Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2018
Trần Công Nhung: Mộ Nguyễn Du
Tượng
Nguyễn Du
Lần đi săn
ảnh ở Ghềnh Son (1), tôi được một
cụ già đãi
trà lúc trời còn
tối mờ sương. Chén trà
trong sương sớm đầy thi vị.
Lúc uống trà tự nhiên
tôi chợt nhớ hai câu thơ nói
về trà- rượu- trăng-
hoa. Hai câu hai ngả,
tôi nhập lại và cho đó
là thơ cụ Nguyễn
Du, lại còn thắc mắc
không hiểu sao cụ Tiên Điền
bảo: "Khi rượu sớm khi trà trưa”.
Về sau có một độc
giả, anh Vĩnh Quý cho biết: “Cuốn sách của ông
hay, nhưng ông phê cụ
Nguyễn Du tầm bậy”. Hỏi
ra, đúng là tôi tầm bậy thật. Cụ Tiên Điền
không nói “rượu,
trà” mà “cờ,
rượu”.
Khi chén
rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
(Kiều)
Tôi xấu
hỗ và ân hận,
thầm hứa sẽ đến tận
mộ cụ để tạ
lỗi.
Từ
Cửa Lò tôi đón xe buýt về
Vinh. Hôm ở Hà Nội
vào, Taxi từ Ga Vinh đi
Cửa Lò hết 80 nghìn hai người,
trong khi xe buýt, một người 6 nghìn, mà thời
gian cũng chỉ thế. Xe buýt thả khách
tại ga Vinh, tôi tìm một taxi đi
Nghi Xuân. Sách văn lớp
Đệ Tứ (lớp 9) ngày trước đều ghi rõ: “Thi Hào
Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh”.
Nghi Xuân qua cầu
Bến Thủy là đến, không xa mấy. Mặc cả cho có lệ rồi
lên xe. Anh tài xế có
vẻ cũng văn nghệ. Xe anh hát toàn nhạc
dân ca, những bài đặc sệt
giọng miền Trung:
“Đi mô
rồi
cũng
nhớ
về
Hà Tĩnh, nhớ
núi Hồng Lĩnh,
nhớ dòng
sông La,
nhớ
biển
rộng
quê ta...”.
Bài ca chợt
đưa tôi về trại
cải tạo A30 của những năm phong trào vượt biển
lên cao nhất. Hàng tuần mỗi
tối thứ bảy đều
có văn nghệ trại. Buổi văn nghệ nào cũng
“...nhớ về Hà
Tĩnh, nhớ núi Hồng
Lĩnh...”, tôi như
nhập tâm. Cho dù có nặng
lòng ân oán vì
thời cuộc, tôi thấy bài
nhạc có những đoạn rất hay.
Lúc nghe anh xe giới
thiệu: “Cầu qua sông Lam”,
tôi nhờ anh đỗ xe để chụp cảnh sông Lam núi Hồng (sông
La là một nhánh của sông
Lam). Dòng sông rộng êm
đềm nhưng không tấp nập
thuyền bè như sông
Hương. Chếch về phía Nam, núi Hồng Lĩnh hiền hòa ở đó từ bao đời
nay... Quê Hương Việt
Nam là cả một màu
xanh mườn mượt, biển xanh, sông xanh, đồng lúa xanh, núi đồi xanh... màu xanh nối dài
thấu tình người đi xa. Thấy mà không thể
không thương không nhớ. Tôi
đi bộ qua chiếc cầu mới tinh và “hiện
đại” như nhiều
chiếc cầu của Âu Mỹ,
tai nghe văng vẳng “Nhớ cánh đồng muối
trắng,
tình sâu mấy nghĩa
nặng,
biển
ta lại
nhớ
rừng...”.
Hướng Trường Sơn cảnh
đẹp gợi cảm hơn, sinh động hơn chứ không lặng lờ
như cái đẹp của
đồng bằng xuôi về biển
cả.
Qua cầu,
bác tài nhắc tôi:
“Chú chụp về
bên kia lấy ảnh trụ
ống khói, đó
là dấu tích duy nhất còn lại trong “thời
kỳ chống Mỹ”. Lúc
nãy anh cũng nhắc tôi đi chụp
“tượng đài”, tôi
ậm ự “tượng đài tôi
chụp nhiều lắm rồi, anh biết chỗ nào hay, lạ,
chỉ dùm”. Tôi
đứng lặng, nhìn sông nhìn
núi rồi bất giác nhìn về
cả chuỗi ngày đã
qua, bao nhiêu kỷ niệm của ấu thời gắn
bó với đồng ruộng
nương khoai. “Quả đầu mùa
hạt
sương
mai lung linh nỗi nhớ
– Trâu ơi ta về
đồng
cỏ
mênh mông”. “Người
bạn nhỏ” đến
nhắc thầm “ Xong chưa,
đi”.
Xe rời
quốc lộ 1 ở ngã ba Gia Lách, chạy men theo hữu
ngạn sông Lam. Nhìn bảng
hiệu hàng quán hai bên thấy
tên đường đề Nghi Xuân. Chạy chừng
mươi phút, xe rẽ vào
con lộ nhỏ, ngang qua một khu nhà hình chữ
U mái ngói còn tươi,
dãy nhà ngang ở giữa đâm
mái lên 1 tầng phụ,
theo lối thường
thấy ở các tự
viện. Trước sân, có
bức tượng đen cao lớn. Anh xe bảo “Khu Lưu
Niệm Nguyễn Du”. Tôi nói
với bác tài: “Mình chạy một
vòng rồi trở lại”.
Chu vi khu lưu niệm khá rộng. Tôi
nghĩ bụng: “thế mới
xứng với một Thi Hào”. Quành
ra phía sau, thấy có cổng gỗ
đã hỏng, tôi
hỏi anh xe:
- Mình vào đây được không?
Dạ
được, để em đưa xe ra đậu phía trước.
Vâng, rồi
tôi đi dần ra.
Nhiều
cây cao bóng rợp, cảnh
thanh vắng, lối đi lát
gạch, trang nghiêm sạch sẽ. Ba ngôi nhà cổ,
hai ngôi vừa, một ngôi khá lớn,
nằm song song cách nhau một
khoảng sân. Nhác thấy
có mấy người đang đi về phía một ngôi
“miếu” bên
trái, tôi vội qua nhập
bọn. Nhóm du khách vào
thắp hương trong nhà thờ cụ
Nguyễn Du. Tôi bước vào
đứng trước bàn thờ với
mọi người, trong lúc họ lay hoay đốt
nhang khấn vái, tôi yên
lặng cúi đầu thầm
niệm: “Kính bạch
Hương Linh cụ Nguyễn Du, tôi là hàng
chiu chít, đã có
lần vì ngu dốt nghĩ
nhầm về Cụ, nay tôi đến
xin tạ lỗi với Cụ. Kính mong Cụ rộng lòng
tha thứ cho”.
Trước khi lui ra tôi đọc mấy
dòng khắc trên bảng đá: “Nhà
thờ Nguyễn Du do Tiến Sĩ Nguyễn Mai và Hội Khai Trí Tiến Đức
xây dựng lại năm 1940”.
Tôi đi
dần về phía khu nhà lưu niệm,
lòng thảnh thơi. Tôi ngắm pho tượng
to hơn người thật, một văn nhân thời xưa,
khăn đống áo dài, tay cầm
bút lông, dưới có
ghi: “Đại
Thi Hào Nguyễn Du 1765 –1820”.
Tự
nhiên nghe tiếng chào của một
thiếu nữ:
Dạ,
chú mới vào từ cửa
sau?
Sao cháu biết?
Mà cháu là...
Dạ,
cháu là hướng dẫn
viên, thấy chú chưa mua vé ...
Thế
à, chú xin lỗi, vậy
để chú đi mua vé. Vé
bán ở đâu
và bao nhiêu một vé?
Người
con gái chỉ cho tôi ngôi
"nhà bảo vệ" phía trái cổng vào và vui vẻ
nói:
Không sao chú, mời
chú tiếp tục xem rồi lát mua vé cũng
được.
- Cảm
ơn cháu. Lúc vào cổng
sau, chú thấy 3 ngôi nhà cổ,
đấy là nhà gì
hả cháu:
Dạ,
hai nhà Tư Văn để
bình Thơ Văn, nhà Bảo Tàng,
kia là nhà thờ.
Có người
bảo nhà bảo tàng
nguyên là một đình làng?
- Dạ
đúng thế, đó là đình chợ
Trỗ trên Đức Thọ
đưa về năm 1963, đình làm bằng
gỗ mít trên 200 năm.
Tức cùng thời với
Nguyễn Du.
Cô gái đưa
tôi đi một vòng, vừa giải
thích những điều tôi
thắc mắc.. Nhà Bảo Tàng,
nơi trưng bày nhiều tài
liệu tranh ảnh minh họa một số tác phẩm
của Nguyễn Du, những kỷ vật của
Thi Hào như: Nghiên mực, đĩa
mai hạc Nguyễn Du được tặng trong thời gian đi sứ, nậm và chén uống
rượu, gạc nai treo áo, địa bàn
đi săn.
Vốn
dĩ trong người mang sẵn di tố tài
hoa, phóng khoáng, uyên bác
của cha (Nguyễn Nghiễm) và mẹ (Trần
thị Tần) gốc người Bắc Ninh, duyên dáng, giàu lòng nhân ái, say
mê văn nghệ dân gian, cụ
Tiên Điền rõ
ràng đã thừa
hưởng nguồn mạch của 3 dòng văn hóa:
Hà Tĩnh, Thăng Long và Kinh Bắc. Gặp
lúc thời cuộc đổi thay (Lê, Nguyễn),
gia thế suy sụp, người hay đau ốm, Nguyễn Du thường theo phường săn, lên núi Hồng
Lĩnh, và theo dân chài
ra khơi đánh cá.
Cụ cũng tham dự những buổi hát ví hát
dặm của trai gái trong vùng, đi vãn
cảnh nhiều nơi... Có lẽ đây là thời
kỳ cụ Nguyễn Du có cuộc sống
phong phú nhất, chuẩn bị cho kiệt tác Kiều ra đời
sau này.
Trong nhà chính của
khu lưu niệm, thấy chưa trưng bày gì nhiều.
Đáng chú ý là tập Kiều
gồm 3250 câu viết trên
giấy khổ lớn (1m2x1m6) theo lối thư
pháp, nặng 75kg. Công trình do Nguyệt
Đình và 6 họa
sĩ thực hiện tại Huế năm 2002 trong 6 tháng. Bên
cạnh có vài tượng
của Thi Hào bằng thạch
cao. Các tượng lớn nhỏ đều cùng
một nét tạc, nhẹ
nhàng thanh thoát, khẳng khái
mà hiền hòa. Cô hướng dẫn
cho biết, Nguyễn Du không có hình
ảnh để
lại, chính quyền tỉnh
Nghệ An đã mở
một cuộc thi tạc tượng, dựa theo ý của
hai tập thơ: Thác Lời Trai Phường
Nón và Sinh tế Trường Lưu Nhị Nữ Văn.
Toàn quốc có 16 điêu
khắc gia tham dự. Kết quả, tác phẩm của
Lê Đình Bảo
được chọn.
Mùa này miền
Bắc nóng nổi tiếng,
nhưng ở đây,
sáng nay trời
như có gió hiu hiu, thong thả
dạo quanh khu lưu niệm, dưới bóng cây... tôi không thấy
mình bị thúc hối bất
cứ thứ gì. Cô
gái có giọng nói
nhẹ thật nhẹ. Ai bảo giọng Nghệ An Hà Tĩnh khó
nghe? Tôi cứ tưởng như tiếng
chim hót. Tôi ngõ ý
xin chụp một vài ảnh về
mái tóc, cô gái
vui vẻ và còn tỏ
ra rất quen thuộc trong “dáng thế”. Điều
này chứng tỏ đã có nhiều
ống kính ngắm nhìn
mái tóc dài óng
ả của cô. Trong khi chụp ảnh tôi
hỏi:
Cháu làm đây đã
lâu chưa?
Dạ
đã mấy năm,
cháu là hậu duệ
đời thứ tám của
Nguyễn Du.
Hậu
duệ của thi hào Nguyễn
Du
Tôi ngạc
nhiên nhìn lại cô
Hướng Dẫn, ngay từ đầu tôi
đã ngờ ngợ,
cô gái có vẻ
đẹp sáng hơn bình
thường, ánh mắt và
nụ cười như ẩn những
nét tinh anh. Ngay cái tên Vân
Huyền cũng rất hợp với mái tóc. Tôi
sực nhớ:
À còn mộ
cụ Tố Như
ở đâu cháu?
Dạ
trong đây chừng cây
số, cháu đưa chú
đi.
Dọc
đường, Vân Huyền cho biết
nhiều chi tiết rất lạ về Nguyễn Du:
Mất
năm 1820, năm 1824 con trai Nguyễn Ngũ cải táng
mộ cha về xứ Đồng
Mát, sau dời về xứ Đồng
Thánh, đặt trong vườn nhà Nguyễn Du ở
Tiên Điền. Nơi
đây mỗi năm
nước lụt ngập mộ nên mộ
lại dời một lần nữa. Hồi đó
khoa phong thủy còn hiếm, thầy
địa lý không có,
hai người cháu trong giòng họ Nguyễn
đi tìm huyệt mộ
bằng cách bưng một
hương án, trên có
nhang đèn và một
con cò bằng gỗ. Hai người cứ đi, nơi
nào con cò rơi xuống thì đó
là nơi đặt mộ
Nguyễn Du.
Cụ
Tiên Điền qua đời
lúc mới 65, có 18 người con với
3 bà vợ. Bà cả một
con, bà hai một con, bà ba (thiếp) 16 con.
Khu mộ
phần không rộng lắm,
kiến trúc theo lối hoa viên bỏ ngõ.
Rào tường thấp chung quanh. Vân Huyền nói:
- Đây là mộ
Nguyễn Du. Ngôi mộ được
sửa sang lại sau ngày
có bài thơ của
Vương Trọng.
- Sao lại có chuyện liên
quan đến một bài thơ?
- Dạ,
nhà thơ Vương Trọng
một hôm về thăm
mộ Nguyễn Du, ông thấy ngôi
mộ của một đại thi hào sao quá
thảm, nên đã
làm một bài thơ đăng
báo. Bài thơ đã đánh
động dư luận các giới, từ
văn học đến chính
quyền và lan ra quần
chúng. Các giới rất
đỗi xôn xao...
Chúng tôi đã vào đến
nhà bia, ngôi nhà mái
ngói đỏ tươi, bốn cột to chắc, bia bằng đá xanh, cỡ
1m x 2m, có dòng chữ “Danh
nhân văn hóa thế giới-
Đại thi hào Nguyễn Du”.
Phía sau là phần mộ,
được làm bằng đá mài đen
đơn giản, nóc bằng, có chừa rãnh
đất trống. Tôi thấy ngôi
mộ rất vững mạnh nhưng thô, đường nét tương
phản với chiếc lư nhang cũng bằng đá chạm
trổ tinh vi, mang sắc thái văn hóa
cổ. Trang trí quanh khu mộ phần, chỉ vỏn vẹn
hai cây thiên tuế trước
nhà bia, hai cây tùng sau lưng
mộ, dọc theo rào tường, nhiều
lỗ trồng cây còn bỏ
trống.
Tôi vẫn
bị chuyện bài thơ ám
ảnh nên quay lại hỏi cô gái:
- Lúc nãy cháu có nhắc bài
thơ đã làm
xôn xao dư luận, cháu đọc cho chú bài
thơ được không?
- Dạ, bài thơ khá
dài.
Người
con gái trầm ngâm nhìn ra xa và
bắt đầu:
Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên,
Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây.
Ngẩng trời cao cúi đất dày.
Cắn môi tay nắm bàn tay của mình.
Cô gái ngưng
đọc và lẩm nhẩm
mấy giây, (có lẽ
xúc động nên trí nhớ
bị đứt đoạn) rồi
à một tiếng, cô đọc tiếp:
Một vùng cồn bãi trống trênh.
Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề.
Ngút tầm chẳng cánh hoa lê.
Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non,
Xạc xào lá cỏ héo hon.
Bàn chân cát bụi lối mòn nhỏ nhoi.
Lặng yên bên nấm mộ rồi,
Chưa tin mình đã đến bên mình tìm.
Không cành để gọi tiếng chim,
Không hoa cho bướm mang theo nắng trời.
Không vầng cỏ ấm tay người,
Nắm hương tảo mộ thắp rồi lại xiêu.
Thanh minh trong
những câu Kiều,
Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân.
Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân,
Bắt phong trần để phong trần riêng ai.
Bao giờ cây súng rời vai,
Nung vôi chở đá tượng đài xây lên.
Trái tim lớn giữa thiên nhiên,
Tình yêu nối nhịp suốt nghìn năm xa
(Vương
Trọng)
Tôi cúi đầu
lắng nghe, không ngờ bài
thơ làm cho tôi cảm
động không cầm được
nước mắt. Tôi nghe: “Dạ hết”. Tôi biết bài
thơ đã hết
mà sao âm vang vẫn còn. “Ngẩng trời
cao cúi đất dày”. Có
những lúc không biết
kêu ai. Đúng thế.
Bài thơ
đăng báo vào năm
nào cháu?
- Dạ
năm 1982 trên báo quân
đội, sau đó có
nhiều cuộc hội thảo về mộ Nguyễn
Du, và mãi đến năm
89, công trình xây
dựng mới bắt đầu, kinh phí hơn
6 tỷ đồng.
Nắng
đã lên cao, trời
này ở Hà Nội
nóng phải biết, thế mà nơi
đây cảnh đẹp
và ấm lạ lùng. Chúng
tôi trở lại khu lưu
niệm để làm “nghĩa
vụ”. Tôi cũng
không quên tán tụng
mái tóc đẹp của
cô hướng dẫn và cảm ơn
cô thật nhiều. Lúc giã từ,
tôi hát nho nhỏ “ Đi mô rồi cũng
nhớ về Hà Tĩnh...”. Nhưng làm
nghệ thuật, chúng ta thường quên những thực
tế cần thiết cho đời sống. Vào Nha Trang, tôi mới chợt
nhớ điều đó và đã vội gởi
qua đường bưu điện
món quà nho nhỏ về
cho cô gái của núi Hồng sông
Lam.
Trần
Công Nhung
_______________
(1) Ghềnh
Son trang 117 QHQOK tập
1
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét