Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

Phạm Phú Minh: Anh Đoàn Thanh Liêm giữa chúng ta


Anh Đoàn Thanh Liêm vừa qua đời ngày 9 tháng Sáu 2018 tại nhà riêng ở Costa Mesa, Nam California, thọ 84 tuổi.

Từ trái: Đoàn Thanh Liêm, Đỗ Ngọc Yến, Phạm Phú Minh 

tại Palm Springs khoảng đầu thập niên 2000.

Anh qua đời vào giữa thời điểm nhân dân cả nước Việt Nam đang sôi sục biểu tình chống “Dự luật Đặc khu” do nhà nước cộng sản đưa ra với ý đồ rõ rệt mở đường cho người Tàu vào xâm chiếm nước Việt Nam. Sự trùng hợp này khiến tôi nhớ lại một kỷ niệm với anh Liêm cách đây 30 năm.

Vào đầu năm 1988, tôi ra khỏi nhà tù cộng sản về sống tại Sài Gòn, anh Liêm là một trong những người bạn cũ đầu tiên tôi gặp lại trong một buổi tôi “ngại ngùng dạo phố mùa xuân” trên đường Lê Lợi. Chúng tôi quen biết nhau từ trên 20  năm trước và thường gặp gỡ nhau trong các chương trình hoạt động thanh niên và xã hội. Gặp lại anh tôi cảm thấy đỡ ngỡ ngàng trong một xã hội xa lạ, vì nơi anh tôi gặp lại một nền tảng tinh thần không thay đổi giữa một đất nước đang bị cộng sản hóa.

Một ngày vào khoảng đầu năm 1990, trong lúc mọi người chăm chú theo dõi các chuyển biến của thế giới cộng sản Đông Âu thì anh đưa cho tôi một tờ giấy in những dòng chữ như sau :

“Năm Điểm Thỏa Thuận Căn Bản
Điểm 1: Quốc gia Việt nam không công nhận một tôn giáo nào làm quốc giáo.
Quốc gia cũng không áp đặt một chủ thuyết nào làm giáo điều chính thức của dân tộc.
Nhằm tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng, Nhà nước không can thiệp vào chuyện nội bộ của các tổ chức tôn giáo.
Điểm 2: Dân tộc Việt nam gồm nhiều sắc tộc có truyền thống văn hóa và lịch sử khác nhau.
Như vậy, nền tảng của xã hội VN phải được đặt trên cơ sở đa chủng tộc, đa văn hóa.
Điểm 3: Phát huy truyền thống nhân bản và nhân ái của dân tộc, hệ thống chính trị và luật pháp VN sẽ được xây dựng trên những nguyên tắc đã được ghi trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Điểm 4: Về phương diện kinh tế, vai trò của Nhà nước là làm trọng tài để bảo vệ công bằng xã hội và trật tự xã hội.
Như vậy, Nhà nước không thể vừa làm trọng tài, vừa làm một bên đương sự trong các hoạt động kinh doanh làm ăn được (không thể vừa thổi còi, vừa đá banh).

Hệ quả là hệ thống quốc doanh hiện nay sẽ được giảm tới mức tối thiểu.
Điểm 5: Thể hiện tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, quốc gia sẽ ban hành lệnh khoan hồng đại xá đối với mọi vi phạm do cá nhân, hay do tập thể gây ra.
Nghiêm cấm mọi sự tùy tiện báo ân, báo oán.
Mọi khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại sẽ được xử lý theo đúng thủ tục luật pháp.

Làm tại Saigon, Tháng Hai năm 1990
Đoàn Thanh Liêm”
và nói vắn tắt với tôi : “Tình hình thế giới đang có nhiều thay đổi, tôi nghĩ Việt Nam cần có các vận động của mình. Đây là các điều tôi đang vận động.” Nói xong anh chào tôi ra đi vội vã. Sau đó ít lâu tôi nghe tin anh bị bắt, và giữa năm 1992 nghe tin anh bị đưa ra tòa. Cuối năm đó tôi đến Mỹ diện HO.

Bản tin anh Đoàn Thanh Liêm bị kết án 12 năm tù 
của báo Sài Gòn Giải Phóng
ngày 15 tháng 5 1992 (tài liệu của nhà văn Trùng Dương).

Thế rồi, vì trái đất tròn, năm 1996 tôi lại gặp anh Liêm tại Little Saigon, Nam California. Anh đi Mỹ theo lối “bị trục xuất” ra khỏi Việt Nam, được chở từ nhà tù ra thẳng phi trường để lên máy bay cùng gia đình.

Gặp lại anh, tôi cảm thấy rất tự nhiên, như là anh không hề hoạt động gì, không hề bị ra tòa tại Sài Gòn và bị kết án 12 năm tù vì tội chống phá xã hội chủ nghĩa. Tôi sang Mỹ theo diện HO, và anh tới Mỹ sau tôi mấy năm, như những người bạn mà thời thế xô đẩy đi về một phía, trước sau gì cũng gặp lại nhau. Tôi nhớ đầu năm 1997 anh đã gửi cho tạp chí Thế Kỷ 21 mà tôi đang làm Chủ nhiệm bản Năm Điểm Thỏa Thuận Căn Bản mà bảy năm trước, vào năm 1990, anh đã đưa cho tôi tại Sài Gòn. Tôi đã đăng nguyên văn bản Năm Điểm ấy trên tạp chí Thế Kỷ 21 như một chứng tích hoạt động của anh trong lòng chế độ cộng sản, và riêng giữa anh và tôi, đó là một kỷ niệm mà chúng tôi đã chia sẻ cùng nhau trong thời kỳ các nước cộng sản Đông Âu thi nhau sập đổ, mở ra biết bao hy vọng cho Việt Nam.

Trong bài “Không quốc giáo, không giáo điều” viết vào năm 2010, anh Liêm đã cho chúng ta biết kết quả một nghiên cứu của anh về ‘Chuyển hóa Dân chủ’ của các nước Đông Âu sau khi đã lật đổ chế độ cộng sản. Chúng tôi xin trích một đoạn từ bài viết ấy để thấy những gì anh tìm ra trong nghiên cứu trùng hợp một cách thú vị với tư tưởng của anh :

“Đầu năm 1990 sau khi chế độ cộng sản xụp đổ ở Đông Âu  tôi có viết một bản văn nhan đề là : Năm Điểm Thoả Thuận Căn Bản được coi như cái guideline cho việc soạn thảo bản Hiến pháp sau này. Bản văn được bắt đầu như sau :

Điểm 1 - Quốc gia Việt nam không công nhận một tôn giáo nào làm quốc giáo.

Quốc gia cũng không áp đặt một chủ thuyết nào làm giáo điều chính thức của Dân tộc.


Nhằm tôn trọng và bảo vệ Tự do Tín ngưỡng, Nhà nước không can thiệp vào chuyện nội bộ của các tổ chức tôn giáo.

Vì bản văn này mà tôi bị công an bắt giam giữ vào tháng tư 1990 và trong phiên xử vào ngày 14 Tháng Năm 1992 Toà án tại Sài Gòn đã xử phạt tôi 12 năm tù giam về tội “Tuyên truyền chống chủ nghiã xã hội”. Và sau đó họ đưa tôi đi “thi hành án” tại trại giam Z30D ở Rừng Lá thuộc huyện Hàm Tân Phan Thiết.

Năm 1996 nhờ sự vận động can thiệp cuả nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Amnesty International, Human Rights Watch, cũng như cuả nhiều Dân biểu, Nghị sĩ và các nhân vật văn hoá xã hội, và nhất là cuả chánh quyền Mỹ, mà tôi đã được trả tự do bằng cách công an chở tôi từ nhà tù Hàm Tân ra thẳng phi trường Tàn Sơn Nhầt, để cùng với gia đình qua định cư bên nước Mỹ. Đại khái vắn tắt cuả vụ án cuả tôi là như vậy.

Trong 10 năm nay, tôi để thời giờ nghiên cứu tìm hiểu về sự “Chuyển hoá Dân chủ” (Democratic Transition) tại các nước cựu cộng sản ở Đông Âu và cả ở nước Nga. Và tôi đã tìm ra được nhiều điều lý thú, khả dĩ có thể rút kinh nghiệm cho việc xây dựng tương lai đất nước và dân tộc Việt nam chúng ta. Để cho ngắn gọn, tôi chỉ xin trích dẫn một số điều khoản căn bản trong bản Hiến pháp mới được ban hành trong thập niên 1990 và sau này cuả một số nước cựu cộng sản mà có liên hệ trực tiếp đến quan điểm cuả tôi như đã ghi nơi điều 1 Bản văn "Năm Điểm" đã trưng dẫn ở trên.

A/ Không có Quốc giáo (No State Church)

1-     Điều 40 khoản 2 Hiến Pháp nước Estonia : “Không có quốc giáo” (There is no State Church).
2-     Điều 14 khoản 1 Hiến Pháp nước Nga : “Không một Tôn giáo nào được thiết lập như một quốc giáo, hay như một tôn giáo bắt buộc (No Religion shall be established as a State or Obligatory One).

B/ Không có ý thức hệ Nhà nước (No State Ideology)

1-     Điều 13 khoản 2 Hiến Pháp nước Nga : “Không có một Ý thức hệ nào được thiết lập như là Ý thức hệ Nhà nước, hoặc như một ý thức hệ bắt buộc (No Ideology may be established as a State or Obligatory One).

2-     Điều 5 khoản 2 Hiến Pháp nước Moldova : “Không có Ý thức hệ nào được công bố là Ý thức hệ chính thức cuả Nhà nước (No Ideology may be pronounced as an oííicial ideology of the State).

3-     Điều 12 khoản b Hiến Pháp nước Uzbekistan : “Không một Ý thức hệ nào mà được ban cấp quy chế cuả Ý thức hệ Nhà nước” (No Ideology shall be granted the status of State Ideology).

4-     Điều 11 khoản 2 Hiến Pháp nước Bulgaria : “Không có Ý thức hệ nào mà được công bố hay xác nhận là Ý thức hệ của Nhà nước"- (No Ideology shall be proclaimed or affĩrmed as an Ideology of the State).

Mấy trích dẫn ghi trên thiết nghĩ cũng đã đủ để đánh giá được sự dứt khoát loại bỏ căn bệnh giáo điều của chế độ cộng sản trước đây. Người viết xin để bạn đọc tuỳ nghi phân tích và lượng định về sự thay đổi này trong các quốc gia cựu cộng sản ở Đông Âu và nhất là ở nước Nga. Và rồi đối chiếu với tình trạng ở Việt Nam hiện nay.

Baltimore Tháng Năm 2010 Đoàn Thanh Liêm.”


Sau khi đến Mỹ anh không lái xe, từ nhà anh ở Costa Mesa anh toàn di chuyển bằng xe bus cộng với đi bộ. Tôi rất phục tài đi bộ của anh, anh thường ghé nhà tôi trên đường Bolsa, một căn mobile home nhỏ bé cũng là “tòa soạn” của báo Thế Kỷ 21, và sau này của báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, luôn luôn với đôi chân dẻo dai và nhanh nhẹn.

Trần Đại Lộc và Đoàn Thanh Liêm tại Little Saigon 1996

Anh thích ngồi chuyện trò với tôi trong căn nhà yên tĩnh ấy, dù là ngay trung tâm Little Saigon rộn rịp. Anh kể cho tôi nghe những chuyến đi thăm bạn bè của anh trên đất Mỹ, hoặc thảo luận về các đề tài anh định viết.

Bạn bè Mỹ của anh Liêm rất nhiều, đều là những người cùng chí hướng với anh. Nghe anh kể tôi có cảm tưởng những chuyến đi của anh giống như đi thăm bà con họ hàng, vì anh đến mỗi nơi đều được bạn bè đón tiếp với tình thân thiết như là trong một đại gia đình. Một lần anh đi đến Philadelphia để gặp Sophie Quinn-Judge tại Đại học Temple, Judy Wicks tác giả cuốn sách nổi tiếng “Good Morning, Beautiful Business” và một số người nữa, tôi đã giới thiệu với anh người bạn thân của tôi là nhà văn Hà Kỳ Lam đang sinh sống tại đó, và dù chỉ mới là lần sơ ngộ mà hai bên rất mến nhau. Hà Kỳ Lam hồi tưởng :

“Mình nhớ anh Liêm sang Philadelphia khoảng tháng Tư 2014. Anh ấy có lưu lại nhà mình một đêm. Tuy là lần đầu tiên gặp nhau nhưng mình đã có được những giờ phút chuyện trò thật lý thú, dễ chịu, vì ở anh Liêm mình tìm thấy một tâm hồn bình dị, một cái tâm rộng mở lắng nghe mọi dị biệt... Chuyện vãn miên man, tình cờ hai bên mới khám phá ra cùng xuất thân khoá 13 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. ...
Biết tin anh Đoàn Thanh Liêm qua đời, mình không khỏi khựng lại mấy giây; nó đột ngột và khiến mình buồn quá!...”

Bắt đầu qua thập niên 2010, khi tờ báo Thế Kỷ 21 đã đóng cửa, tôi làm tờ báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, coi như một tờ Thế Kỷ 21 nối dài. Thật ra gọi là nối dài là về phương diện tinh thần thôi, chứ báo giấy và báo mạng vì là hai dạng thức và phương tiện khác hẳn nhau nên cái này khó mà thay thế cái kia được. Có những tác giả thấy mình chỉ có thể viết cho báo giấy thôi, vì báo giấy thì cụ thể, sờ được, xếp trên kệ để lưu giữ được, trong khi báo mạng đối với họ chỉ là một thế giới ảo, có đó rồi mất đó. Thái độ và cách thức của người làm báo cũng tự nhiên đổi khác khi phương tiện đổi khác. Nhưng riêng anh Đoàn Thanh Liêm thì từ khi tôi làm báo mạng bắt đầu cộng tác bài vở một cách rất tích cực, và bài của anh cũng được các trang mạng khác trích đăng lại đều đặn, vì phần nhiều bài của anh có các phân tích, lý luận phù hợp với thực tế lẫn lý thuyết. Từ bài đầu tiên đăng vào hậu bán năm 2011 đến bài sau cùng đăng vào đầu năm 2016 (sau đó tác giả bắt đầu rơi vào tình trạng sức khỏe suy yếu), tổng cộng số bài mà anh Liêm viết cho Diễn Đàn Thế Kỷ là vào khoản 40 bài, với một nhịp độ khá đều đặn, trải rộng nhiều loại đề tài. Bài vở của anh thường nhằm đem lại cho giới trẻ --đặc biệt là tại Việt Nam, những kiến thức về quyền con người, anh nhấn mạnh về hoạt động xã hội dân sự. Anh cũng viết về những chuyến đi thăm bạn bè của anh, nhằm giới thiệu những công trình hoặc ý kiến của bạn anh liên quan đến lịch sử và vấn đề nhân quyền trên thế giới. Thỉnh thoảng anh điểm một vài cuốn sách đáng chú ý của các tác giả Mỹ để giới thiệu cho độc giả Việt Nam, ví dụ Hồi Ký của Condoleezza Rice, hoặc viết về một số nhân vật đặc biệt của Việt Nam như bài “Ngõ Phất Lộc : từ Nguyễn Hiến Lê đến Người Buôn Gió”... Nói chung bài của anh mang lại nhiều lợi ích cho người đọc, nhất là những người đang ở tại những nơi thiếu thốn thông tin.

Anh Liêm rất thông thạo Anh ngữ, anh đã vui lòng dịch giúp tôi loạt bài ‘South Vietnam Women Writers’ của Tôn Nữ Nha Trang sang tiếng Việt để đăng trên tờ Phụ Nữ Diễn Đàn khoảng năm 2009, và trước đó bài ‘Thư gửi Christina’ của tôi sang tiếng Anh.

Vào ngày 4 tháng 11 năm 2010 tại phòng Sinh hoạt của nhật báo Người Việt, Nam California, nhà văn/nhà báo Trùng Dương đại diện cho hội VAHF (Vietnamese American Heritage Foundation) đã có một cuộc phỏng vấn anh Đoàn Thanh Liêm trong chương trình Oral Histoty (Lịch sử truyền khẩu) của hội này. Nhà văn Trùng Dương cho biết : Hiện nay Lịch sử truyền khẩu (oral history) của Cố Luật sư Đoàn Thanh Liêm được lưu tại Vietnamese In the Diaspora Digital Archive (ViDDA), https://vietdiasporastories.omeka.net/ và sẽ được tải lên YouTube khi soạn xong. *

Anh Đoàn Thanh Liêm đang trả lời nhà báo Trùng Dương 
trong cuộc phỏng vấn ‘Oral History’
(Ảnh tài liệu của Trùng Dương).

Trong các buổi ghé chơi với tôi, có khi anh Liêm muốn tìm hiểu thêm về đất Quảng Nam quê tôi mà anh cho là nơi có nhiều nhân vật lịch sử trong thời cận và hiện đại. Một lần tôi kể cho anh nghe buổi gặp gỡ nhau lần cuối giữa hai cụ Phạm Phú Thứ và Hoàng Diệu tại làng của tôi trước khi cụ Hoàng ra Bắc nhận chức Tổng đốc Hà Nội, một câu chuyện không bao giờ được ghi vào sử sách. Được lệnh vua Tự Đức cử đi giữ thành Hà Nội giữa lúc Pháp đang chuẩn bị đánh chiếm miền Bắc, cụ Hoàng Diệu đã từ làng Xuân Đài đến làng Đông Bàn (cùng ở trong Gò Nổi, phủ Điện Bàn, cách nhau độ bốn cây số) để bàn luận tình hình với cụ Phạm Phú Thứ vốn đã từng là phó sứ trong sứ bộ Phan Thanh Giản đi Pháp, đã có nhiều hiểu biết về phía Pháp. Hai cụ nói chuyện từ sáng tới chiều. Trước khi cụ Hoàng ra về, cụ Phạm sai gia nhân bày biện một cái bàn thờ giữa sân. Trước bàn thờ nghi ngút khói hương, hai cụ đã lạy bái biệt nhau, vì biết trước là sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau nữa. Anh Liêm vô cùng xúc động về câu chuyện này, vốn từ trước tới nay chỉ được kể trong vòng con cháu họ Phạm và con cháu họ Hoàng. Nhiều năm sau anh vẫn nói với tôi : “Câu chuyện ấy thật hào hùng mà bi thảm, cho thấy tình thế đau lòng của các cụ thời bấy giờ, sau khi phân tích tình hình thì thấy chỉ còn cách lấy cái chết để trả nợ non sông chứ không còn cách nào khác.”

Để kết thúc bài này, tôi xin thuật lại một chuyện vui vui mà anh Liêm đã kể cho tôi trong một buổi chiều hai anh em ngồi uống trà với nhau. Một lần anh Liêm có cuộc hội họp với một số bạn người Mỹ. Bỗng một người bạn tò mò hỏi anh : “Luật sư Đoàn Thanh Liêm, anh có thể cắt nghĩa cho tôi cái tên của anh không?” Anh Liêm trả lời : “Tên của tôi là Thanh Liêm tạm dịch sang tiếng Anh là Honesty.” Thật bất ngờ, cả bàn họp phá lên cười trước sự ngơ ngác của anh. Một người bạn Mỹ vừa cười vừa bảo : “Một luật sư mà lại có tên là Honesty, thật là chuyện lạ lùng ! Ha ha ha !”

Anh Liêm ơi, cám ơn anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện này, để thấy được người Mỹ thường nhìn nghề luật sư với một thành kiến như thế nào. Nhưng riêng tôi thì tôi rất yêu cái tên THANH LIÊM của anh, vì cái tên đó diễn tả đúng bản chất con người anh, một con người THANH CAO trong ý nghĩ và LIÊM CHÍNH trong hành động.

Suốt đời anh đã như thế. Chúc anh mãi mãi đi vào cõi Bình An.

Phạm Phú Minh

* Vài dòng về văn khố Vietnamese In The Diaspora Digital Archive :
The Vietnamese in the Diaspora Digital Archive (ViDDA) is an online oral history project supported through the non-profit efforts of The Vietnamese American Heritage Foundation (VAHF). It will provide access to more than 500 oral biographies and stories for students, researchers, the general public and overseas Vietnamese communities.