Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018
Thảo Trường: Thanh Tâm Tuyền
Vào những
năm 1958-1961 tôi sống ở Huế. Từ thành phố tới chỗ tôi ở phải “qua một chiếc
cầu lên một cái dốc,” căn nhà khoảng giữa Chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao, nơi đó
đêm đêm tôi viết những truyện ngắn, gửi cho ông Mai Thảo đăng trên tạp chí Sáng
Tạo. Cũng vì có liên hệ như thế nên mỗi khi vào Sàigòn, tôi thường lui tới tòa
soạn Sáng Tạo số 29 đường Ký Con, Quận 1,
ở đó tôi có dịp gặp các vị trong bộ biên tập do ông Mai Thảo giới thiệu
như: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Doãn Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ
Tế, Quách Thoại, Tô Thùy Yên và… Thanh Tâm Tuyền. Trong bản tuyên ngôn “Văn
nghệ là vận động biện chứng của hủy diệt và sáng tạo” của nhóm Sáng Tạo đưa ra
chủ trương “Phủ nhận văn nghệ tiền chiến,” thì tôi nghĩ là không thể phủ nhận
được vì “văn nghệ tiền chiến” có vai trò
và sứ mệnh đã hoàn thành của thời kỳ đó. Giá trị của “văn nghệ tiền chiến” đã
ghi lại trong văn học sử Việt Nam. Chính thể cộng sản ở miền Bắc cũng đã từng
có chủ trương xóa bỏ những giá trị “văn nghệ tiền chiến” nhưng họ đã không làm
nổi, thì há gì nhóm Sáng Tạo là những
người đã từ bỏ cái chính thể lầm lẫn đó di cư vào miền Nam lại chủ trương “phủ
nhận.” Nhưng đối với tôi, các vị ấy đều đã để lại trong tôi những dấu ấn đặc
biệt, bằng họa phẩm, thơ, truyện ngắn, tùy bút, hay biên khảo… Thí dụ như:
“Quán Cháo Lú” của Vũ Khắc Khoan, “Hạt Ba Dăng Của Niêm” của Mai Trung Tĩnh,
“Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống” của Dương Nghiễm Mậu, “Cánh Đồng, Con Ngựa,
Chuyến Tầu” của Tô Thùy Yên, “Dòng Sông Định Mệnh” của Doãn Quốc Sĩ, “Trắng Chiều”
của Nguyễn Sĩ Tế, kịch bản “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn… v.v… nhiều lắm.
Những thơ văn của các vị ấy đã kích thích tôi
trong công việc sáng tác. Đọc những tác phẩm của họ tôi bèn muốn viết một cái
gì đó của tôi.
Riêng với
Thanh Tâm Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được đã trụ lại trong tôi suốt từ
bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông khắp thế giới
đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ, thì nhà thơ của chúng ta đã
chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc đàn áp dã man tàn nhẫn đó. Mấy câu
thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi trong lòng người thưởng ngoạn. Xin
đừng hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không có may mắn
được đào tạo về những lý sự thế nào là hay thế nào là không hay và điều đó cũng
đã thành thói quen trong tôi. Cho nên tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ.
Rồi về sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi đã gặp nhiều người cũng
rất thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một câu liền có người khác phụ họa theo,
chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.
"Hãy
cho tôi khóc bằng mắt em,Những cuộc tình duyên BudapestHãy cho tôi chết bằng da em,Dưới
dây xích chiến xa tội nghiệp…”
Tôi chợt nhớ tới bài khóc Xít ta lin. Người
nghệ sĩ tự do chân chính khóc cho tình yêu bị thảm tử vì bạo lực đàn áp. Kẻ mưu
đồ chính trị vật vã khóc tên đồ tể. Một bên “Hãy cho tôi khóc bằng mắt em,
những cuộc tình duyên Budapest…”. Một đằng “Hỡi ôi! ông mất có trời đất không,
thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương
mười! Ông Xít ta lin ơi!...”
Sau này tôi
có dịp gặp Thanh Tâm Tuyền thường xuyên ở nhật báo Tiền Tuyến. Hồi đó tôi đã
chuyển về Saigon, có viết truyện dài “Bà Phi” và thỉnh thoảng “đi” một bài tạp
ghi cho Ký giả Lô Răng. Thanh Tâm Tuyền cũng từ một đơn vị bộ binh chuyển về
làm trong ban biên tập. Có một lúc Phan Lạc Phúc phải đi học tham mưu gì đó,
Thanh Tâm Tuyền phải lãnh thêm cái mục tạp ghi và mỗi ngày ông phải “cầy” thêm
một bài báo nữa, và tôi cũng lai rai mỗi tuần “đi” đỡ cho ông một quả. Ký giả
Ba Tê thay cho Ký giả Lô Răng. Dưới bài tôi viết ông Ba Tê nói đùa tôi là Hai
Tê. Nhưng tôi vẫn giữ cái bút hiệu Cơ
Hảo đã dùng quen bên tuần báo Diều Hâu mục “Một Tuần Sấp Ngửa”. Chữ “sấp ngửa” cũng do Thanh Tâm Tuyền gợi ý cho
tôi đặt tên mục phiếm luận này.
Chúng tôi
gặp lại nhau trong trại tù rừng núi Âu Lâu, Yên Bái. Tôi từ trong Nam chuyển ra
bằng tầu thủy, bằng xe lửa và xe vận tải
mất gần mười ngày, đến trại ban đêm, sáng ra có họa sĩ Nguyễn Nguyên đến dẫn
tôi sang lán kế bên gặp Thanh Tâm Tuyền. Chúng tôi cười xòa tập hút thuốc lào
và tán gẫu chuyện đời. Thanh Tâm Tuyền
cho tôi một ít thuốc ký ninh chống sốt rét và căn dặn tôi phải hết sức phòng
bệnh: muỗi rừng và nước độc! Trong khi ấy họa sĩ Nguyễn Nguyên lấy giấy và bút
chì vẽ luôn cho tôi mấy bức chân dung ngay khi tôi ngồi trên sạp nứa chỗ ngủ
của ThanhTâm Tuyền. Những bức vẽ này tôi đã cất giấu và sau đó tôi đã chuyền
cho chị ruột tôi lên thăm đem về chuyển cho gia đình tôi ở Mỹ (đã in trong tập
truyện TTTTBTG).
Mấy năm sau
ở Vĩnh Phú, nhưng mỗi người mỗi trại giam khác nhau, chỉ thỉnh thoảng có tin
tức nhau qua những bạn tù. Tôi nhận được mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vịnh
củ sắn sống. Thời gian này tù binh bị bỏ đói, sức tàn lực kiệt, nhiều anh em đã
bị chết, chôn kín cả sườn đồi gần trại, cho nên có khi kiếm được củ sắn sống tù
binh cũng dấu đi ăn cho dạ dày bớt thèm thuồng.
Lạ lắm, củ sắn bóc lớp vỏ ngoài để lộ ra một
thân hình tròn lẳn, trắng tinh, trắng muốt, trắng như không có gì trắng thế,
mịn như không có gì mịn thế, xinh đẹp như không có gì xinh đẹp thế, gợi cảm như
không có gì gợi cảm thế, hấp dẫn như không có gì từng hấp dẫn đến thế… Nhưng
sắn sống có nhiều độc tố, bập vào là say. Trắng trẻo, xinh đẹp, nõn nà… dễ làm
cho anh hùng gục ngã! Loại sắn vỏ màu hồng nhạt (gọi là sắn tầu) thì còn có thể
nhưng phải ngâm nước rồi luộc kỹ thải chất độc ra mới có thể ăn được, nhưng
loại sắn kỹ nghệ vỏ trắng (chắc là sắn…mỹ) thì tuyệt đối không ăn được. Say sắn
cũng lắm chuyện kinh hoàng. Ăn vào chỉ ít phút sau là ói mửa ra “mật xanh mật
vàng,” tiêu chảy, người sẽ gầy rộc đi, mắt sâu hoắm. Cũng không đến nỗi chết
ngay, nhưng từ đó mất sức dễ bị các chứng bệnh hiểm nghèo. Tôi đã thấy một ông
trung tá liên đoàn trưởng biệt động quân, cùng khóa 6 sĩ quan trừ bị với tôi đã
bỏ mình vì say sắn ở K1 Vĩnh Phú. Núi rừng Việt bắc còn có nấm độc, trái vải
guốc, cũng gây ngộ độc chết người. Ăn nhầm mấy thứ này người ta thường vặt một
nắm lá nhớt như lá khoai lang bỏ miệng nhai nuốt tí nước cho buồn nôn tống ra
hết những thứ trong dạ dày để giảm thiểu chất độc trong người.
Củ sắn ghê gớm. Nó bao vây trùng trùng điệp
điệp các trại tù. Nó chất chứa trong các kho nhà bếp dưới dạng sắn sống, sắn
khô (còn gọi là sắn nút chai), sắn “dui” (không rõ ý nghĩa cái tên này). Nó bám
trụ trong bao tử, trong cơ thể tù binh. Không ăn nó thì đói, nuốt nó vào thực
quản nóng ran và dưới hai màng tang mỗi tù binh nổi lên hai cục trông như hai
cái bứu nhỏ, hai cái bứu này chỉ mất đi sau cả tháng không ăn sắn nữa. Hàng
triệu tù binh miền nam, kẻ nào lỡ sống sót sau tù đày, ít ra cũng phải hội nhập
chung vào với cả một thế hệ còi cọc miền bắc, để công cuộc thống nhất đất nước
mang trọn vẹn ý nghĩa của nó! Trước cái đói ngơ ngác chết người đang đe dọa và
hình tượng củ sắn chiến lược xã hội chủ nghĩa “vĩ mô” như thế, nhưng thi sĩ của
chúng ta vẫn bình thản mô tả nó một cách lạnh lùng, có pha chút lãng mạn bỡn
cợt:
“Thoát
xiêm y, trắng nõn nà,Lửa lòng bốc cháy ai mà chẳng say”…
Năm 1993 tôi tới Mỹ, Thanh Tâm Tuyền từ
Minnesota gửi tặng tôi tập thơ “Thơ Ở Đâu Xa,” chúng tôi có vài lần nói chuyện
với nhau qua điện thoại, và mỗi khi in được một tập truyện tôi cũng đều gửi
tặng Thanh Tâm Tuyền, nhưng suốt mười mấy năm nay chúng tôi chưa được gặp lại
nhau lần nào. Nay nghe tin nhà thơ đã ra đi, cũng chẳng phải bất ngờ vì đó là
điều tất nhiên cho tất cả mọi người, vả lại chúng tôi cũng đã thất thập, Thanh
Tâm Tuyền còn lớn hơn tôi một tuổi, nhưng tin nhà thơ mà mình quí trọng đã vĩnh
viễn từ giã cõi đời cũng làm cho tôi ngậm ngùi khôn tả.
Thanh Tâm Tuyền là người điềm đạm, trầm ngâm,
ít nói, khi nói thì nói chậm rãi. Tôi và ông chưa hề bao giờ “mày tao,” chỉ đôi
lần vui chuyện ông dùng chữ “cậu cậu tớ tớ” là đã thân thiết lắm rồi. Khi nói
chuyện cũng như khi viết, Thanh Tâm
Tuyền dùng chữ rất chuẩn xác. Tôi chưa thấy bao giờ ông hô hoán hay dùng những
chữ kích động, nhưng cách nói bình thản của ông lại đem đến những hình ảnh gợi
cảm.
Thơ văn của Thanh Tâm Tuyền đã xuất bản phổ
biến, nhưng hình như câu thơ vịnh củ sắn thì tôi chưa thấy in trong tác phẩm
nào của ông.
Tôi nghĩ chế độ cộng sản chỉ giam giữ và bỏ
đói được ông đại úy Dư Văn Tâm, họ không, và không bao giờ, bỏ tù được thi sĩ
Thanh Tâm Tuyền. Thi sĩ đã nhìn củ sắn độc trồng lền khên khắp núi đồi xung
quanh trại giam bằng cái nhìn của ca dao, bằng cái nhìn của thi ca, bằng cái
nhìn riêng của thi sĩ, mà không anh cai tù cộng sản nào nhìn thấy được. Cộng
sản ở Liên sô, cộng sản ở Budapest, cộng sản ở Âu Lâu - Vĩnh Phú, hay cộng sản
ở bộ chính trị… chẳng thể làm gì được thi
sĩ . Họ cũng không được phép xách dép cho nhà thơ tự do.
Vậy. Hôm nay. Chúng ta họp mặt ở đây để tỏ
lòng quí trọng thi sĩ của chúng ta.
(25/3/2006)