thì
là người ta đang cố gắng bảo tồn văn hóa của quê cha đất tổ, nhìn
một cách thực tế thì tất cả việc ấy chẳng
qua nhằm đáp ứng nhu cầu sống của chính một lớp
người mà thôi. Không thích ứng nổi với cái mới một cách toàn vẹn thì ta bày
những gì của ta ra để... ta dùng vậy.
Nhưng riêng về môn đá banh thì người tị nạn
tại Hoa Kỳ... thua. Họ có thể tha hồ gào với cái máy Karaoke những bản nhạc
Việt mà họ ưa thích một thủa nào, nhưng họ không cách gì đến với môn đá banh,
mà những người Việt trung niên ấy hầu hết đều say mê từ
thời còn nhỏ xíu, và được nuôi dưỡng đầy hào hứng khi lớn lên. Nếu anh tị nạn ở
bất cứ một chỗ nào trên thế giới khác với Hoa Kỳ thì anh vẫn có thể gần gũi với
niềm say mê ấy, và
cảm thấy thế giới này vẫn có một mẫu số chung mà mình
là người lạ đến vẫn có thể tiếp tục chia sẻ. Một người Việt Nam ham đá banh từ
ngày nhỏ gặp một người Pháp chẳng hạn cũng cùng một sở thích ấy thì sẽ rất dễ
gần gũi nhau. Sân cỏ, luật chơi, kỹ thuật lừa bóng, những cách chơi xấu, lòng ham mê, kỷ niệm về các trận đấu... là tài sản chung
của hai người dù họ đã sống trong hai xứ sở cách rất xa nhau, với hai nền văn hóa khác biệt. Cùng tôn giáo chưa chắc đã có
nhiều điểm chung bằng cùng chơi một môn thể thao, nhất là môn thể thao ấy lại
là môn đá banh. Cùng môn chơi loại khác, ví dụ cờ bạc, cũng không thể có gì sâu
xa để chia xẻ với nhau như môn đá banh. Khi ra sân tranh nhau trái bóng thì thể
xác, tinh thần, tình cảm, tài năng đều được đẩy lên một mức độ thể hiện rất
cao, tất cả tổng hợp lại thành một cái vốn tươi sáng lành mạnh gắn chặt với sự
sống của một đời người, sẽ ở với người ấy suốt
đời. Nước Mỹ sẽ là một hành tinh lạ đối với một người có một “background” như
thế. Đất nước giàu có xinh đẹp này, dân tộc hào hiệp cởi mở này không có quá
khứ giống như các dân tộc khác trên thế giới — quá khứ ở đây chỉ xin hiểu một
cách đơn giản là những công dân nhỏ tuổi của họ không lớn lên với môn đá banh.
Chỉ đơn giản như thế nhưng đã tạo ra một khác biệt ghê gớm, là cả dân tộc này
đứng ngoài nhịp đập của trái tim nhân loại khi trên thế giới xảy ra các biến cố
về bóng tròn. Khi World Cup đang diễn ra ở Pháp, khi một đường banh “diễm ảo”
(xin mượn chữ của ký giả thể thao Huyền Vũ) bay vào lưới, bao nhiêu triệu người
từ bất cứ xó xỉnh nào trên quả đất, đúng vào phút, giây, sát na ấy, cùng một lúc ồ lên suýt soa, thì dân Mỹ không hay
biết gì cả. Họ đứng ngoài, họ không tham dự vào, mặc kệ cái buồn vui thổn thức của phần nhân loại còn lại. Họ có môn
chơi của họ, chơi
riêng, chơi một mình. Sự
kiện nước này bắt đầu có đội bóng tham gia
vào World Cup xem ra chưa có ảnh hưởng gì
đến “trái tim”của người
dân Mỹ chính cống cả.
Nhưng một người Việt Nam trung niên di dân tại đất nàv, tức là người Mỹ không chính cống, thì đón chào World Cup như bắt gặp
lại một loại quê hương của mình. Từ khi còn
nhỏ xíu anh con
trai nào cũng ít nhiều tham gia các trận đá
bóng nếu là người Bắc, đá banh
nếu là người Trung hoặc Nam. Nếu những người trung niên ấy sinh vào khoảng giữa
đến cuối thập niên 30 thì khi vừa lon ton ôm vở đi học đã ở trong không khí hào
hứng của phong trào Ducouroy, trong đó môn đá banh lan tràn rất mạnh, đến từng
phủ huyện, làng xã, từng trường học, ảnh hưởng ngay đến những lớp nhỏ nhất
trong trường.
Thời ấy trẻ con biết chơi biết chạy là đã ít nhiều biết đá banh, dù dưới những hình thức đơn sơ nhất. Khi đã cắp sách đến trường thì
gặp ngay một môi trường
thuận lợi để hiểu biết và tham gia môn chơi
hào hứng này. Các cậu bé lúc bấy giờ mới biết ra rằng đây là một môn chơi
có luật lệ, và chính khi chơi với luật lệ thì thích thú hơn là những trận đá qua đá lại bừa bãi ở ngoài đường nhiều. Trong sân trường, thường phải chia
phe trước khi một trận cầu xảy ra: những người thích chơi đứng thành một đám giữa sân,
hai người tương đối lớn và đá hay sẽ đứng đầu
mỗi bên và bắt đầu chọn cầu thủ cho bên của mình,
gọi là
"bắt phe." Cách chọn khá công bình, mỗi bên luân phiên lần lượt “bắt” một người, cho đến khi đám đông giữa sân được chia hẳn
thành hai phe, mỗi bên kéo về một đầu sân
để dồn quần áo nón mũ thành hai ụ để làm gôn, rồi dàn trận bắt đầu đá.
Họ đá bằng gì? Dĩ nhiên bằng trái banh, nhưng
banh của họ rất nhiều loại. Nếu là tập thể các lớp lớn, sẽ có một
trái banh loại “demi” nghĩa là banh da có vét-xi bơm hơi đàng hoàng, nhưng nhỏ bằng một nửa banh người
lớn. Đó là loại sang. Thường chỉ là banh bằng cao su, lúc mới còn căng cứng đá
rất tốt, nhưng chơi một thời gian ngắn cao su trở nên mềm nhẽo, đá nghe lịch
phịch và khi rơi xuống đất thì không nảy lên được nữa. Nhưng chẳng hề gì, miễn là có một vật tròn tròn để mà tranh nhau đá
vào gôn bên kia là vui rồi. Học trò trường nhà quê thì ngay banh cao su cũng là
món xa xỉ chỉ ước ao chứ không mấy khi
có được, họ thường dùng trái bưởi để làm banh. Bưởi xanh mới hái trên cây xuống
rất cứng và nặng, đá mạnh vào có thể bị sưng chân, vì thế các cầu thủ chân đất
ở thôn quê nghĩ ra cách đem nướng trái bưởi trên lửa cho mềm bớt trước khi cho nó ra sân. Nhưng ngay cả bưởi có
khi cũng không phải là thứ dễ kiếm và lúc nào
cũng có, trong khi đá banh là nhu cầu hàng ngày. Họ bèn tự làm lấy banh, với một loại nguyên liệu dồi dào lúc nào cũng
có sẵn trong tầm tay: lá chuối khô và dây chuối.
Dùng một vật tròn, có thể là một hòn đất cứng để làm lõi bên trong, họ lấy lá chuối khô bao bọc nhiều lớp bên ngoài, khi thành
một khối tròn to độ trái bưởi thì họ bắt đầu dùng dây chuối để thắt một lớp bao
bọc bên ngoài. Đối với học trò nhà quê, “thắt banh” là một nghệ thuật, nhiều
đứa khéo tay đã tạo nên những trái banh lá chuối tròn trịa được thắt chặt bởi
một lớp lưới dây chuối dày bọc bên ngoài, đá êm chân mà lại bền. Cần nhất là bền, nếu chỉ mới đá có một lúc mà đã
“lòi ruột,” lá đi đàng lá dây đi đàng dây thì chán chết. Nhưng đối với những
bàn chân còn non nớt, có được một trái banh te nít cũ là lý tưởng nhất, tha hồ
đá không sợ bị hư.
Đám con nít Việt
Nam ấy chơi bóng dưới thiên hình vạn trạng, khắp
nơi, từ thành thị đến thôn quê, trên sân vận động, sân trường, trên hè phố,
trên đường làng, trong sân đình, ngoài bãi sông hoặc trên những thửa ruộng mới
gặt còn trơ gốc rạ; có nơi được huấn luyện
chỉ dẫn hẳn hoi và cầu thủ được mang giày vải,
nhưng phần lớn là “đá rừng” với chân không, và
chỉ biết dựa trên một số luật chơi căn bản bất
thành văn được truyền từ nơi nọ sang nơi kia. Họ chơi say mê đến
quên giờ giấc, trầy da, trặc chân, rách áo là chuyện thường, và niềm say mê ấy sẽ ở
lại với họ như những kỷ niệm trong sáng nhất trong quãng đời về
sau.
Từ trước thập niên bốn mươi cho đến
đầu những năm 50, các danh từ, động từ trong môn chơi này hầu
hết dùng tiếng Pháp, dĩ nhiên trong đó có nhiều
chữ được Pháp hóa từ tiếng Anh, vì môn này do người Anh bày đặt ra. Cả xã hội dùng như thế, và đám trẻ cũng lặp theo, một
cách tự nhiên như các từ được Việt hóa. Họ gọi thủ môn là giữ gôn hoặc gạc gôn (garde goal, một chữ nửa Pháp nửa Anh, có nơi
còn dùng chữ nửa Việt nửa Pháp là bắt buýt do but,
tiếng Pháp dịch chữ goal), trung phong là a văng xăng (avant centre), hậu vệ là a ri e (arrière), phạt góc là cọt ne (corner, tiếng Anh đọc theo kiểu Pháp), đụng
tay là manh (main), đánh đầu
là tết (tête), đá vào gọi là suýt hoặc sút (shoot), và khi đá lọt một bàn thì trước khi dùng chữ
“dô!” như sau này, cả bọn phe thắng cùng gào lên “gô...ô...n” giống như anh tường thuật viên người Mễ ở
đài KMEX/34, Los Angeles. Khi đám trẻ ấy lớn
lên ở miền Nam thì các thuật ngữ bóng đá dần dần được Việt hóa,
và họ quên dần cái mớ chữ lai căng họ đã dùng suốt thời nhỏ tuổi trong các trận
thư hùng đầy say mê. Kỷ cương của nền túc
cầu miền Nam đã làm công việc Việt hóa ấy, và báo chí và đài phát thanh đã hoàn tất việc phổ
biến và thay thế hẳn thói quen dùng tiếng ngoại quốc trong môn chơi này. Có
công nhất trong việc phổ biến này có lẽ là Huyền
Vũ, người tường thuật các trận đấu bóng
tròn trên đài phát thanh Sài Gòn. Thính giả say mê lối tường thuật sôi nổi,
duyên dáng và chính xác của ông, và người ta thuộc dễ dàng những thuật ngữ mà
ông dùng.
Ký giả thể thao Huyền Vũ
Ai là người đầu
tiên đã chế ra các thuật ngữ bóng tròn bằng tiếng Việt? Chắc là các vị phụ
trách về Thanh Niên và Thể Thao trong chính quyền đệ nhất Cộng Hòa. Nhưng
không rõ trước đó các từ này đã được Việt hóa phần nào chưa. Dân chúng Nam phần
Việt Nam có khả năng Việt hóa chữ nghĩa ngoại quốc rất tài tình, hơn hẳn ở Bắc và ở Trung, những vùng rõ ràng có ưu thế hơn về
chiều dày của văn hóa truyền thống. Nhưng càng truyền thống thì lại càng rụt rè
trong việc chế ra chữ cho chính mình dùng, cho nên hay có
khuynh hướng hoặc phiên âm, hoặc tìm chữ Hán Việt tương đương, trong khi đó
người miền Nam chế ngay ra chữ mới gọi thẳng tính chất và công dụng của sự vật
muốn chỉ bằng tiếng Việt. Ví dụ, trong khi miền Bắc và Trung còn dùng tiếng frigidaire thì người miền Nam gọi một cách thoải mái cái
ấy là cái tủ lạnh (cái tủ phát ra hơi lạnh thì gọi là tủ lạnh, còn ngần
ngại gì nữa?); còn limonade thì miền Nam
gọi là nước
ngọt (một tiếng tổng hợp tất cả các thứ nước giải khát có đường, sau đó nếu cần
mới chỉ rõ là nước cam, nước chanh, xá xị v.v...); theo Tàu gọi là mì chính hay vị tinh thì miền Nam
gọi là bột
ngọt; các bộ phận trong
chiếc xe đạp thì trong khi Bắc và Trung còn dùng toàn tiếng Tây thì miền Nam Việt hóa một cách dễ dàng: cái ghi đông là ‘tay
cầm’ (còn vô lăng của xe hơi
thì là ‘tay lái’), sên là ‘dây xích,’ phanh là ‘thắng’
(cho cả danh từ lẫn động từ), moyeu là cái ‘đùm,’ garde-boue là ‘vè chắn bùn’; loại xe chở xăng mà tiếng
Pháp gọi là citerne thì người Bắc chỉ
biết gọi nhại là ‘xi-téc’, hay người Trung ‘xi-tẹt’, người Nam đã Việt hóa vô
cùng tài tình và chính xác : ‘xe bồn’... Đặc điểm của sự Việt hóa này là thấy
sao nói vậy, có tính thực dụng, để có thể dùng ngay một cách dễ dàng hàng ngày,
không bị cái gánh nặng chữ nghĩa bác học ám ảnh, mà rốt cuộc lại có sức sống
nhất, được cả nước chấp nhận và dùng rộng rãi.
Điều này ngẫm ra cũng là sự lạ. Đất Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp mà dân ở đó
lại không sính dùng tiếng Pháp trong sinh hoạt hàng ngày. Họ Việt hóa chữ nghĩa
của họ một cách triệt để. Hình như đó là tính cách của vùng đất mới, “dọc ngang
nào biết trên đầu có ai" kể cả cái mớ chữ nghĩa rắc rối
của giới học thức. Tự tạo chữ ra mà dùng, dù thoạt đầu chỉ là để cho tiện dụng
thôi, nhưng đó
cũng chính là biểu hiện lòng yêu nước, một cách hồn nhiên gần như tự phát không chịu nô lệ
tiếng nước ngoài.
Cho nên không lạ là các thuật ngữ tiếng Việt của môn đá banh được
phổ biến và dùng rộng rãi rất nhanh trong quần chúng miền Nam, những manh, những tết, những nu (ném biên), những gạc gôn. những a ri e... biến mất sạch trong không đầy một thập niên, (những
người sinh trong thập niên 50 có thể chẳng hiểu gì về những chữ này!) và được
thay thế bằng một hệ thống thuật ngữ hoàn chỉnh, tuy là có nặng phần hán-việt. Rõ ràng quần chúng miền Nam không dự phần trong vụ đặt tên này (nếu làm được thì chắc họ đã làm từ trước lâu rồi), bởi lẽ môn đá banh thoạt tiên chỉ là môn chơi của một nhóm người,
sau nữa các ý niệm vai trò và động tác trong sân khó
diễn đạt bằng ngôn ngữ thường ngày, vì không có
chữ tương đương và cũng không có nhu cầu trong rộng rãi quần chúng. Tuy nhiên
mọi người chấp nhận hệ thống thuật ngữ mới một cách tự
nhiên, ngay cả chữ “túc cầu” cũng trở nên quen
thuộc không kém chữ “đá banh.” Ở đây tưởng cũng nên mở
một dấu ngoặc của một ngoại lệ, đó là chữ
“banh.” Chỉ ở Bắc dùng chữ “bóng” để chỉ một vật khối tròn có hơi bên trong,
Trung và Nam không dùng, cùng lắm chỉ dùng chữ “bong bóng,” cho nên đành phải
chấp nhận phiên âm chữ balle từ tiếng Pháp thành “banh.” Mà xin các nhà ngữ học xem lại coi, người
Bắc có dùng chữ “bóng” để chỉ một cái gì khác ngoài cái vật ngoại nhập có tên
gọi là balle ấy hay không? Hay đây cũng là một chữ được chế
ra rút từ chữ “bong bóng,” cốt để chỉ cái vật ấy?
Nghĩa là cũng là một cách phiên âm, nhưng có “dính dáng” với ngôn ngữ Việt Nam
hơn, để cuối cùng ta có “quả bóng” cho miền Bắc,
“trái banh” cho Trung và Nam?
“Đá banh” là một động từ nôm na, không thể
dùng nó như danh từ để chỉ môn chơi, như chữ “túc cầu” hay “bóng tròn” trước
đây được dùng ở miền Nam, hay chữ “bóng đá” của miền Bắc mà hiện nay trong nước đang dùng một cách chính
thức. Kể ra trong các chữ ấy,“bóng đá” là hay hơn cả, vì khi đã có bóng chuyền, bóng rổ, bóng
bàn thì bóng đá hợp lý và tượng hình hơn... bóng tròn rất nhiều, và dĩ nhiên là Việt
Nam hơn “túc cầu.” Nhưng sự thành hình của ngôn ngữ rất nhiều khi không dựa vào
sự hợp lý mà còn vào nhiều yếu tố khác, hễ dùng
quen thì nên, còn nếu vì một lý do gì không dùng nữa và được thay thế thì nó
chết, nó lẳng lặng rút vào quên lãng, chẳng kiện cáo ai cả.
Đề cập đến sự
dửng dưng của người Mỹ đối với bóng đá, một người di dân trung niên đã nói
rằng: “Phải là những kẻ khi còn nhỏ có cái say mê dắt trái banh đi thì lớn lên
mới thích môn này được.” Phát biểu ấy hẳn nhiên là đúng nhưng không đủ, vì
nhiều người cả đời chưa bao giờ đụng đến trái banh vẫn ham xem đá banh như
thường. Ngày nay cánh phụ nữ tại Việt Nam cũng mê World Cup lắm, cũng thưởng
thức được cái hay cái đẹp của môn chơi, cũng cổ võ nồng nhiệt, nhưng tuyệt đại
đa số trong bọn họ chưa bao giờ chơi bóng đá. Môn này đã biến thành một cảm
hứng chung của xã hội rồi, và hoàn toàn có khả năng thu hút mọi người thành
“fan” của nó mà không cần bắt họ phải là đồ đệ
chính cống, theo nghĩa là phải nhập môn, phải tập
dượt, phải ra sân.
Hầu hết
những người chơi đá banh từ ngày nhỏ khi lớn lên thì không chơi nữa. Chỉ một số ít theo nghiệp này, trong một thời gian mà tuổi tác
và sức khỏe họ còn cho phép. Một số đông hơn thỉnh thoảng ra sân, một cách tài
tử. Nhưng tất cả đều tiếp tục ham xem các cuộc thi đấu, hầu như không có loại trừ. Trước kia ở trong nước, họ cố gắng có mặt trong các trận quốc tế,
các trận tranh cúp quốc gia. Ra nước ngoài họ ôm lấy cái ti vi trong những ngày
World Cup, hoặc nếu bận đi làm thì thu vào băng video để tối về coi. Tại một
nước hững hờ với bóng đá như nước Mỹ, người xem các cuộc thi đấu dễ có thái độ trung lập hơn là những nơi mà sự ham
thích làm sôi sục cả xã hội. Nhưng thật ra ít khi nào xem một trận đấu là lòng ta hoàn toàn trung lập, không mong cho một
bên thắng hơn là bên kia. Nếu một bên là đoàn cầu
của nước mình thì khỏi nói, sự thiên vị sẽ ở sẵn trong ta như một yếu tố bẩm
sinh, dù có tu luyện cái tâm đến mức nào cũng không thể trung lập tuyệt đối
được. Thế nhưng khi xem một trận giữa hai nước trên thế giới không có liên hệ
gì đến mình, sự thiên vị một bên vẫn thường có, hoặc có ngay từ đầu, hoặc thành
hình lúc nào không hay trong lúc đang
xem. Ví dụ ta đang xem trận Hòa Lan đấu với
Argentine chẳng hạn. Hai “thằng” đó thì chẳng dính líu gì
tới Việt Nam, bên nào thắng cũng chẳng tác động gì đến tình cảm của mình. Đó là
hai đội hay, có tiếng, đều đã từng đoạt chức vô địch thế giới, một trận sẽ đem
lại cho sự thưởng ngoạn của mình nhiều “sướng thỏa” (lại chữ mượn
của Huyền Vũ). Thế nhưng xem một lúc thì mới phát giác
ra rằng chính mình đang nghiêng về phía Hòa Lan, nghĩa là hồi hộp lo lắng khi
thấy quân Nam Mỹ ào ạt tấn công sát khung thành
của Vùng Đất Trũng, và nếu thấy điều ngược lại đang diễn ra thì vui mừng... Khi phát giác
ra như thế thì thoạt tiên thấy hơi bực mình, vì vẫn
cho rằng đừng để cảm tình xen vô thì thưởng thức
cái hay được trọn vẹn hơn. Và thử dò lòng mình xem do đâu mà sinh ra thiên vị
như thế, và đưa ra một vài lý do như là các giả
thuyết, chứ chưa dám khẳng định hẳn. Có phải vì thời xửa thời xưa Hòa Lan đã
đến Việt Nam buôn bán, lập thương điếm ở Phố
Hiến và Hội An, nên từ vô thức lòng ta đã có cái gì đấv gắn bó với “nó”? (giả
thuyết này xem ra nặng phần... phân tâm học quá!).
Hay là vì hai thập niên trở lại đây Hòa Lan đã tỏ ra rất tốt với dân tị nạn
Việt Nam, nhận rất nhiều thuyền nhân cho tá túc ở nước
mình để làm ăn sinh sống? Hay là vì nhà xuất bản Cái Đình của các anh em tại
Hòa Lan nặng lòng với văn hóa Việt Nam như Nguyễn Hiền, Cao Xuân Tứ, Nguyễn Lê Hồng Hưng, Nguyễn Hoàn Nguyên v.v...? Hay vì gần đây mình đã có một chuyến
du lịch Hòa Lan và có cảm tình với các loại hoa ở đó?... Khó có thể biết lý
do nào là chính, cái nào là phụ, nhưng ngẫm ra thì rõ ràng Hòa Lan đang “có
điểm” trong lòng một người Việt Nam đang coi đá banh hơn là nước Argentine nhiều. Từ đó suy ra, ở đời này thật khó mà giữ lòng được
công bằng tuyệt đối. Từ một chỗ ngóc ngách sâu kín trong tâm lý của chúng ta sẽ
nảy ra một yếu tố nào đấy xô
cho cán cân dần dần thiên lệch, ngoài sự kiểm soát của lý trí.
Những người đàn
ông trung niên Việt Nam ở bất cứ nơi nào trên thế
giới xem trận chung kết giữa Pháp và Brazil vừa
rồi có thể nói đều đứng về phe
Pháp (*). Dù họ là con cháu của những vị quan lớn có nhiều liên hệ với “mẫu quốc” ngày xưa, hay của những người
đã ngã gục trước họng súng của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, dù họ từng là
những cầu thủ tí hon thời Ducouroy hay chỉ mới là kẻ say mê Huyền Vũ trong thập niên 60, tất cả các tấm lòng đều nghiêng về phía Pháp. Có lẽ chẳng cần lý
giải vì sao. Lịch sử đã tạo như thế. Họ được xem cảnh vui mừng của dân Pháp tại
cầu trường Stade de France, tại Champs Elysées
ngày hôm đó, có lẽ chính lòng họ cũng mang phần nào nỗi hân hoan ấy. Và họ vô cùng tâm đắc khi nghe người tường thuật
của đài truyền hình KABC của Mỹ, vào lúc cuối của trận chung kết ấy đã trích câu quốc ca Pháp để nói về đội Pháp: ... Le jour de gloire
est arrivé... Ngày vinh quang đã tới. Không câu nào “đắt” hơn là câu đó, trong giờ
khắc ấy. Một tổng hợp văn hóa, lịch sử và sự kiện
hiện tại cực kỳ khéo léo, trong giây phút xuất thần của một phóng viên thể
thao.
Nhiều người cho
rằng coi đá banh là phải coi với lòng mong cầu một phe thắng, chứ nếu hoàn toàn
dửng dưng thì còn gì là hào hứng? Có phải vì thế mà người ta bày đặt thêm vụ cá
độ để lòng mong cầu càng mạnh mẽ thiết tha hơn nữa, hầu cuộc
chơi càng thêm hào hứng? Ngược lại, đối với một người đang dốc lòng tu tâm
dưỡng tánh — thường nằm trong lớp trung niên — thì càng tránh những xúc động
thái quá càng tốt cho tâm thân của họ, ngay trong lúc coi đá banh cũng không
nên để cái cảm xúc hơn thua nó chế ngự tâm của mình, mà chỉ nên để ý đến nghệ thuật của hai phe mà thôi. Cảm xúc sẽ che
mờ khiếu thưởng ngoạn, lòng mong cầu sẽ như một mảng vô minh che mắt khiến
chúng ta không thưởng thức được trọn vẹn cái hay cái đẹp thuần túy của chiến
thuật chiến lược mỗi bên, hay tài nghệ của những đôi chân vàng của các cầu thủ. Xem thế thì cái Chân, Thiện, Mỹ cùng lòng ham
muốn, mong cầu, dục vọng nằm cả trong thế giới
túc cầu này. Hàng triệu người xem nhưng mỗi người sẽ
với căn cơ khác nhau, với trình độ thưởng thức cao thấp khác nhau, với niềm vui
và nỗi buồn khác nhau. Nhưng may mắn tất cả đều có một mẫu số chung đẹp: ham thích một môn chơi say mê và lành
mạnh, có khả năng đem con người lại gần nhau.
*
Nhận định này không hoàn toàn đúng. Sau khi báo Thế Kỷ 21 số 112, tháng Tám
1998 phát hành ít lâu, tác giả Chuyện Đá Banh đã nhận được một email từ Canada
có nội dung : “Không, không, tôi yêu mến
và hoàn toàn ủng hộ đội Brazil chứ không phải đội Pháp !!”
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét