Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2018
CHƯƠNG 10: KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM
DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung
Pháp hiệu đính năm 2018
CÂU 569 ĐẾN CÂU 692
“Sai nha quen thói, hiếu nữ bán mình”
569. Nàng còn đứng
tựa hiên tây,
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. [1]
571. Trông chừng khói ngất song thưa, [2]
Hoa trôi trớt thắm, liễu xơ xác vàng. [3]
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. [1]
571. Trông chừng khói ngất song thưa, [2]
Hoa trôi trớt thắm, liễu xơ xác vàng. [3]
573. Tần ngần dạo
gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, [4]
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, [4]
575. Hàn huyên chưa kịp dãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. [5]
577. Người nách thước, kẻ tay dao; [6]
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. [7]
579. Già giang một lão một trai, [8]
Một dây vô loại buộc hai thâm tình. [9]
581. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, [10]
Rụng rời đọt liễu, tan tành cội mai. [11, 12]
583. Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, [13]
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. [14]
585. Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai đơm giậm, đặt giàm bỗng dưng? [15]
587. Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ. [16, 17]
589. Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. [18, 19]
591. Hạ từ van vỉ suốt ngày, [20]
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn. [21, 22]
593. Rường cao rút
ngược dây oan, [23]
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595. Mắt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
597. Một ngày lạ thói sai nha, [24]
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. [25]
599. Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? [26]
601. Duyên hội ngộ, đức cù lao, [27]
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
603. Để lời thệ hải minh sơn, [28]
Làm con trước phải đền ơn sinh thành. [29]
605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!” [30]
607. Họ Chung có kẻ lại già, [31]
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. [32, 33]
609. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
611. Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. [34]
613. Hãy về tạm phó giam ngoài, [35]
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày. [36]
615. Thương lòng con trẻ thơ ngây, [37]
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! [38]
617. Đau lòng tử biệt sinh ly, [39]
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
619. Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, [40]
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. [41]
621. Sự lòng ngỏ với băng nhân, [42, 43]
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. [44]
623. Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. [45, 46]
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần. [47]
627. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, [48]
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
629. Trước thầy sau tớ lao xao
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595. Mắt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
597. Một ngày lạ thói sai nha, [24]
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. [25]
599. Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? [26]
601. Duyên hội ngộ, đức cù lao, [27]
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
603. Để lời thệ hải minh sơn, [28]
Làm con trước phải đền ơn sinh thành. [29]
605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!” [30]
607. Họ Chung có kẻ lại già, [31]
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. [32, 33]
609. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
611. Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. [34]
613. Hãy về tạm phó giam ngoài, [35]
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày. [36]
615. Thương lòng con trẻ thơ ngây, [37]
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! [38]
617. Đau lòng tử biệt sinh ly, [39]
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
619. Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, [40]
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. [41]
621. Sự lòng ngỏ với băng nhân, [42, 43]
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. [44]
623. Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. [45, 46]
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần. [47]
627. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, [48]
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
629. Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối
rước vào lầu trang.
631. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, [49]
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
633. Nỗi mình thêm gấp nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! [50]
635. Ngại ngùng dợn gió e sương, [51]
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. [52]
637. Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. [53]
639. Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
641. Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. [54]
643. Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, [55]
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” [56]
645. Mối rằng: “đáng giá nghìn vàng,
Nghẹt nhà nhờ lượng người thương dám nài.” [57]
647. Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. [58]
649. Một lời thuyền đã êm giầm [59]
Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi. [60]
651. Định ngày nạp thái vu qui, [61]
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong! [62]
653. Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. [63]
655. Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột rầu:
657. Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. [64, 65]
659. Trời làm chi cực bấy trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan! [66]
661. Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
663. Một lần sau trước cũng là, [67]
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665. Theo lời càng sưới dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
667. Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
669. “Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
671. Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, [68]
Lại thua ả Lý bán mình hay sao? [69]
673. Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, [70]
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675. Lòng tơ dù chẳng dứt tình, [71]
Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.
677. Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
679. Phận sao đành vậy cũng vầy,
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. [72]
671. Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một thiệt mình là hai.”
673. Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685. Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. [73]
687. Trăng già độc địa làm sao? [74]
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
689. Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Mặc lòng đổi trắng thay đen khó gì! [75]
631. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, [49]
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
633. Nỗi mình thêm gấp nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! [50]
635. Ngại ngùng dợn gió e sương, [51]
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. [52]
637. Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. [53]
639. Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
641. Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. [54]
643. Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, [55]
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” [56]
645. Mối rằng: “đáng giá nghìn vàng,
Nghẹt nhà nhờ lượng người thương dám nài.” [57]
647. Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. [58]
649. Một lời thuyền đã êm giầm [59]
Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi. [60]
651. Định ngày nạp thái vu qui, [61]
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong! [62]
653. Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. [63]
655. Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột rầu:
657. Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. [64, 65]
659. Trời làm chi cực bấy trời,
Này ai vu thác cho người hợp tan! [66]
661. Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
663. Một lần sau trước cũng là, [67]
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665. Theo lời càng sưới dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
667. Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
669. “Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
671. Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, [68]
Lại thua ả Lý bán mình hay sao? [69]
673. Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, [70]
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675. Lòng tơ dù chẳng dứt tình, [71]
Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.
677. Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
679. Phận sao đành vậy cũng vầy,
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. [72]
671. Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một thiệt mình là hai.”
673. Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685. Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. [73]
687. Trăng già độc địa làm sao? [74]
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
689. Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Mặc lòng đổi trắng thay đen khó gì! [75]
691. Họ Chung ra sức
giúp vì,
Lễ tân đã đặt, tụng
kỳ cũng xong. [76, 77]
Đính chính và xác định
Câu 572 – “Hoa trôi
trớt thắm, liễu xơ xác vàng” – Chữ “trôi trớt” câu này bản nôm viết là [㵢 淖] (phần chỉ nghĩa cho
cả hai là bộ thủy, phần chỉ âm lần lượt là lôi [雷] và trác [卓]). Bản ông Nguyễn Khắc Hiếu theo chữ trác
phiên âm là “trát” không thật đúng. Bản ông Trần Trọng Kim phiên âm là “giạt” thì thực là vô
nghĩa. “Hoa trôi trớt thắm” = vẻ mặt
Kiều đương hồng hào đẹp thế mà bỗng hóa ủ ê buồn tái nhợt đi.
Câu 582 – “Rụng rời đọt liễu, tan tành
cội mai” – “Đọt” = nhánh cây non mập mạp mới mọc rất mạnh từ gốc lên cây, có
thể thành thân cây thứ hai được. “Cội” = gốc cây già cứng giữ cho cây bền vững.
“Đọt liễu” tượng trưng hai cô gái trẻ: Kiều, Vân. “Cội mai” tượng trưng Vương bà
có vẻ già cứng thanh tao như cây mai và là chủ cốt gia đình. Vì chữ “đọt” nôm viết
[mộc木 + đột 突] gần giống chữ “giọt” [bộ thủy + đột]
nên thợ khắc bản in gỗ trước quen tay khắc lầm “đọt” ra “giọt.” Các
nhà xuất bản sau, vì không biết sự khắc lầm đó, công nhận chữ [湥] (giọt) và giảng nghĩa
gượng giọt liễu là những giọt dây lưng đàn bà con gái buông xuống
ở trước bụng; rồi thấy “cội mai” [檜 梅] đối với giọt
liễu không chỉnh, lại đổi “cội mai” ra “gối
mai” [檜 梅] vì [檜] cũng
đọc là “gối”.
Xét ra chỉ vì chữ “đọt” khắc lầm ra “giọt” đó mà người sau đều biết câu này
nghĩa không êm xuôi, mới mỗi người một ý, đổi sai thành ra: (a) Rụng rời giọt
liễu, tan tành gối mai – (b) Rụng rời bọc liễu, tan tành cỗi mai – (c) Rụng rời
khung dệt, tan tành gói may – (d) Tan hoang khung cửi, tan tành gói may. Hết
thảy đều lạc nghĩa, nực cười.
Câu 586 – “Vì ai đơm
giậm, đặt giàm bỗng dưng” – “Giậm” = cái vợt đan to bằng tre để đơm cá. Miệng
giậm hình bán nguyệt dài chừng gần 2 mét, buộc ngang trên đầu cái cán dài.
Khi bắt cá người ta cầm đầu kia cán, bất kỳ đặt nghiêng miệng giậm xuống phía
ngoài một góc ao cá, rồi lấy chân lùa cá vào giậm mà nhấc lên. “Giàm” = một thứ
lưới rộng để bắt chim. Người ta đặt lưới ở chỗ ruộng mới gặt xong, rồi đặt chim
mồi và rắc những ré lúa còn thóc để dụ đàn chim trời xuống ăn, rồi bất kỳ giật
lưới úp bắt. Ta hay nói “đơm giậm, đặt giàm” vắn tắt là “đơm
đặt” để nói bày mưu kế mà người mắc vào tội vạ. Câu thơ này cốt ý ở hai chữ
“đơm đặt” là bỗng dưng gán tội vạ cho người.
Câu 635 – “Ngại ngùng rợn
gió e sương” – Chữ “rợn,” ở bản nôm viết là [湎] hay [口+面], chỉ dịch ra “rợn” là vừa đúng tiếng vừa đúng
nghĩa là hổ thẹn, cực khổ quá làm lạnh lùng rùng rợn cả người. Các bản quốc ngữ hiện thời
bản thì dịch là “dín”, giảng là tiếng cổ nghĩa là e lệ. Nếu là “dín” thì bản
nôm sao không viết là [緬] (diến)? Có bản
lại dịch là “dạn” thì sai ý nghĩa.
Câu 646 – “Nghẹt nhà nhờ lượng người thương dám nài” – Chữ “nghẹt” bản nôm in là [歹] (chữ Hán đọc là ngạt và nghĩa là xấu). Vì chữ [歹] này ít dùng, ít
người biết chính âm là gì, nên mỗi người phiên âm một khác: là “ngặt”, là “dớp”
đều xa âm chữ [歹] ngạt cả ;
chỉ có chữ “nghẹt” là vừa đúng âm vừa đúng nghĩa. Dân quê ta thường dùng chữ nghẹt
để nói khi nhà gặp cơn vận hạn túng bấn. Ví dụ như người khất nợ nói “nhà tôi
dạo này vận hạn mãi, thật tình nghẹt quá, vậy xin ông khoan hạn cho ít
lâu, tôi sẽ xin trả dần đủ số.”
Câu 665 – “Theo lời
càng sưới dòng châu” – Chữ “sưới” câu này, bản nôm cũ in là “suế” và viết [氵+ 毳] (chấm thủy +
chữ suế). Chữ suế [毳] là lông tơ súc
vật cũng ít dùng nên ít người biết. Hồi năm 1947, cụ huyện Phù lưu Hoàng Mộng
Lệ tản cư về nhà tôi ở làng Hương Mặc, thường hay bàn truyện Kiều với tôi. Một
hôm cụ nói “Tôi khảo cứu truyện Kiều đã 50 năm nay rồi, mà có một chữ tôi vẫn
không hiểu đọc là gì cho đúng, đó là chấm thủy bên 3 chữ mao.”
Rồi cụ giở cuốn Kiều nôm cũ chỉ cho tôi xem chữ [毳] ở câu này. Tôi bèn giở Khang Hi Tự Đìển ra tra thì thấy chữ đó đọc
là suế. Tôi nghĩ một hồi rồi nói với cụ “Có lẽ là chữ sưới, do
chữ suối đọc trạnh ra và nghĩa là chảy ra như suối.” Cụ bật cười nói “Tôi
cũng nghĩ thế mới đúng!” Rồi cụ nói tiếp “Thế mà các nhà tái bản họ không biết,
họ đổi bừa ra sối, ra chảy, ra rội, thật mất cả hay!” Cụ
còn nói nhiều câu các bản Kiều bây giờ in sai với bản cổ, đại khái như câu “lờ
thu thủy, nhợt xuân sơn” in lầm ra “làn thu thủy, nét xuân
sơn.” Cụ có hẹn tôi cụ sẽ đọc cho tôi nguyên văn bản Kiều cũ nhất của cụ. Nhưng
chưa kịp thì cụ lâm bạo bệnh rồi qua đời. Vậy đây xin ghi lại mấy lời làm kỷ
niệm.
Chú giải và dẫn điển
[1] “Chín hồi” là chín
khúc ruột, do chữ Hán [九
囬 腸 =
cửu hồi trường] dịch ra. Cổ nhân cho rằng cái bụng chủ trương
tư tưởng, mà trong bụng thì có chín khúc ruột xếp thành chín vòng.
[2] “Trông chừng khói
ngất song thưa” – Câu này dịch ở câu chữ Hán [疎 窗 只見 烟 高 = sơ song chỉ kiến yên cao = trông ra ngoài cửa sổ có những chấn song thưa, chỉ thấy khói cao]
ý nói trông chẳng thấy bóng Kim Trọng đâu, chỉ thấy khói bốc cao mù mịt.
[3] “Hoa trôi trớt
thắm” – Xem lời đính chính câu 572 bên trên.
[4] “Ngoại hương” =
làng bên họ ngoại.
[5] “Sai nha” = lính
tráng do tòa án sai về.
[6] “Người nách thước,
kẻ tay dao” – Những lính tráng quan sai về nhà dân trước kia thường võ trang
bằng tay thước và mã tấu. Tay thước = thanh gỗ dài độ 1 m, rộng độ 4 cm
và dày độ 2 cm, bào nhẵn sơn bóng, một đầu có dùi lỗ xâu dây để đeo lên vai
được và cắp vào nách. Mã tấu = thứ dao to lính mang để làm nghi vệ và để
đánh nhau.
[7] “Đầu trâu mặt ngựa”
– Theo sách Khuyến Thiện, ở tòa Diêm Vương dưới âm phủ
có những lính quỉ, đứa thì đầu trâu có hai sừng, đứa thì mặt ngựa mõm dài, đều
rất hung hãn và tàn ác.
[8] “Già giang” – Già [枷] = cái gông đeo
vào cổ. Giang [杠] = cái cùm khóa
vào tay. Hai chữ
này ở đây dùng làm động từ, ý nói đóng gông đóng cùm vào Vương
Ông và Vương Quan.
[9] “Dây vô loại” – Vô
loại [無 類] = không nhân đức
như loài người. Dây vô loại = cái dây tàn ác chỉ để trói người, tức là
cái thừng của lũ sai nha vô nhân đạo. “Hai thâm tình” = hai bố con họ Vương.
[10] “Tiếng ruồi xanh” = Ý nói tiếng lũ tiểu nhân tham lam bẩn thỉu thét lác,
hống hách, ồn ào như đàn ruồi nhặng.
[13]
“Đồ tế nhuyễn” – Tế [細] = nhỏ. Nhuyễn [軟] = mềm. Đồ tế nhuyễn là những
đồ bé nhỏ mà quí báu như tiền, đồ trang sức, quần
áo phụ nữ.
[15]
“Đơm giậm đặt giàm” – Xem lời đính chính câu 586 bên
trên.
[16]
“Xưng xuất” [称 出] = kẻ tù tội khai tên ai ra là đồng phạm
với nó. Thường lũ làm việc quan tham nhũng vẫn bắt kẻ tù tội khai tên vu cho ai
để chúng làm tiền hay để trả thù người ấy.
[17]
“Thằng bán tơ” – Triều nhà Minh nước Tàu rất ghét nước Nhật, muốn hãm nghề dệt
tơ lụa của Nhật, nên cấm dân bán nguyên liệu cho Nhật ; ai phạm tội thì bị
tử hình. Nhưng vì người Nhật mua tơ với giá rất cao, nên vẫn nhiều người Tàu bán
tơ lậu cho Nhật. Một người buôn lậu tơ với Nhật bị nhà chức trách theo dõi, có
vào dự bữa tiệc thọ, ngồi ăn với bố con ông Vương. Khi bắt nó và thấy nhà Vương
ông cũng khá giả, bọn tham quan ô lại bèn bắt nó khai ra là buôn tơ chung với
bố con họ Vương để chúng lấy cớ bắt oan mà tống tiền họ.
[18]
“Tiếng oan dậy đất” = tiếng kêu oan rung động cả đất.
[19]
“Án ngờ lòa mây” ý nói làm tội người ta một cách oan ức, không coi pháp luật và
trời đất ra gì. Sách cổ có chữ chê bọn gian tà [一 手 遮 天 = nhất thủ già
thiên = một bàn tay của kẻ gian tà che kín được cả trời] làm cho người bị vu
oan như vướng mây không thể kêu lên trời được.
[20]
“Hạ từ” = những lời chịu hạ mình xuống bực thấp hèn để kêu oan.
[21]
“Điếc tai lân tuất” – Lân tuất [憐 恤] = thương xót người khổ. Tai lân tuất
= tai nghe người khổ kêu thì biết thương xót. Nhưng lũ sai nha này nghe người
khổ kêu oan chúng chẳng thương chút nào, như thể chúng bị điếc không nghe thấy gì
cả.
[22]
“Phũ tay tồi tàn” = cái tay đánh người ta thì thật phũ phàng tàn bạo.
[23]
“Rường cao” = xà ngang cao nhất ở giữa gian nhà.
[24]
“Một ngày” ý nói xưa nay cái lũ sai nha nó vẫn tàn ác như thế, chứ đâu phải mới
có một ngày như thế là lần đầu mà lạ.
[25]
“Khốc hại” [酷 害] = độc ác tàn khốc.
[26]
“Ngộ biến tòng quyền” – Ngộ biến [遇 變] = gặp lúc tai biến xảy ra bất ngờ. Tòng
quyền [從 權] = nghĩa đen là theo cán cân ; nghĩa
rộng (ra việc đời) là khi gặp việc gì bất ngờ xảy ra, ta phải suy nghĩ kỹ, như
dùng cái cân mà nhắc lên xem đằng nào nặng hơn thì theo. Ở đây Kiều nhắc cân
lên xem, thì thấy bên hiếu nặng hơn, nên nàng phải bỏ bên tình.
[27]
“Đức cù lao” – Cù
lao [劬 劳] = khó
nhọc. Đức cù lao = công đức cha mẹ nuôi con khó nhọc. Trong Kinh Thi có
câu [哀 哀 父 母 生 我 劬 劳 = ai
ai phụ mẫu sinh ngã cù lao = thương thay cha mẹ nuôi sống ta khó nhọc].
[28]
“Thệ hải minh sơn” [誓 海 盟 山] –
Thệ = lấy lời nói mà thề. Minh = giót chén rượu cúng khấn, rồi
thề và cùng uống với nhau. Trong Tình Sử có câu [海 誓山盟 = hải thệ sơn minh = chỉ biển mà ngỏ lời thề,
chỉ núi mà uống lời thề] hàm ý “bao giờ biển cạn hết nước, núi mòn hết đá thì
lời thề mới tan. ”
[29]
“Sinh thành” [生 成] –
Sinh = đẻ ra và nuôi cho sống. Thành = chăm non dạy bảo cho con thành
người khá.
[30]
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha” = lời Kiều nói
từ tạ Kim Trọng, và nghĩa là “xin chàng hãy nén lòng, đừng giận trách thiếp, mà
cho thiếp được bán mình để chuộc đời của cha.”
[31]
“Lại già” – dịch từ hai chữ Hán “lão lại” [老 吏] =
người già làm việc giấy tờ đã lâu ở văn phòng các quan tòa.
[32,
33] “Nha dịch” [衙 役] = những người làm việc ở văn phòng
các quan hành chính, tòa án ; họ thường hay điên đảo pháp luật để bắt nạt dân
lấy tiền của. “Từ tâm” [慈 心] =
có lòng nhân từ thương người. (Tác giả dùng câu này để mỉa mai bọn nha dịch).
[34]
“Lạng” [兩] = một đơn vị của
phép cân ta (cũng gọi là “lượng”) nặng chừng 37 g. Xưa kia ta chỉ đúc tiền bằng
đồng, bằng kẽm để tiêu, còn vàng hay bạc thì để vụn, mỗi khi tiêu phải dùng một
cái cân nhỏ mà cân. Trong sách Tàu người ta thường hay nói nghìn vàng,
túc là nghìn lạng bạc, không phải nghìn lạng vàng. Câu nói “ngoài bốn
trăm” tức là hơn bốn trăm lạng bạc.
[35]
“Tạm phó giam ngoài” = ông họ Chung bảo đảm đem Vương ông và Vương Quan về giữ
tạm ở nhà ông để đợi xét xử, tránh không phải bị gông cùm ở trong nhà giam nữa.
[36]
“Qui liệu” [規 料]
= lo chạy đúng hạn cho đủ số tiền đem nộp.
[37]
“Thương lòng con trẻ thơ ngây” – Chữ “thương lòng” câu 615 này ứng với chữ “
xót vay” ở câu 610, nghĩa là Chung công thấy Kiều còn thơ ngây mà gặp vạ gió
tai bay, nên lòng ông thương xót cho nàng. Bản ông Trần Trọng Kim cho là lòng
Kiều tự thương, và bản kinh cho là tác giả thương cho cảnh Kiều, đều là lầm cả và
làm mất ý nghĩa mạch văn.
[38]
“Vạ gió tai bay” lấy ý từ câu chữ Hán [横 禍 飛 災 =
hoành họa phi tai = tai vạ bỗng dưng xảy ra như gió đưa đến].
[39]
“Tử biệt sinh ly” – Tử biệt [死 別] = chia rẽ nhau bởi kẻ
chết, người sống. Sinh ly [生 離]
= lìa rẽ nhau bởi người ở nhà, kẻ phải bỏ nhà ra đi lúc còn sống.
[40]
“Hạt mưa” – Nghĩa bóng của “hạt mưa” đây là thân phận con gái. Phong
giao ta có câu nói về con gái “thân em như hạt mưa rào / hạt rơi xuống giếng
hạt vào vườn hoa” – hàm ý cô nào số tốt thì như hạt mưa rơi vào vườn hoa, vừa
sạch sẽ vừa thơm tho; cô nào xấu số thì như hạt rơi xuống giếng, tối tăm chìm
đắm chẳng ai ngó tới nữa.
[41]
“Đem tấc cỏ đền ba xuân”
– Trong một bài thơ của thi sĩ Mạnh Giao đời Đường có câu [誰 言 寸 草 心 报 搭 三 春 暉
= thùy ngôn thốn thảo tâm báo đáp tam xuân huy = ai bảo tấc ruột cỏ báo
đáp lại được khí sáng tốt đẹp ba tháng mùa xuân]. Trước kia ta vẫn dùng bấc ở
ruột cỏ, để làm mồi đốt đèn dầu hột. “Có khí sáng
đẹp ba tháng xuân thì cỏ mới lên được” hàm ý “có công ơn cha mẹ sinh dưỡng
thì con mới thành người được. ” Vậy con phải hết lòng báo đáp công ơn cha mẹ,
cũng như cây cỏ nọ đem ruột bấc ra đốt đèn soi sáng để báo đáp lại khí sáng mùa
xuân.
[43]
“Băng nhân” [冰 人] =
người đứng ở trên làn nước đá = người đứng ra làm mối. Xưa có người nằm mơ thấy
mình nói chuyện với một người đứng ở trên băng. Tò mò, ông ta nhờ người đoán hộ
xem đó là điềm gì, thì thầy đoán mộng cho biết là điềm sắp có người làm mối vợ
cho, vì người đứng ở trên mặt băng là dương, bóng người đó ở dưới mặt
băng là âm, tức là nối âm dương liền với nhau. Sau quả nhiên ông ta được
người làm mối vợ cho thật.
[44]
“Tin sương” dịch
từ chữ Hán “sương tín” [霜 信] = tin trời báo trước là sắp có sương mù
đến, như nếu thấy chim le, chim sếu ở phương bắc bay về thì liệu sắp sửa mọi sự
phòng rét. Trong văn cảnh này thì “tin sương” = tin Kiều định bán mình đồn vang
đây đó.
[45]
“Viễn khách” [遠 客] = người khách lạ ở phương xa đến.
1.
Nạp thái [納 采] = ngỏ lời kén chọn (ta gọi là lễ giạm).
2.
Nạp cát [納 吉] = nhận lời cho biết là tốt đôi.
3.
Vấn danh [問 名] = hỏi tên tuổi dâu rể (để hai bên làm
lễ cáo tổ tiên).
4.
Nạp trưng [納 徵] = dẫn đồ cưới (ta gọi là dẫn cưới).
5.
Thỉnh kỳ [請 期] = xin nhà gái định ngày cưới (ta gọi
là xin cưới).
6.
Thân nghinh [親 迎] = nhà trai đón dâu về – Vu quy [于 歸] = nhà
gái đưa con về nhà chồng.
Đây
nói ngay đến vấn danh để tỏ ý mua bán, thật đáng thương cho Kiều !
[47]
“Lâm thanh” là một
huyện ở gần Bắc Kinh, còn quê thật của Mã Giám Sinh thì ở huyện “Lâm tri” rất
xa. Tên chữ Hán của hai huyện này khi viết chỉ khác nhau có một nửa ở chữ thứ hai thôi : [臨 清] =
Lâm thanh so với [臨 淄]
= Lâm tri. Mã Giám Sinh nói dối có hai mục đích lừa nhà gái – vừa để nhà
gái tưởng gần dễ bằng lòng, vừa để sau này khó tìm và khỏi sinh kiện cáo. Vì
vậy sau này Kim Trọng tìm cả mười mấy năm không thấy Kiều ở đâu.
[48]
“Quá niên” = đã quá tuổi thanh niên nhưng chưa già.
[49]
“Sỗ sàng” = trơ tráo, thô bỉ, vô lễ.
[50]
“Lệ hoa” = nước mắt đầm đìa trên mặt Kiều (tựa như những giọt mưa đọng ở đóa
hoa ủ rũ).
[51]
“Dợn gió e sương” – Xem lời xác định câu 635 bên trên.
[52] “Ngừng hoa bóng thẹn” = vừa
ngại ngùng dở đi dở đứng, vừa nhìn xuống dãy hoa thấy bóng mình ở trên hoa mà
thẹn với hoa.
[53]
“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” – Câu này tả vẻ buồn của cô gái thanh tao
lịch sự tuyệt hạng mà gặp cảnh ê chề nhục nhã quá sức. Tuy buồn rầu khổ đau mà cô
vẫn nguyên vẻ thanh cao, theo ý câu chữ Hán [容 淡 如 菊 骼 瘦 如 梅 =
dung đạm như cúc cách sấu như mai = vẻ mặt buồn nhạt như hoa cúc, hình
dạng khô gầy như cành mai].
[54]
“Dặt dìu” mô tả lời nói đắn đo, lựa ý và tùy cơ nữa mà mặc cả.
[55]
“Lam Kiều” = nơi có núi Lam Điền trồng ngọc và có nhiều tiên nữ cư ngụ.
[56]
“Sính nghi” [聘 儀] = đồ dẫn cưới. Đây tức là Mã Giám
Sinh hỏi lấy bao nhiêu tiền, nhưng nói là sính nghi cho lịch sự, cho hợp
với lễ cưới.
[57]
“Nghẹt nhà” – Xem lời xác định câu 646 bên trên.
[58]
“Ngã giá” = cuộc mặc cả đã thành giá, đôi bên
cùng thỏa thuận.
[59]
“Êm giầm” – Câu
tục ngữ “buông tay giầm, cầm tay lái” nghĩa là khi lái đò mặc cả với khách hàng
đã thành giá rồi, thì bỏ tay giữ cái giầm hãm thuyền ra, cầm lấy mái chèo để
cho thuyền đi.
[60]
“Canh thiếp” [庚 帖] = tấm thiếp biên “niên canh” [年 庚] (tuổi năm sinh) và tên
của cô dâu và chú rể.
[61]
“Nạp thái, vu quy” – Xem lời chú thích [46] về “vấn
danh” bên trên.
[62]
“Tiền lưng” = tiền sẵn có trong tay để lo mọi việc.
[63]
“Khất từ tạm lĩnh” = làm đơn xin mang tạm Vương ông về nhà.
[64]
“Trao tơ” – Theo sách Thiên Bảo Dị Sử, Trương Gia Trinh đời nhà
Đường có 5 cô con gái, muốn gả một cô cho Quách Nguyên Trấn là một thanh niên có
tài hơn người. Ông đưa cho mỗi cô cầm đầu một sợi chỉ to dài màu khác nhau,
ngồi ở nhà trong. Rồi ông dòng các sợi tơ đó ra nhà ngoài, bảo Nguyên Trấn chọn
lấy một sợi, đúng sợi cô nào thì lấy cô ấy. Nguyên Trấn rút lấy sợi màu đỏ, lấy
được cô thứ ba là cô đẹp nhất. Đó là tích “trao tơ. ”
[65]
Sau đây là tích “gieo cầu” : Theo sách Tam Hợp Bảo
Kiếm, Hán Vũ Đế kén phò mã bằng cách cho công chúa ngồi trên lầu, ném quả cầu
bằng gấm thêu xuống lũ con trai vua đã kén đi lại ở dưới, quả cầu trúng người
nào thì người ấy được làm chồng cô.
[67]
“Một lần ” = một lần chết – ý nói trước sau thế nào cũng có một lần chết.
[68]
“Nàng Oanh” – Theo truyện Liệt Nữ của Lưu Hướng đời Vua Hán Văn Đế, Thuần Vu Ý
bị án tử hình. Con gái Vu Ý là Đề Oanh [緹 縈] dâng thư lên vua xin nộp mình vào làm
quan tỳ (kẻ sai vặt) suốt đời trong một công sở, để chuộc tội cho cha. Vua xem
thư rất thương tình, liền tha án tử hình cho cha nàng.
[69]
“Ả Lý” – Theo sách Tùng
Thư đời Đường, nàng Lý Ký nhà nghèo tình nguyện bán mình làm lễ cúng thần rắn
để lấy tiền nuôi cha mẹ. Sau nàng giết được rắn thần và lấy được vua Việt
Vương.
[70]
“Cội xuân” = biểu tượng của người cha già làm cội gốc cho
gia đình. Theo Trang Tử, cây xuân sống rất lâu (có thể đến 8 ngàn năm) cho nên trong
văn chương, người cha được con cái gọi là “xuân đường” [椿 堂] (nhà
xuân) để tỏ ý mong cha sống lâu mãi mãi. “Tuổi hạc” – Người xưa nói con chim
hạc và con rùa đều sống hàng nghìn năm, cho nên trong văn chương tuổi già được gọi
là “hạc toán” [鶴 算] (tuổi hạc) hay “quy linh” [龟 龄]
(tuổi rùa).
[71]
“Lòng tơ” = lòng vướng vít vì tình. Câu này Kiều nói nếu cha không dứt
tình thương con đối với nàng.
[72]
“Chẳng đỗ” = chẳng nuôi được, chết ngay từ lúc mới đẻ.
[73]
“Tờ hoa” = tờ văn tự bán Kiều, viết bằng giấy hoa tiên (một thứ giấy viết thư
có in hình cành hoa đỏ).
[74]
“Trăng già” = do điển tích [月 下 老 人 =
nguyệt hạ lão nhân = ông già ngồi dưới trăng (se chỉ kết duyên vợ chồng)].
[75]
“Đổi trắng thay đen” = câu tục ngữ để nói về lũ tham quan ô lại bỗng dưng buộc
tội oan cho người dân để dọa nạt làm tiền (đổi trắng ra đen) ; khi đã được tiền
đút lót rồi thì lại xóa tội đi (đổi đen ra trắng).
[76]
“Lễ tâm” = của đút lót thầm kín làm lũ quan tham được vừa lòng.
[77]
“Tụng kỳ” [訟 期] = thời gian hầu kiện ở tòa án.
Diễn
ra văn xuôi
Câu
569, 570 – Chàng Kim đi rồi, Kiều vẫn còn đứng ở trước mái hè phía tây nhà, bối
rối như trăm mối tơ vướng vít trong lòng.
Câu
571, 572 – Nàng đưa mắt nhìn qua hàng trấn song thưa cửa sổ, chỉ thấy một vùng
khói bốc lên cao trên phía chàng đi. Mặt mày nàng ủ rũ tê tái, mất hết vẻ hồng
hào tươi đẹp như hoa, như liễu.
Câu
573, 574 – Nàng đương ngơ ngẩn dạo bước lên lầu trang thì đoàn mừng thọ ở bên
ngoại về đến nhà.
Câu
575, 576 – Nàng chưa kịp chào mừng hỏi han hết lời thì bỗng thấy một bọn sai
nha kéo vào, thét lác om sòm tứ phía.
Câu
577, 578 – Người thì tay thước cắp nách, kẻ thì mã tấu cầm tay, trông như lũ
quỹ sứ đầu trâu mặt ngựa, quát thét hung hăng, dữ tợn nóng nảy, ào ào như nước
sôi một lượt.
Câu
579, 580 – Chúng gông cổ cùm tay Vương ông và Vương
Quan, rồi lấy một chiếc thừng ra tay độc ác vô nhân đạo, trói hai bố con vào
với nhau.
Câu
581, 582 – Chúng hung hăng như đám ruồi xanh quát thét vang nhà làm bạt vía hai
cô gái trẻ đẹp như hai đọt liễu xanh non, và một bà già khô gầy như gốc mai
già.
Câu
583, 584 – Bao nhiêu những đồ quý giá vặt vãnh dễ mang, và những vải vóc áo
quần mềm đẹp dễ cuốn gói với những tiền bạc của cải riêng tây, chúng đều vơ vét
hết sạch cho hả lòng tham như túi không đáy.
Câu
585, 586 – Rõ thật là một điều lạ lùng, ai đã đưa vạ gió tai bay ở đâu đến buộc
vào nhau như vậy ? Ấy ai đã bỗng dưng đơm đặt ra tội nọ tội kia như đơm giậm để
bắt cá, đặt giậm để bắt chim như vậy ?
Câu
587, 588 – Sau hỏi ra mới biết rằng bị thằng bán tơ
nó tiêu xưng cho hai bố con Vương ông đã đồng mưu buôn lậu tơ với nó để bán cho
kẻ thù (tức là người Nhật thời ấy).
Câu
589, 590 – Cả nhà nghe nói bị vu oan cho tội to như vậy đều ngẩn ngơ rất hoảng
sợ ; tiếng kêu oan đã làm rung động cả đất, và cái tội án vu vơ này đã tối tăm
như mây phủ kín trời chẳng biết kêu cầu lên ai được.
Câu
591, 592 – Cả nhà bây giờ đành phải chịu hèn, van vỉ chúng suốt ngày. Nhưng ôi !
Tai lũ này như điếc, chẳng nghe thấy những lời van vỉ thảm thê đáng thương xót
ấy, mà cái tay đánh đập tàn ác của chúng lại càng phũ phàng thêm.
Câu
593, 594 – Chúng lấy một dây thừng oan độc, một đầu trói buộc hai chân người
ta, rồi vắt đầu thừng kia lên trên cái rường cao giữa nhà mà kéo ngược hai
cha con họ Vương lên lủng lẳng dưới mái nhà, làm cho dẫu là sắt đá cũng phải
rùng rợn, huống chi là người ruột thịt.
Câu
595, 596 – Trông thấy mặt người bị treo đau đớn, ai cũng phải sợ hãi rụng rời.
Ôi cái cuộc oan uổng này thật
hết kêu cứu với ai, chỉ còn cách kêu trời, thì trời lại cao xa quá, kêu sao cho
thấu được đến tai trời.
Câu
597, 598 – Nguyên cái lề thói lũ sai nha xưa nay nó vẫn vậy, chứ đâu phải mới
có ngày hôm qua là một, mà ta cho là lạ lùng. Chúng đánh trói tàn khốc như thế,
chẳng qua là chỉ cốt để lấy tiền thôi.
Câu
599, 600 – Muốn cứu cho tính mạng của cha và em được an toàn thì phải có nhiều
tiền bạc cho bọn này. Nhưng nhà mình vốn đã chẳng giàu, lại bị chúng nó vơ vét
hết cả của cải rồi, thì lấy đâu ra tiền bạc ? Chỉ còn mỗi một cách là ta
phải liều thân bán mình đi thôi. Nhưng khốn nỗi, còn vướng lời thề nặng với
chàng Kim thì sao ? Nhưng đành thôi vậy, gặp biến thì ta phải tòng quyền chứ
biết tính sao bây giờ !
Câu
601, 602 – Kiều suy tính : Một bên là duyên gặp gỡ
thề ước với chàng, một bên là công đức sinh thành của cha – ta phải cân nhắc
xem bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn.
Câu
603, 604 – Nàng thấy bên hiếu nặng hơn, nên nàng mới dẹp những lời chỉ biển chỉ
núi mà thề với chàng để lại một nơi bên
lòng, mà nghĩ đến đạo làm con là trước hết phải đền ơn sinh thành của cha mẹ.
Câu
605, 606 – Nghĩ vậy, nàng mới quyết tình hạ bên tình xuống. Rồi lòng nàng đau
khổ như nghẹn ngào nức nở, mà như ngỏ lời van lơn từ biệt chàng Kim rằng “Xin
chàng hãy khoan khoan, hãy dẽ dàng nén lòng nhớ tiếc thiếp đi, nén lòng giận
trách thiếp đi, mà cho phép thiếp bán mình để chuộc tính mạng cha thiếp !”
Câu
607, 608 – Bấy giờ có một lại già họ Chung, tuy cũng ở trong bọn nha dịch,
nhưng lại có lòng nhân đức.
Câu
609, 610 – Ông thấy nàng có tình thương bố sâu xa quá, nên tuy chẳng họ hàng gì,
ông cũng thương thầm xót vay cho nàng.
Câu
611, 612 – Rồi ông tính việc lo chạy giúp nàng, và bảo nàng là ông đã tính đút
lót mọi nơi, tất cả phải hết chừng 300 lạng bạc thì việc này mới xong xuôi
được.
Câu
613, 614 – Rồi ông bảo lĩnh được tạm đem Vương ông và Vương Quan về giữ ở nhà
ông để chờ ngày xét xử, thay vì bị cùm giam trong ngục tù. Ông bảo Kiều phải
liệu thu xếp lo chạy cho đủ số tiền trong vài ba ngày rồi đưa cho ông.
Câu
615, 616 – Sỡ dĩ ông tận tâm giúp đỡ Kiều như vậy là vì lòng ông thương hại cho
Kiều tuổi còn trẻ thơ mà gặp cơn vạ gió tai bay to tát bất kỳ như vậy.
Câu
617, 618 – Còn về phần nàng, thì thật đau lòng quá đỗi, sắp sửa phải xa lìa bố
mẹ, thà chết đi mà lìa nhau còn hơn. Thân mình còn lìa bỏ chẳng tiếc, thì còn
tiếc gì đến duyên với tình nữa.
Câu
619, 620 – Nhưng nàng biết thân phận con gái vốn hèn mọn như hạt mưa rào nói
trong ca dao, dẫu sa xuống giếng cũng đành chịu, nên nàng đành không hơi đâu
nghĩ đến thân nữa. Thế là nàng quyết liều thân báo ơn cha mẹ, như cây cỏ bấc
kia nó đã đem ruột nó ra làm tim đốt đèn soi sáng để báo đáp lại ánh sáng ba
tháng xuân đã nuôi lớn nó.
Câu
621, 622 – Nàng kể cho người làm mối biết nỗi lòng của nàng, và nhờ người ta
làm mối cho. Tin nàng bán mình đồn đi chóng lắm, làm xôn xao cả một vùng.
Câu
623, 624 – Có một mụ ở gần đó đưa một người khách ở xa đến, vào nhà nàng xin
làm lễ vấn danh.
Câu
625, 626 – Hỏi tên khách thì hắn nói là Mã Giám Sinh (tức là họ Mã, đỗ Giám sinh).
Hỏi quê quán ở đâu thì hắn nói là ở huyện Lâm Thanh gần đây thôi. (Tên thật hắn
là Mã Bất Tiến và quê thật là ở huyện Lâm Tri rất xa, nhưng hắn khai man, mập
mờ để lừa nhà họ Vương. Xem lời chú thích [47] về huyện Lâm Thanh bên trên).
Câu
627, 628 – Trông mặt thì thấy tuổi hắn độ ngoài bốn mươi, đã quá tuổi thanh
xuân rồi, nhưng mày râu sửa cạo rất nhẵn nhụi và áo quần sắm sửa rất bảnh bao. (Hai
câu tả mặt mày quần áo này cho ta biết hắn là người không đứng đắn rồi).
Câu
629, 630 – Khi Mã đến, lũ đầy tớ theo hầu xôn xao ồ ạt một lượt. Mụ mối vào
giới thiệu trước rồi đưa khách vào lầu trang. (Chữ xôn xao tả đúng là lũ hầu tớ
thuê mướn tạm thời để làm ra vẻ quan sang, nhưng chẳng có lễ phép trật tự gì
cả).
Câu
631, 632 – Vào nhà rồi, Giám Sinh chẳng đợi ai mời đã ngồi tót ngay lên ghế cao
nhất, chẳng có lễ độ chút nào. Còn mụ mối thì vào buồng giục nàng ra ngay cho
khách xem mặt.
Câu
633, 634 – Về phần nàng lúc đó thật khốn cực đủ đường, đã thương tấm thân thanh
cao của mình như thế, mà bị người ta coi như vật giữa chợ, lại thêm nỗi cần kíp
cho nhà mình là một gia đình lịch sự lễ phép như thế mà nay phải đón một kẻ thô
bỉ sỗ sàng này vào nhà cho nó dám khinh rẻ gia đình mình như vậy. Nhưng nàng
vẫn phải lê từng bước đi ra, mỗi một bước trên thềm hoa là mấy hàng lệ tràn
trụa trên mặt hoa nàng.
Câu
635, 636 – Nàng đi thật ngại ngùng từng bước và cảm thấy hổ thẹn ê chề quá
thành ra lạnh lùng cả người như mình ốm nặng rùng rợn trước gió, ngại ngoài
sương, nhìn xuống dãy hoa thì thấy bóng mình thẹn với hoa, trông vào gương thì
thấy mặt mình rõ thật dạn dầy nhơ nhuốc.
Câu
637, 638 – Nàng đã khổ tâm thẹn mặt như thế, lại thêm nỗi mụ mối coi nàng như
con vật đem bán, lúc thì vén tóc nàng lên để khoe với khách là mặt nàng đẹp,
lúc lại cầm tay nàng lên vuốt ve khoe với khách là tay nàng đẹp. Nét mặt nàng
bấy giờ thật buồn thẹn quá, nhưng vẫn có vẻ thanh tao như hoa cúc, người nàng
bấy giờ hóp gầy quá, nhưng vẫn có vẻ đẹp đẽ như cành mai.
Câu
639, 640 – Rồi họ còn đắn đo cân nhắc mãi bên sắc bên tài, sắc tuy đẹp đó,
nhưng tài thì có tài gì không ? Nên khi thì họ bắt gảy đàn cho nghe, khi thì
bắt nàng đề thơ vịnh vào chiếc quạt để xem văn hay chữ tốt thế nào.
Câu
641, 642 – Khi khách thấy bên tài bên sắc, mọi điều mọi vẻ đều đẹp đẽ mặn mà
đáng ưa đáng quý cả, khách bằng lòng rồi, mới đưa lời dò ý, để tùy cơ mà nói
đến chuyện giá cả mua bán, khi tiến khi lui cho khỏi hớ.
Câu
643, 644 – Khách nói “Tôi đến đây, như đến đất Lam Kiều để mua ngọc, vậy
lễ dẫn cưới xin cho biết rõ là định lấy bao nhiêu ?”
Câu
645, 646 – Mụ mối thay mặt nhà gái nói “Kể ra thì
giá thật đáng nghìn vàng, nhưng không may gặp lúc nhà đang túng thiếu, vậy xin
người rộng lượng cho bao nhiêu thì cho, chứ đâu dám nài.”
Câu
647, 648 – Rồi hai bên cò kè mãi với nhau, mụ mối thì xin thêm hai, chàng Mã
thì xin bớt một, mặc cả một hồi lâu mới thỏa thuận ngã giá là bốn trăm lạng
bạc.
Câu
649, 650 – Khi hai bên đã nhận lời êm thỏa mọi bề rồi, họ mới tạm trao cánh
thiếp cho nhau cầm làm bằng chứng, và coi như lễ vấn danh đã xong.
Câu
651, 652 – Và liền định ngày làm lễ “nạp thái” và
ngày làm lễ “vu quy.” (Chữ nạp thái đây đáng lẽ phải nói là nạp trưng
hay nạp tề là lễ dẫn cưới thì mới đúng, nhưng có lẽ đây dùng lễ nạp thái
là lễ đầu tiên, và lễ vu quy là lễ cuối cùng cho tỏ vẻ đủ đầu đuôi 6 lễ). Ôi
trò đời thế mãi, hễ trong tay sẵn có nhiều tiền thì việc gì cũng làm được xong
xuôi cả ; cưới một cô gái tài sắc thanh cao như thế, mà sao dễ dàng mau chóng đến
như vậy !
Câu
653, 654 – Chắc là có đủ tiền rồi, Kiều mới nói với Chung công xin làm đơn xin
tạm lĩnh Vương ông về nhà để ký văn tự bán nàng.
Câu
655, 656 – Khi Vương ông về nhà biết vậy, ông rất đau lòng. Con thì trẻ, cha
thì già mà gặp cảnh thảm thê sắp lìa bỏ nhau; ông nhìn con như muốn hộc máu ra,
ruột đau như cắt.
Câu
657, 658 – Ông than khóc rằng “Cha nuôi con những
mong ước rồi đây sẽ kén cho con được người chồng xứng đôi vừa lứa, để con được
làm dâu một nơi đáng cha đáng mẹ. ”
Câu
659, 660 – “Nay sao trời nỡ làm cho ta phải khổ cực thế này hỡi trời ! Ấy ai đã
vu oan giá họa cho người ta, khiến cha con đang sum họp vui vầy mà bỗng phải
chia lìa nhau một cách đau khổ như thế này ? ”
Câu
661, 662 – “Thôi ! Cái thân già này dù phải búa rìu chém giết thế nào nữa, ta
cũng đành chịu vậy, không ngần ngại chút nào. Chứ nhất định ta không chịu để
cho đứa con trẻ thơ của ta phải đầy đọa vì ta, mà làm cho ta phải oán khổ bội
phần. ”
Câu
663, 664 – “Trước hay sau, thế nào ta cũng một lần chết, thà chết trước đi cho
khuất mắt, còn hơn là sống mà lòng phải đau đớn mãi. ”
Câu
665, 666 – Nói dứt lời, nước mắt ông trào ra như suối, và ông toan liều mình
gieo đầu vào bức tường vôi mà tự tử.
Câu
667, 668 – Vội vàng người thì giữ ông lại, người thì canh chừng ông không tự tử, và Kiều thì chạy
lại nằn nì ngỏ lời to nhỏ mà khuyên can ông.
Câu
669, 670 – “Con là phận gái chẳng đáng quý gì, lại
chưa báo đáp lại mảy may chút nào công đức sinh thành của cha mẹ. ”
Câu
671, 672 – “Nay cha mắc tội nạn này, con đã thẹn với nàng Đề Oanh, không dâng
thư lên được đến vua để cứu cha như nàng. Vậy xin cha cho con bán mình để cứu
cha cho khỏi thua nàng Lý Ký đã bán mình để nuôi cha mẹ. ”
Câu
673, 674 – “Con nghĩ rằng nay cha tuổi đã cao, càng ngày càng già yếu, mà còn
phải gánh vác nhiều việc trong gia đình cho mẹ con và hai em con được nhờ. ”
Câu
675, 676 – “Nay nếu cha không đành lòng dứt đứt cái mối tình thương con đi và
không cho con bán mình để cứu cha, thì tai vạ sẽ như mưa bão nổ lên làm tan
tành cả gia đình. Cha và Quan tránh sao khỏi tử hình, còn ba mẹ con đàn bà con
gái sống làm sao được trong cảnh lòng đau của hết ? ”
Câu
677, 678 – “Vậy sao bằng liều bỏ một thân con đi, chỉ có một con phải đầy đọa
buồn sầu ở nơi xa lạ, còn cả nhà vẫn được sum họp trong gia đình, và sẽ gây lại
được cuộc sống vui tươi. ”
Câu
679, 680 – “Thôi thì số phận bắt thế, ta đành phải
chịu vậy, và con xin cha mẹ cứ coi như không nuôi được con ngay từ lúc mới đẻ
ra được ít lâu, thế là xong, đừng tiếc con nữa. ”
Câu
681, 682 – “Vậy con xin cha thôi đi, đừng tính quẩn lo quanh nữa, đừng tự tử,
cũng đừng tiếc con nữa, mà trước là tan nát gia đình, sau là thiệt thân cho
cha. ”
Câu
683, 684 – Vương ông thấy lời nàng nói hợp lý, nên cũng thuận tai, đành lòng
nghe vậy, rồi hai cha con than khóc nức nở, nước mắt tràn trụa.
Câu
685, 686 – Ngay lúc đang đau đớn than khóc với nhau như thế ở nhà trong, thì họ
Mã vừa đến nhà ngoài. Hắn
đợi Vương ông ký nhận đúng thể lệ vào văn tự bán con viết trên giấy hoa tiên
rồi thì hắn mới cân đủ số bạc cho Vương ông và thu giữ lấy văn tự. Thế là xong
việc mua bán, chỉ còn ngày hôm sau đón Kiều đi nữa là hết việc cưới xin.
Câu
687, 688 – Nghĩ thật đáng trách cái ông già ngồi dưới trăng kia, sao mà độc địa
thế ! Ông cầm mớ tơ hồng, sao không lựa chọn mà se cho người ta vợ chồng đáng
đôi đáng lứa, mà lại se bừa bãi như vậy ?
Câu
689, 690 – Mà cũng đáng ngán cho lũ chính quyền tham ô kia nữa; hễ được tiền
đút lót thì đổi trắng thay đen như chơi, chẳng coi pháp luật và nhân đạo ra gì !
Câu
691, 692 – Họ Vương đã có tiền rồi, lại nhờ được
ông họ Chung giúp đỡ, đưa lễ đút lót vừa lòng mọi nơi đâu đấy rồi, thế là xong
việc, trắng án, chẳng ai khiếu nại gì nữa.
Những
câu và chữ có ý móc nối hoặc châm biếm
Hai
câu 569, 570 tả lòng Kiều nhớ Kim Trọng – chàng thì đi rồi, Kiều thì đứng vẩn
vơ mãi ở hiên tây, lòng vướng vít biết bao nhiêu nỗi nhớ nỗi lo, nào là nhớ
những cuộc họp vui vẻ, khi đề thơ tranh tùng, khi chung thề dưới trăng, khi
chén hà chuốc rượu, khi đàn nguyệt so dây. Những cuộc vui đó đã để nàng nhớ
tiếc, lại thêm những điều không hay khiến nàng lo nghĩ – nào là hai mặt gặp
nhau hẳn hoi mà chàng lại tưởng là mơ ngủ, nào là tiếng đàn chàng chê là ngậm
đắng nuốt cay, nào là chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
Hai
câu 571, 572 tả vẻ mặt Kiều ngắm
trời vẩn vơ, lo buồn thất sắc. Câu “Hoa trôi trớt
thắm, liễu xơ xác vàng” tác giả đã khéo lựa đặt vừa để tả lòng nàng buồn nhớ lo
nghĩ ở đoạn trước, vừa để báo trước cái điềm sầu thảm không may cho nàng ở đoạn
này.
Câu
606 “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha” có ý móc nối với những câu sau đây mãi
về sau : [2813 Cùng nhau thề thốt đã nhiều / 2814 Những điều vàng đá phải điều
nói không / 2815 Chưa chăn gối cũng vợ chồng / 2816 Lòng nào mà nỡ dứt
lòng cho đang / 2817 Bao nhiêu của mấy ngày đàng / 2818 Còn tôi, tôi gặp mặt nàng
mới thôi].
Kiều
biết Kim Trọng sẽ khổ tâm về nàng và sẽ trách nàng phụ ước, nên trước khi định
tâm bán mình, nàng tha thiết gởi lòng xin lỗi mà xin phép chàng cho mình lỗi
thề. Và quả nhiên, khi chàng trở lại thì vì quá tiếc nàng nên đã trách nàng là
tệ bạc thật. Hai chữ “dẽ cho” nghĩa thật thâm thúy.
Những
câu tả mức tham nhũng tàn bạo của lũ sai nha, tác giả kể rất thứ tự liên hệ với
nhau. Trước hết là trói hai cha con Vương ông làm một [Già giang một lão
một trai / Một dây vô loại buộc hai thâm tình]. Rồi vừa thét lác ra oai,
vừa vơ vét của nổi [Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh … Sạch sành sanh vét
cho đầy túi tham]. Khi cướp vét hết của nổi rồi, mới ra tay đánh đập tra
tấn để làm lòi của chìm ra [Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn / Rường
cao rút ngược dây oan]. Những hành động bất nhân ấy quả thực đã làm cho gia đình họ Vương
bị [… khốc hại chẳng qua vì tiền].
Trong
cuộc mua bán người này, mụ mối và bợm Mã vô nhân cách cũng làm cho Kiều khổ cực
chẳng kém gì bọn sai nha vô nhân đạo. Một mụ chẳng quen biết bao giờ và một tên
bợm xa lạ, màu râu nhẵn nhụi, đưa nhau vào thẳng lầu trang [Gần miền có một mụ
nào / Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh]. Tên bợm thì hỗn sược chẳng coi ai
ra gì [Ghế trên ngồi tót sỗ sàng]. Mụ mối thì vào ngay buồng giục Kiều ra, coi
nàng như con vật mụ đem ra bán [Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra]. Rồi mụ
vén tóc nàng lên để khoe cho khách nhìn rõ vẻ đẹp mặt nàng, bắt tay nàng giơ
lên vuốt ve để khoe cho khách nhìn rõ vẻ xinh vẻ đẹp của bàn tay, của ngón tay
nàng. Cảnh nàng bấy giờ có khác gì là con vật giữa hai kẻ bán người mua ? Ngắm
sắc được rồi, bợm còn thử tài Kiều [Ép
cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ]. Nàng đều phải nén lòng tủi nhục, mà cũng cố
gảy đàn, cố đề thơ. Trong lúc này nàng nghĩ đến cảnh đề thơ tranh tùng với biết
bao nhiêu hứng thú, và cảnh chàng Kim hai tay nâng cây đàn trao cho nàng một
cách trịnh trọng. Ta tưởng tượng lúc này nỗi nàng nhớ tiếc những cảnh ấy thì kể sao cho
hết.
Trong
cuộc hai bên thương lượng giá bán của Kiều, tác giả thật khéo dùng những tiếng trong nghề mua bán
như “thừa cơ dật dìu,” “cò kè thêm bớt,” “giờ lâu
ngã giá,” và “thuyền đã êm giầm.”
Tác
giả còn khéo đặt đúng những lời “lịch sự” giả dối trong giới buôn bán, như lời
Mã hỏi giá bán Kiều lấy bao nhiêu [Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường]
và lời mụ mối đặt giá khéo nói lửng lơ […giá đáng nghìn vàng / Nghẹt nhà nhờ
lượng người thương dám nài]. Mụ còn dùng chữ “người” để tâng bốc bợm Mã
lên, hòng nó tung túi bạc ra, nhưng nó vẫn cò kè.
[ĐÀM
DUY TẠO]
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét