Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2018
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM DUY TẠO: CHƯƠNG 07: KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM
DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) Đàm Trung Pháp
hiệu đính năm 2018
CÂU 243 ĐẾN CÂU 362
“Giong sầu đuổi bóng,
nhờ của gặp người”
243. Cho hay là giống hữu tình, [1]
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. [2]
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. [2]
245. Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. [3]
247. Sầu giong càng khắc càng chầy, [4]
Ba thu dón lại một ngày dài ghê. [5]
249. Mấy lần khóa kín phòng the, [6]
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao. [7]
251. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, [8]
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. [3]
247. Sầu giong càng khắc càng chầy, [4]
Ba thu dón lại một ngày dài ghê. [5]
249. Mấy lần khóa kín phòng the, [6]
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao. [7]
251. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, [8]
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
253. Buồng văn hơi lạnh như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. [9, 10]
255. Mành tương phân phất gió đàn, [11, 12]
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. [13, 14]
257. Ví chăng duyên nợ ba sinh, [15]
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. [16]
259. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. [17]
261. Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu! [18]
263. Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu kháy trêu. [19]
265. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, [20]
Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang. [21]
267. Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh. [22, 23]
269. Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai. [24]
271. Mấy lần cửa đóng then cài,
Dẫy thềm hoa rụng, biết người ở đâu? [25]
273. Tần ngần đứng trót giờ lâu, [26]
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.
275. Là nhà Ngô Việt thương gia, [27]
Buồng không để đó, người xa chưa về.
277. Lấy điều du học hỏi thuê, [28]
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang [29, 30]
279. Có cây, có đá sẵn sàng, [31]
Có hiên Lãm Thúy, nét vàng chưa phai. [32]
281. Mừng thầm suy ý chữ bài, [33]
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
283. Song hồ nửa khép cánh mây, [34, 35]
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông. [36]
285. Tấc gang đồng khóa, nguồn phong, [37]
Tít mù nào thấy bóng hồng vào ra.
287. Nhẫn từ quán khách lân la, [38]
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. [39]
289. Cách tường phải buổi êm trời, [40]
Dưới đào dường thấy bóng người thướt tha.
291. Buông cầm, xốc áo, vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
293. Lần theo tường gấm dạo quanh, [41]
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
295. Giơ tay cất lấy về nhà, [42]
Này trong khuê các đâu mà đến đây? [43]
297. Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
299. Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
301. Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
303. Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng: [44]
305. Thoa này bắt được hư không, [45]
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? [46]
307. Tiếng Kiều nghe lọt bên kia: [47]
“Ơn lòng quân tử sá gì của rơi!
309. Chiếc thoa nào của mấy mươi [48]
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!” [49]
311. Sinh rằng: “Lân lý ra vào [50]
Gần đây, nào phải người nào xa xôi!
313. Được rầy nhờ chút thơm rơi
Kẻ đà thiểu não lòng người bấy nay.
315. Bấy lâu mới được một ngày
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là!” [51, 52]
317. Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
319. Bực mây dón bước ngọn tường, [53, 54]
Phải người hôm nọ rõ ràng chăng nhe?
321. Sượng sùng giữ ý rụt rè, [55]
Kẻ nhìn tận mặt người e cúi đầu.
323. Rằng: “Từ ngẫu nhĩ gặp nhau. [56]
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. [57]
325. Xương mai tính đã rũ mòn, [58]
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
327. Tháng tròn như gởi cung mây, [59]
Trần trần một phận ấp cây đã liều! [60]
329. Tiện đây xin một hai điều,
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” [61, 62]
331. Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
“Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong, [63, 64]
333. Dù khi lá thắm chỉ hồng, [65, 66]
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!”
337. Sinh rằng: “Rày gió mai mưa, [67]
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
339. Dù chăng xét tấm tình si, [68]
Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
341. Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
343. Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, [69]
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi, [70]
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!”
347. Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng. [71, 72]
349. Rằng: “Trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
351. Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung.” [73]
353. Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay. [74]
355. Rằng: “Trăm năm cũng từ đây, [75]
Của tin gọi một chút này làm ghi.
357. Sẵn tay bả quạt hoa quỳ, [76, 77]
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
359. Một lời gắn bó tất giao, [78]
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
361. Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. [57]
325. Xương mai tính đã rũ mòn, [58]
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
327. Tháng tròn như gởi cung mây, [59]
Trần trần một phận ấp cây đã liều! [60]
329. Tiện đây xin một hai điều,
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” [61, 62]
331. Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
“Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong, [63, 64]
333. Dù khi lá thắm chỉ hồng, [65, 66]
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!”
337. Sinh rằng: “Rày gió mai mưa, [67]
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
339. Dù chăng xét tấm tình si, [68]
Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
341. Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
343. Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, [69]
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi, [70]
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!”
347. Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng. [71, 72]
349. Rằng: “Trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
351. Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung.” [73]
353. Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay. [74]
355. Rằng: “Trăm năm cũng từ đây, [75]
Của tin gọi một chút này làm ghi.
357. Sẵn tay bả quạt hoa quỳ, [76, 77]
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
359. Một lời gắn bó tất giao, [78]
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
361. Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.
Đính chính và xác định
Câu 247: “Sầu giong càng khắc càng
chầy”. Chữ giong đây nghĩa là buông thả cho chạy, như ta nói trâu giong
bò dắt, giong cương cho ngựa chạy nhanh. Do đó, nghĩa cả câu là: chàng
Kim không biết nén hãm lòng sầu nhớ Kiều cho khuây đi để ngủ, lại cứ buông thả
mãi con ngựa sầu nhớ trong lòng ra và giong cho nó chạy đuổi theo bóng
Kiều, những mong chóng sáng mà đi tìm nàng, thành ra lại càng thấy mỗi trống
canh mỗi dài mãi ra. Câu này tác giả lấy ý ở câu thơ của
thi sĩ Ngô Tư Kinh [ 愁 逐 漏 声 長 = sầu trục lậu thanh trường = ngồi mà thả lòng sầu
cho đuổi thì giờ, thì càng thấy tiếng nước đồng hồ nhỏ giọt càng kéo dài
thêm mãi]. Chữ
“giong” nôm, nếu là chính mình đi (tự động từ) như giong mát, thì viết 𨀐 (=
túc 足 + đông冬 ).
Chữ giong này ít dùng nên ít người biết. Các nhà xuất bản truyện Kiều không biết
nghĩa chữ “sầu giong” là gì, nên đổi bừa câu này thành những câu ngô nghê vô
nghĩa như:
Sầu
đông càng khắc càng chầy (đổi 𨀐 giong
ra 冬:đông ).
Sầu
đong càng khắc càng đầy (đổi giong 𨀐 ra
đong 𣁲 , chầy
ra đầy).
Sầu
đong càng lắc càng đầy (đổi giong ra đong, khắc ra lắc).
Rõ
là câu rất hay, mà đổi bừa thành các câu
rất dở.
Câu
250: “Bóng hồng liệu nẻo đi về chiêm bao” – Hai câu lục bát này lấy ý ở hai câu
kết bài thơ của Từ An Trinh 徐安貞 đời Đường, tả tình
thi sĩ đêm nghe cô gái nhà hàng xóm gẩy đàn tranh (chép cả bài ở dưới đây) và
nghĩa là : Kim Trọng nghĩ rằng chắc Kiều cũng muốn gặp mình lắm –mà không sao
được, nên đành khóa cửa đi ngủ (“mấy lần khóa kín phòng the”),
để may ra mộng hồn đi, về được với mình (câu 250). Chữ “bóng hồng” ở câu 250 là
mộng hồn của Kiều.
[北 斗 横 天 夜 欲 闌 = bắc đẩu hoành thiên dạ
dục lan = chòm sao Bắc đẩu đã ngang trời đêm đã sắp hết].
[愁 人 倚 月 思 無 端 = sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô
đoan = người buồn sầu này ngồi tựa dưới trăng nghĩ vẩn vơ].
[忽 聞 畫 閣 秦 筝 逸 = hốt văn họa các Tần tranh
giật = Bỗng nghe trên lầu vẽ kia có tiếng đàn tranh vẳng lại].
[知 是 隣 家 趙 女 彈 = tri thị lân gia Triệu nữ
đàn = Ta biết đó là tiếng đàn cô gái nước Triệu nhà hàng xóm gẩy].
[曲 成 虚 憶 青 蛾 歛 = khúc thành hư ức thanh
nga liễm = khúc đàn gẩy xong, ta đoán là lông mày cô nhíu lại].
[調 急 遙 知 玉 指 寒 = điệu cấp dao tri ngọc chỉ
hàn = điệu đàn mau gấp, ta biết là ngón tay nàng cóng rét].
[銀 鑰 重 関 聽 未 闢 = ngân dược trùng quan
thính vị tịch = khóa bạc ở hai lần cửa, ta chưa nghe tiếng mở].
[不 如 眠 去 夢 中 看 = Bất như miên khứ mộng
trung khan = gì bằng ngủ đi để gặp thấy nhau trong mộng vậy].
Vì
chàng tưởng là hồn mộng Kiều sẽ tìm đến với chàng như vậy, nên khi chàng thấy
“Mành tương phân phất gió đàn” chàng yên trí là hồn Kiều đến, nên chàng đốt
hương để chào, pha trà để mời, thì thấy mùi hương cũng nồng như mùi thơm của
nàng lúc chiều, và trà chàng uống cũng được Kiều mời mà hóa ra đậm đà khan lên
những giọng tình tứ.
Câu
“Bóng hồng liệu nẻo đi về chiêm bao” nghĩa rõ ràng như thế và khẩn thiết với
hai câu “Mành tương phân phất gió đàn / hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”
như thế, mà sao phần nhiều các bản Kiều quốc ngữ lại đổi bóng hồng thành
bụi hồng và phiên âm liệu nẻo 料裊 ra
lẽo đẽo? “Bụi hồng lẽo đẽo
đi về chiêm bao” nghĩa là gì? Thật vô nghĩa, vậy cần phải xác định, không nên
để Truyện Kiều có những câu vô nghĩa như vậy.
Câu
258: Hai chữ “đem thói khuynh thành trêu ngươi” ở câu này, nhiều bản
quốc ngữ in thành “những thói khuynh thành trêu ngươi” e vô nghĩa, vì
khuynh thành làm gì có nhiều thói ?
Câu
264: Hai chữ “kháy trêu” ở câu này, nhiều bản quốc ngữ dịch ra là “khơi
trêu” e không xác đáng, vì hai chữ khơi trêu chỉ có nghĩa là trêu
người thôi, còn kháy trêu đã đúng âm với chữ nôm 慨 撩 (khái
liêu) lại đúng ý nghĩa hơn: các ngọn lau sậy hình như chúng thấy chàng ngơ ngẩn
tẽn tò, chúng bèn phất phơ tỏ ý chế nhạo trêu ghẹo chàng. Chữ kháy là có
ý trêu đùa cho tức thẹn.
Câu
281: Bốn chữ “suy ý chữ bài” ở câu này, các chữ nôm đều khắc chữ suy 推lầm
ra chốn准 , còn chữ ý 意
thì cũng đọc sai là ấy. Các bản quốc ngữ đều theo các bản nôm mà dịch
lầm ra “Mừng thầm chốn ấy chữ bài” thành ra gần như vô nghĩa. Suy ý
chữ bài nghĩa là suy ý chữ đề ở biển “lãm thúy hiên” (nơi mái hiên
để ngồi chơi mà vơ bằng mắt lấy những cảnh hoa cỏ xanh đẹp). Nhưng chàng cho đó
là “cái hiên để vơ lấy các cô Thúy.”
Câu
285: Bốn chữ “động khóa nguồn
phong 洞 鎖 源 封” nghĩa là cửa động
thiên thai thì khóa lại, nguồn nước đào nguyên thì lấp đi. Nhiều bản nôm khắc
chữ động 洞 làm chữ đồng 銅,
người phiên âm trước không biết cứ theo chữ 銅 mà
dịch là đồng, thành ra bắt buộc phải dịch câu này là “Tấc gang đồng tỏa
nguyên phong” và giải nghĩa là: cái khóa đồng vẫn còn khóa kín nguyên vẹn như
cũ (cho chữ nguồn 源là chữ nguyên
原).
Nên cần phải đính chính xác định lại cho rõ nghĩa, kẻo mất hết ý hay lời đẹp
của câu này.
Câu
286: “Tít mù nào thấy bóng hồng vào ra” – Tít mù nghĩa là xa xôi
biệt thẳm, đối lại với chữ tấc gang là rất gần ở câu trên = chỉ gần
gần thế mà thành ra xa xôi vô chừng. Nhiều bản quốc ngữ dịch lầm chữ tít mù ra tịt
mù, nghe lời đã quê thô, nghĩa lại không đúng, không khẩn thiết với câu
trên.
Câu
287: Chữ nhẫn câu này, bản nôm viết là nhẫn 忍 ,
chớ không viết là nhận 認 .
Chữ nhẫn nghĩa là tất cả, là hết sức kiên nhẫn mà chờ đợi. Nhiều bản quốc ngữ
in là “nhận từ…”, kể ra cũng có nghĩa là tính ra từ …, nhưng lời không
mạnh và ý không xác đáng bằng “nhẫn từ…”
Câu
295: “Giơ tay cất lấy về nhà” – Chữ cất câu này nghĩa là dùng
tay sẽ sàng cẩn thận để nhấc lên cho khỏi gẫy khỏi rơi. Đặt chữ cất vào
tình trạng đáng nâng niu âu yếm này thật hay vô cùng. Lắm bản Kiều đổi là “với
lấy” thì thật hết ý vị tinh tế.
Câu
307: “Tiếng kiều nghe lọt bên kia” – Tiếng kiều đây là tiếng có
giọng trong trẻo trẻ trung non mềm của con gái. Chữ kiều 嬌 đây nghĩa là non mềm.
Nhiều bản in lầm chữ kiều này ra Kiều 翹 ,
cho nghĩa là tiếng nàng Kiều, đó là một sự lầm to, vì Kim Trọng khi ấy
đã biết tiếng Kiều bao giờ mà nhận được là tiếng cô ta?
Câu
322: “Kẻ nhìn tận mặt, người e cúi đầu” – Hai chữ tận mặt câu này,
nhiều bản in là rõ mặt, thế là sai quá. Vì chàng có nhìn tận mặt thì
nàng mới phải e lệ cúi đầu, và phải cần nhìn tận mặt cho biết rõ ràng là người
hôm nọ rồi mới dám ngỏ lời nói chuyện.
Câu
325: “Xương mai tính đã rũ mòn” – Hai chữ rũ mòn đây cũng nghĩa
như gầy mòn, nhưng rũ mòn xác đáng hơn vì ta thêm được ý mỏi mệt
như câu thơ Đường mà tác giả đã dùng làm điển tích [梅 骨 瘦 難 支 = mai
cốt sấu nan chi = vóc xương thanh lịch như cành mai, gầy quá đi như không
đứng được].
Chú
giải và dẫn điển
[1]
Giống hữu tình = hạng người tài hoa. Sách nho có chỗ nói: Hạng thánh
nhân thì không có tình, hạng ngu đần thì không biết tình là gì, chỉ có hạng
người tài hoa mới là hạng người hữu tình. Bởi vậy người ta gọi bọn người tài
hoa là [情 種 = tình
chủng = giống đa tình]. Đây nói Kim Trọng, Thúy Kiều đều là tình chủng.
[2]
Mối tơ mành = sợi tơ rất mỏng manh mà khó dứt đứt được; đó tức là sợi tơ
tình, không trông thấy mà gỡ không ra, dứt không đứt được.
[3]
Canh cánh = vương vít như gài bám vào lòng.
[4]
Sầu giong: Xem lời đính chính câu 247 bên trên.
[5]
Ba thu dón lại một ngày: Kinh Thi có câu
[ 一日不 見 如 三 秋 兮 = nhất
nhật bất kiến như tam thu hề = một ngày không thấy mặt nhau, lâu bằng ba mùa
thu]. Chữ dón nghĩa là rèn cái que sắt cho nhỏ lại và dài ra.
[6]
Mấy lần khóa kín phòng the – “Mấy lần khóa kín” do bốn chữ “Ngân thược
trùng quan”. Các bản quốc ngữ chép nhầm “mấy lần” ra “mấy tần” hoặc
“mây Tần” thật vô nghĩa.
[7]
Bóng hồng = hình bóng người con gái đẹp. Liệu nẻo = đoán chừng có
lẽ bóng vía nàng sẽ tìm đến đây với ta, trong lúc nàng mơ ngủ.
[8]
Đĩa dầu – Người ta đốt đèn bằng dầu hột, đổ dầu vào đĩa rồi thả bấc vào,
để một đầu bấc hở trên miệng đĩa mà đốt.
[9]
Trúc se ngọn thỏ – Bút viết chữ hán quản làm bằng ống trúc, ngòi làm
bằng lông thỏ. Trúc se ngọn thỏ ý nói khi chàng muốn làm thơ, thì nghĩ
không ra, hình như ngòi bút nó khô mực lại, viết không được.
[10]
Phím loan = phím đàn hình đầu ngoài thường làm hình đầu chim phượng. Tơ
chùng phím loan ý nói khi chàng muốn gẩy đàn cho khuây thì gẩy không ra tiếng,
như dây đàn chùng cả đi.
[11,12]
Mành tương = mành làm bằng những gióng trúc con, da có vân đồi mồi, tiện
ra từng đoạn ngắn, rồi xâu lại thành từng dây dài mà treo nhiều dây rũ xuống
thành bức mành che cửa. Khi gió thổi vào, tiếng trúc đụng nhau kêu xoang xoảng
như tiếng đàn.
[13,14]
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình – Xem lời xác định câu 250 bên
trên. Chàng Kim thấy gió đụng mành kêu cho là mộng hồn Kiều đến với mình, vội
vàng đốt hương lên để mừng và pha trà để cùng uống, chàng thấy mùi hương thơm
nồng ngậy lên những mùi chàng nhớ đã được ngửi lúc chiều và vị nước trà đậm đà
quá như khan họng những giọng tình trước mặt nàng.
[15]
Duyên nợ ba sinh = ba đời, ba kiếp; đôi tình nhân đã thề ước mà không
lấy được nhau, thì phải trải qua ba đời lời thề ấy mới tan. Điển tích từ Tình
sử: Lý Nguyên 李源 và Viên Trạch 圓 澤 yêu
nhau tha thiết. Khi nàng Viên ốm nặng gần chết hẹn với chàng Lý 12 năm sau thì
đến Hàng Châu gặp nhau. Lúc chàng đến Hàng Châu chỉ gặp thằng bé chăn trâu hát
rằng:
[三 生 石 上 舊 精 魂 =
tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn = tinh hồn trên đá ba sinh]
[賞 月 吟 風 不 要 言 = thưởng
nguyệt ngâm phong bất yếu ngôn = thưởng trăng hát gió, kể tình nữa chi]
[慚 愧 故 人 遠 相 訪 =
tàm quý cố nhân viễn tương phỏng = thẹn mình gặp bạn cố
tri]
[此 身 雖 異 性 長 存 = thử
thân tuy dị tính trường tồn = thân này dù khác, tình kia vẫn còn]
[16]
Ví chăng duyên nợ ba sinh / làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
= nếu không có duyên nợ kiếp trước với nhau, thì làm gì nàng lại nhìn theo ta,
như vậy để làm lòng ta vương vít. Điển lấy từ Tây Sương Ký: Khi Thôi Oanh Oanh thấy
Trương Hồng vào, nàng vội tránh vào buồng, nhưng lại ngó lại nhìn chàng một
cái, làm cho chàng say sưa và nghĩ:
[我 明 日透 骨 髓, 相 思 病 纏 = Ngã
minh nhật thấu cốt tủy, tương tư bệnh triền]
[怎 當 她 臨 去, 秋 波 那 一 轉 =
Chẩm đương tha lâm khứ, thu ba ná nhất chuyển]
[我 便 鉄 石 人 也, 意 惹 情 牽 = Ngã
tiện thiết thạch nhân dã, ý nhạ tình khiên]
Ba
câu trên có nghĩa = Ngày mai ta sẽ mắc bệnh tương tư thấm vào đến xương tủy. Ta
chịu sao nổi cái khóe mắt của cô ta khi lánh đi, lại ngó lại liếc ta một cái. Ta
dẫu có là người sắt đá cũng phải để ý vương tình.
[17]
Kỳ ngộ = cuộc gặp gỡ lạ lùng tình cờ.
[18]
Nước ngâm trong vắt ngụ ý nói chỉ thấy nước im lặng trong vắt chẳng có
bóng ai như chiều hôm qua nữa.
[19]
Kháy trêu = có ý đùa cợt trêu ghẹo cho tức, cho thẹn.
[20]
Nhớ ít tưởng nhiều = thật ra chỉ nhớ có ít, nhưng vì cứ tưởng tượng thêm
mãi ra, niềm nhớ mới tăng lên nhiều.
[21]
Lam kiều = cầu Lam. Bùi Hàng 裴 航 đời
Đường gặp cô tiên tên là Vân Kiều phu nhân, có cho chàng một bài thơ trong có
câu [藍 橋 本 是 神 仙 窟 = Lam
kiều bản thị thần tiên quật = Lam kiều là chỗ thần tiên ở]. Về sau,
một hôm chàng đi qua cầu Lam vào một quán xin nước uống, gặp nàng tiên Vân Anh雲 英 đẹp lắm. Chàng ước
ao muốn lấy, bà mẹ nàng bảo nếu tìm được cái chầy ngọc để bà tán thuốc thì bà
gả nàng cho. Khi chàng được một bà tiên cho chầy ngọc, đem lại nộp thì lấy được
Vân Anh. Lam kiều đây chỉ nhà Thúy Kiều ở.
[22]
Lá thắm – Đời vua Đường Huy Tông, Vu Hựu vớt được một cái lá ngô đồng
màu đỏ từ ngòi nước ở trong cung vua chảy ra, trên lá có đề bài thơ hẹn ai bắt
được lá này thì kiếp sau sẽ lấy làm chồng. Hựu quý lắm, về giữ cẩn thận, và
cũng lấy cái lá ngô đỏ khác đề thơ họa lại, rồi lên đoạn ngòi trên cung vua mà
thả xuống cho trôi vào. Sau có lệnh thải các cung nữ cho ra lấy chồng, Hựu lấy
được cô họ Hàn và cả hai bên đều còn giữ đủ hai lá đề thơ.
[23]
Chim xanh – Vua Hán Vũ Đế một hôm sắp đi chơi xa, bỗng thấy hai con chim
xanh bay vào hành cung. Đông Phương Sóc tâu nhà vua chúng là sứ giả của bà Tây
Vương Mẫu đưa tin báo trước. Được một lúc, quả nhiên bà đến thật.
[24]
Mỉa mai = chê cười chế nhạo (sáng tìm Kiều như bị lau sậy trêu cười ở
ngoài đồng; trưa tìm Kiều thì như bị chim oanh cười chế ở trước cổng nhà
Kiều).
[25]
Dẫy = đầy. Ta cũng hay nói đầy dẫy.
[26]
Trót giờ lâu = đứng trọn vẹn lâu một giờ.
[27]
Ngô Việt thương gia = nhà buôn bán xa ở vùng đất Ngô đất Việt, là vùng
phía đông nam nước Tàu. Từ Bắc Kinh xuống Ngô Việt xa lắm.
[28]
Du học = từ xa đến đó ở trọ để học hành.
[29]
Cặp sách = cái quang treo sách chữ nho, làm bằng gỗ, dưới có cái ván gỗ
rộng độ 2 gang, dài độ 3 gang, 2 đầu có đục 2 cái lỗ để lùa 2 thanh gỗ lên làm
thành cái quang để xếp 2 chồng sách vào. Khi ở nhà thì treo lên, khi đi đâu thì
gánh cho tiện.
[30]
Đề huề = dọn sách vở đồ đạc sang nhà trọ một cách đàng hoàng có ý
cho ai cũng biết, để hòng đưa tin đến hai cô láng giềng rõ chuyện mình đến đó.
[31]
Đá = cảnh núi non bộ chất đá ở giữa cái hồ con.
[32]
Lãm thúy hiên 攬 臎 軒 –
Xem lời đính chính câu 281 bên trên.
[33]
Suy ý chữ bài – Xem lời đính chính câu 281 bên trên.
[34]
Song hồ = cửa sổ, cánh có dán một thứ giấy phết dầu cho trong, ánh sáng
có thể qua được.
[35]
Cánh mây = cánh cửa ở trên gác cao.
[36]
Tường đông = nhà phái nữ trú ngụ.
[37]
Động khóa nguồn phong – Xem lời đính chính câu 285 bên trên.
[38]
Nhẫn – Xem lời xác định câu 287 bên trên.
[39]
Thèm hai – Thèm = sắp sửa. Thèm hai = sắp sửa được hai
tháng rồi.
[40]
Phải = bất kỳ gặp phải. Truyện Kiều có mấy chỗ chữ phải có ngụ ý thật
ra là hữu tình mà làm ra như có vẻ vô tình mà xảy ra như vậy. Chữ phải
trong câu “Buồng the phải buổi thong dong” dùng nghĩa này, để nói : gặp
buổi tết đoan ngọ thong dong vắng khách nên Kiều vô ý tắm trần không đóng cửa,
chứ thực ra Kiều dụng tâm làm ra vô ý để Thúc Sinh được nhìn rõ tấm thân thoát
y của mình như “một tòa thiên nhiên”, mục đích để
cố kết lòng chàng hết sức ra tay cứu mình khỏi lầu xanh.
[41]
Tường gấm = bức tường có đắp hình mây, hình triện nổi lên cho đẹp. Xem
lời giải [53] về chữ bực mây bên dưới.
[42]
Cất lấy = lấy tay sẽ nhấc cao cành hoa lên mà lấy ra một cách rất nhẹ
nhàng, nâng niu để khỏi gãy, khỏi rơi.
[43]
Khuê các = buồng trên gác, nơi đàn bà con gái ở rất lịch sự.
[44]
Ướm lòng = thử nói để dò xét xem lòng nàng ra ý thế nào.
[45]
Hư không = bỗng dưng.
[46]
Hợp phố xưa kia thuộc về Giao châu (tên gọi nước Nam ta ngày trước), nay
thuộc miền giáp biển tỉnh Quảng đông nước Tàu. Hồi bắc thuộc, quan Tầu tham
nhũng bắt dân Hợp phố mò ngọc trai đem nộp, cho nên các loài trai có ngọc bỏ đi
nơi khác hết. Sau có quan thứ sử là Mạnh Thưởng làm quan thanh liêm, loài ngọc
trai lại trở về Hợp phố. Điển tích lấy từ câu [珠 還 合 浦 = châu hoàn Hợp phố =
của quý của ai lại trả về người ấy].
[47]
Tiếng kiều – Xem lời đính chính câu 307 bên trên.
[48]
Nào của mấy mươi = có đáng giá bao nhiêu đâu.
[49]
Trọng nghĩa khinh tài = lòng đứng đắn biết trọng điều nghĩa mà khinh của
cải.
[50]
Lân lý 隣 里 –
Lân = hàng xóm. Lý = làng.
[51]
Gạn = hỏi tỉ mỉ rõ ràng mọi điều.
[52]
Niềm tây = điều riêng tư trong lòng.
[53]
Bực mây = những hình mây đắp nổi lên ở mặt tường gấm có thể dùng làm bực
leo lên được. Có bản giải thích bực mây là bực vân thê雲 梯 (thang mây) thật là
lầm, vì vân thê là thứ thang để trèo lên ngó vào thành giặc, cao hàng 4 hay 5
mươi thước, phần dưới là cái bục cao có bốn bánh xe, nhiều người có thể đi kín
ở dưới đẩy bục thang đi được. Trên bục dựng hai từng thang, mỗi từng cao 20
thước. Thang mây cao như thế, chứ đâu phải cái thang thường ta dùng.
[54]
Dón bước = trèo một cách nhanh nhẹn.
[55]
Sượng sùng = ngượng nghịu, e thẹn.
[56]
Ngẫu nhĩ = tình cờ, bỗng dưng.
[57]
Đã chồn = đã mỏi mệt lắm.
[58]
Rũ mòn – Xem lời xác định câu 325 bên trên.
[59,
60] Tháng tròn như gửi cung mây / trần trần một mực ấp cây đã liều –
Cung mây tức cung trăng ở trên mây, ý nói chỗ người đẹp ở như cô
Hằng Nga trên cung trăng. Ấp cây là điển tích lấy từ ba chữ [守 株 人 = thủ châu nhân = người
giữ gốc cây]. Xưa có anh thợ cầy ngồi nghỉ ở gốc cây, bỗng một con thỏ sợ chó
săn, chạy đâm đầu vào gốc cây chết, anh ta bắt được. Từ hôm đó ngày nào anh ta
cũng ra ngồi giữ gốc cây ấy để đợi bắt thỏ. Ý nói Kim Trọng bõ công hàng tháng
để mong may ra được gặp Kiều.
[61]
Đài gương cũng như lầu trang là tiếng tôn trọng gọi nơi đàn bà
con gái cư ngụ. Đây là lời tôn trọng Kim Trọng dùng để gọi Kiều.
[62]
Dấu bèo là tiếng Kim Trọng nói nhún, tự coi mình hèn mọn như bèo
ở đâu trôi đến.
[63,
64] Thói nhà băng tuyết = nhà tôi vốn là nhà nề nếp đứng đắn. Chất
hằng phỉ phong = nhún mình là một gái quê mùa biết giữ lễ nghĩa. Kinh Thi
có câu [采 葑 采 菲 無 以 下 體 =
thái phong, thái phỉ, vô dĩ hạ thể = hái rau phong, hái rau phỉ, chớ vì
phần dưới cứng ăn không ngon mà bỏ]. Rau phỉ, rau phong ngọn gốc đều ăn được,
nhưng phần gốc lúc già ăn không ngon, nên bị bỏ. Hàm ý của câu kinh Thi này = vợ
chồng phải lấy nghĩa mà yêu nhau suốt đời, chớ có khi trẻ đẹp thì yêu, khi già
xấu thì bỏ.
[65]
Lá thắm – Xem lời giải [22] bên trên.
[66]
Chỉ hồng = duyên vợ chồng, do điển tích Vi Cố như sau : Vi Cố 韋固 học
giỏi đang kén vợ. Một hôm thấy ông cụ già ngồi dưới bóng cây giở một cuốn sách
ra coi, bên mình có một túi chỉ đỏ. Cố hỏi sách gì, thì ông bảo “Tập sổ
biên những cặp vợ chồng phải lấy nhau. Khi ta biên tên vợ chồng vào sổ này
và lấy hai sợi chỉ hồng ở túi này mà se với nhau, thì dù hai bên giàu nghèo, sang
hèn khác nhau thế nào, cũng phải lấy nhau thành vợ chồng.” Cố hỏi đùa ông
cụ se tôi lấy ai, thì ông cụ chỉ vào đứa con gái rách rưới bẩn thỉu, mẹ đặt
ngồi ở bờ ruộng để mẹ hái rau. Rồi ông cụ biên tên và lấy hai sợi chỉ se với
nhau. Cố giận lắm, thuê người giết con bé, và yên trí là con bé đã chết rồi.
Sau Cố long đong mãi không tìm được vợ, kết cục vẫn phải lấy người con gái có
thẹo ở mang tai ; và nàng nói lúc bé bị tên giặc chém nhưng may không
chết.
[67]
Rầy gió mai mưa = việc đời thay đổi bất kỳ, nay may gặp nhau rồi sau đây
không gặp được nữa.
[68]
Dù chăng = nếu không.
[69]
Khuôn thiêng = ông trời. Đây ám chỉ cha mẹ, để trả lời câu Kiều nói “nên
chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.” Nhưng không dám nói thẳng là cha mẹ phụ lòng,
e bất nhã, phải nói tránh ra là nếu trời phụ lòng.
[70]
Lượng xuân = độ lượng rộng rãi bao dung mọi người, lấy ý từ câu [春 毓 海 涵 = xuân dục hải hàm = hơi
xuân nuôi muôn vật, lòng biển chứa muôn sông]. Ý nói bụng dạ rộng rãi tử tế.
[71]
Chiều xuân = lòng xuân, do hai chữ xuân tứ 春 思 hay xuân tình 春 情 dịch ra.
[72]
Nét thu lấy ý từ hai
chữ [秋 波 = thu ba = sóng mùa thu] nghĩa là ánh
mắt nhìn có tình tứ.
[73]
Tạc đá vàng = nhận lời một cách trịnh trọng như khắc vào bia đá biển
vàng.
[74]
Khăn hồng = chiếc khăn vuông gói đôi xuyến
vàng.
[75]
Trăm năm = sự kết duyên làm vợ chồng.
[76]
Bả = lấy hai tay nâng mà đưa lên trao một cách trịnh trọng. Hai tay dâng
chén rượu lên mời khách chữ hán là bả tửu 把 酒.
[77]
Quạt hoa quỳ = cái quạt giấy đẹp Kiều có vẽ hình hoa quỳ (một giống hoa
sen thơm đẹp hướng
dương) để tỏ lòng lúc nào cũng muốn ngưỡng mộ chàng. Bả quạt hoa quỳ =
hai tay nâng chiếc quạt hoa quỳ lên mà dâng cho chàng làm kỷ niệm. Nhiều bản
Kiều, vì người xuất bản không hiểu chữ bả nên đã đổi cả câu “Sẵn
tay bả quạt hoa quỳ” ra là “Sẵn tay khăn gấm, quạt qùy” thật là vô vị thô lỗ.
Họ không biết rằng quạt hoa quỳ và quạt quỳ khác nhau một trời
một vực. Quạt hoa quỳ như đã nói ở trên, đẹp quý và ý nhị biết bao
nhiêu ; còn quạt quỳ (chữ nho gọi là bồ quỳ phiến蒲葵 扇) chỉ
là cái quạt làm bằng tàu lá cây bồ quỳ (một loài lá gồi) cắt bỏ những tua lá ở
chung quanh đi, hình thành cái quạt tròn tròn. Ai lại đem thứ quạt ấy tặng một
tình nhân hào hoa như Kim Trọng bao giờ ? Lại còn chiếc khăn gấm đỏ nữa,
ở đâu ra mà nói là sẵn tay ? Sau lại để đâu, suốt câu chuyện không thấy nói đến
cái khăn gấm ấy chút nào nữa.
[78]
Tất giao – Tất 漆 =
sơn. Giao 膠 =
keo. Tất giao là hai thứ nhựa để gắn bó rất chắc. Ý nói Kim Kiều thề ước
với nhau rất nghiêm trang.
Diễn
ra văn xuôi
Câu
243, 244 = Thế mới biết đã là hạng người vào bực hữu tình, thì đố ai gỡ cho
xong được cái mối tơ tình, dù nó rất mong manh.
Câu
245, 246 = Chàng Kim từ lúc về đến phòng học, lúc nào cũng canh cánh nghĩ đến
Kiều, không muốn nghĩ đến chuyện gì khác cho khuây nỗi nhớ ấy đi.
Câu
247, 248 = Chàng không biết nén hãm lòng sầu nhớ để khuây ngủ đi, lại cứ tung
thả mãi ra như giong cương cho con ngựa sầu nhờ nó đuổi theo thì giờ cho đêm
chóng sáng. Nhưng càng thức càng mong thì những khắc canh càng thấy chậm chạp
dài thêm mãi ra, rõ ràng đúng như câu trong Kinh Thi, tạm dịch : “Một ngày
chẳng thấy mặt nhau / coi dài đằng đẵng khác nào ba thu.”
Câu
249, 250 = Chàng nghĩ giờ này nàng đã khóa kín cửa buồng để ngủ rồi, và có lẽ
mộng hồn nàng đang tìm đường đi về đây với mình.
Câu
251, 252 = Chàng không sao nhắm mắt ngủ được. Lúc thì ngắm vầng trăng khuyết,
lúc thì nhìn đĩa dầu đèn cạn dần. Lúc thì mặt chàng ngẩn ngơ tưởng nhớ đến mặt
nàng, lúc thì lòng chàng bất ổn vì không biết lòng nàng có tưởng nhớ chàng, như
chàng tưởng nhớ nàng không ?
Câu
253, 254 = Chàng cảm thấy phòng học chàng vắng lạnh như đồng. Chàng muốn viết
thơ để tỏ tình nhớ mến, nhưng nghĩ không ra lời, ngọn bút lông chấm mực đã khô
đi mà không viết được câu nào. Chàng muốn gẩy đàn để tỏ nỗi sầu mong, mà không
sao gẩy được thành tiếng, như phím dây đàn sửa vặn thế nào cũng vẫn chùng mãi.
Câu
255, 256 = Bỗng hơi gió thoảng đến, làm cho những chuỗi suốt tre hoa ở bức mành
cửa đụng nhau kêu như tiếng đàn ; cho là mộng hồn Kiều đến, chàng vội vàng
đốt hương để chào đón và pha trà để mời cùng uống với nhau. Chàng thấy mùi khói
hương nồng ngậy lên những mùi thơm như mùi nàng mà chàng còn nhớ thoang thoảng
từ chiều hôm qua ; chén trà chàng uống ở trước mộng hồn Kiều, thấy vị trà
thật đậm đà, thấm thía đầy giọng tình làm cho khan cả cổ họng chàng.
Câu
257, 258 = Chàng những lo không biết rồi ra có lấy được nàng không, nhưng chàng
lại mừng lòng yên chí rằng nếu không có duyên nợ ba kiếp với nhau, thì làm sao
mà nàng lại nghé mắt liếc theo chàng một cách tha thiết đằm thắm như trêu như
ghẹo khi chàng lên ngựa ra về, làm cho chàng phải vương vít tâm tư như vậy ?
Câu
259, 260 = Lòng chàng lúc nào cũng buâng khuâng, nào là nhớ cảnh chiều qua, nào
là nhớ mặt nàng, nào là nghĩ đến chỗ tình cờ may mắn gặp
nhau. Thế là lúc sáng ra, chàng vội vàng đi ra chỗ đó với đầy lòng si tưởng.
Câu
261, 262 = Nhưng nào có thấy ai ở đó nữa đâu. Chỉ thấy bãi cỏ xanh rì vắng teo
và ngòi nước trong veo lặng lẽ chảy, chẳng còn bóng ai chiếu xuống nữa.
Câu
263, 264 = Chàng đứng tần ngần đó mãi, bỗng thấy gió chiều thổi đến như khiêu
gợi nỗi sầu và những ngọn lau sậy hiu hắt phất phơ như có vẻ trêu ghẹo chế nhạo
chàng.
Câu
265, 266 = Riêng cái trò tương tư nó vẫn thế – nhớ thì ít, nhưng nghĩ đến người
tình thì nhiều. Càng tưởng càng nhớ quá, chàng nghĩ rằng thế nào cũng phải đến
tận nhà nàng thì mới gặp được nàng. Cũng như Bùi Hàng xưa có đến Lam kiều mới
gặp được Vân Anh, chàng xăm xăm theo lối đi thẳng đến nhà Kiều.
Câu
267, 268 = Nhưng ôi ! Khi đến nơi, thì chỉ thấy tường cao ngất, cổng đóng kín,
trông thật trang nghiêm thăm thẳm, đúng là hết cách nhắn đưa tin tức.
Câu
269, 270 = Trên ngọn tường thì có mấy cành liễu lơ thơ như mành che, và mấy con
hoàng oanh đang líu lo học nói ở trên cành như có ý mỉa mai chế nhạo chàng.
Câu
271, 272 = Chàng nhòm qua khe cổng, thì chỉ thấy mấy lần cửa đóng gài then cẩn
thận và hoa rụng đầy thềm mà chẳng thấy bóng ai.
Câu
273 đến 276 = Chàng đứng ngắm tần ngần suốt một giờ lâu rồi đi dạo quanh khu
nhà, thì thấy mé sau khu nhà Kiều có nhà một người lái buôn xa ở mãi vùng Ngô
Việt chưa về, nhà vẫn bỏ vắng, buồng không ai ở.
Câu
277, 278 = Chàng bèn mượn cớ là du học mà hỏi thuê, rồi đường hoàng thong thả
mang túi đàn, mang cặp sách dọn đến ở.
Câu
279, 280 = Nơi nhà này có cây cảnh đẹp, có núi non bộ bằng đá, nhất là lại có
mái hiên ngồi ngắm cảnh, biển đề là “Lãm Thúy Hiên,” nét chữ thếp vàng còn chưa phai.
Câu
281, 282 = Chàng rất mừng, vì cứ suy ý ba chữ thếp vàng đề ở biển này mà đoán,
thì chắc chàng và Kiều đã có duyên trời định từ ba kiếp xưa với nhau rồi.
(Chàng suy luận ba
chữ Lãm Thúy Hiên cũng có nghĩa “mái hiên để Kim (vàng) vơ
(lãm) được Thúy (Kiều).” Xem lời chú giải [32] và lời đính chính câu 281
bên trên.
Câu
283, 284 = Từ ngày đến ở đây, ngày ngày chàng ngồi trong cửa sổ mở hé nửa cánh
cửa ra mà ghé mắt trông sang phía tường nhà họ Vương.
Câu
285, 286 = Tuy chỉ gần trong gang tấc, nhưng rõ như động tiên khóa cửa, nguồn
đào lấp lối, rõ gần mà hóa xa xôi tít mù, chẳng thấy bóng Kiều ra vào bao giờ.
Câu
287, 288 = Tính từ hôm chàng dọn đến ở nơi nhà thuê này, dần dà đã gần hai tuần
trăng rồi.
Câu
289, 290 = Bỗng một hôm trời êm gió mát, tình cờ chàng thấy bên kia tường như
có bóng người đi thướt tha dưới cây đào.
Câu
291, 292 = Chàng đương gẩy đàn, liền buông cây đàn xuống và vội vàng xốc áo
chạy ra, thì người đã đi khỏi rồi, chỉ còn lại mùi nước hoa thơm phức.
Câu
293, 294 = Chàng đi men theo quanh bức tường gấm mà ngó xem, thì bỗng thấy một
cành kim thoa vướng ở trên cành cây đào.
Câu
295, 296 = Chàng liền giơ tay lên, nhấc cao chiếc thoa lên mà lấy đem về. Chàng tự hỏi “Cái
của quý ở nơi khuê các này cớ sao mà lại đến đây ? ”
Câu
297, 298 = “Ngẫm coi, người đẹp sang như thế, mà của quý báu như vầy, nếu mà
chẳng có duyên với nhau, thì sao lọt vào tay ta được ? ”
Câu
299, 300 = Rồi lúc nào chàng cũng cầm chiếc thoa trên tay mà ngắm nghía cho đến
mãi tối đêm quên cả nằm ngủ, và lúc nào mùi hương trầm chiếc thoa chưa phai
cũng thoảng bốc lên làm cho lòng chàng say mê ngửi mãi.
Câu
301, 302 = Ngày hôm sau trời mới mờ sáng, đã thấy bóng người quanh quẩn ra ý
tìm tòi ở dưới gốc đào bên kia tường.
Câu
303, 304 = Chàng đã có ý đợi chờ, mới đứng cách mặt bên này bức tường mà đưa
lời sang nói để ướm xem lòng người bên kia tỏ ra sao.
Câu
305, 306 = Chàng lên tiếng “Mình bỗng tình cờ
bắt được một cành kim thoa, muốn trả lại mà chẳng biết là của ai đây !”
Câu
307, 308 = Vừa dứt lời, thì chàng nghe có giọng nói trẻ trung đáng yêu thưa lại
ngay rằng “Tôi rất cảm ơn lòng người quân tử chẳng sá gì chút của rơi mà mong
trả lại. ”
Câu
309, 310 = “Chiếc thoa của tôi nào có là của đáng
mấy mươi đâu, nhưng tấm lòng trọng nghĩa khinh tài của người mới thật đáng quý,
không biết bao nhiêu mà kể cho xiết được. ”
Câu
311, 312 = Biết đích xác ý Kiều rồi, chàng đáp lời “Tôi
đây vẫn là chỗ hàng xóm láng giềng, ra vào gần đây luôn luôn thôi, chứ nào phải
người xa lạ gì đâu ! ”
Câu
313, 314 = “Đã lâu lắm rồi, mãi đến hôm nay, mới nhờ chút của rơi này mà gặp
được nhau, thật là đã làm rầu rĩ thiểu não lòng tôi lắm ! ”
Câu
315, 316 = “Vậy xin cô dừng chân đứng đợi một chút cho tôi được gạn hỏi cặn kẽ
đôi câu cho hiểu lòng nhau.”
Câu
317, 318 = Rồi chàng vội chạy về nhà lấy thêm đôi xuyến vàng và một vuông khăn
là đỏ đem ra.
Câu
319, 320 = Chàng lanh lẹ sẽ ghé chân vào nét triện mây đắp nổi ở bức tường gấm
làm bực mà trèo qua ngọn tường. Sang bên kia rồi, chàng nhận đúng rõ ràng là
người hôm nọ.
Câu
321, 322 = Lúc mới, hai người còn sượng sùng giữ ý rụt rè, chàng thì đưa mắt
nhìn tận mặt, nàng thì cúi đầu e thẹn.
Câu
323, 324 = Chàng nói “Từ hôm bất kỳ gặp nhau, lòng
tôi lúc nào cũng âm thầm mong cô, nhớ cô, rõ thật mệt nhọc quá. ”
Câu
325, 326 = “Người tôi vốn đã gầy như cành mai, lại vì mong nhớ mà hao mòn thêm,
lắm lúc như muốn lả xuống. Nhưng may sao trời dun dủi còn có hôm nay được gặp
nhau ở đây. ”
Câu
327, 328 = “Suốt cả tháng nay, lòng tôi lúc nào cũng như gửi ở bên cô, tuy
không chắc được gặp cô nữa, nhưng tôi vẫn một mực liều thân giữ một niềm, chẳng
khác gì anh thợ cày ngày ngày ra ngồi gốc cây mà đợi thỏ. ”
Câu
329, 330 = “Nay tiện đây tôi xin hỏi cô có lòng chiếu cố đến kẻ hèn này
không ?”
Câu
331, 332 = Kiều thấy chàng hỏi câu hệ trọng quá, khiến lòng nàng rất ngẩn ngơ,
mới thưa rằng “Gia đình tôi là một nhà nền nếp trong sạch, trang nghiêm, còn
tôi là một gái quê mùa thật thà biết giữ lễ nghĩa. ”
Câu
333, 334 = “Dù có hẹn hò về cuộc tình duyên nữa, thì việc nên hay không nên,
cũng phải tùy lòng cha mẹ định liệu. ”
Câu
335, 336 = “Chứ giờ đây vì lòng quân tử quá thương mến tôi mà hỏi tôi như vậy,
thì tôi còn trẻ thơ quá, biết đâu mà dám thưa lại !”
Câu
337, 338 = Chàng đáp “Đành vậy, nhưng sự trời nay gió mai mưa, biến đổi khó
liệu trước được, dễ đã mấy khi tình cờ gặp nhau vui như thế này. ”
Câu
339, 340 = “Nếu cô không xét soi thấu rõ tấm tình si của tôi, thì thiệt thòi
cho tôi quá, mà chẳng ích gì cho ai cả. ”
Câu
341, 342 = “Tôi chỉ xin cô gắn bó với tôi một lời trước thôi, cho tôi được đành
lòng yên chí, rồi sau tôi sẽ xin liệu cách tìm người đi lại mối manh đường
hoàng, cô chớ ngại. ”
Câu
343, 344 = “Một khi chúng ta đã gắn bó một lời với nhau rồi thì dù ông trời kia
có phụ tấc lòng thành của chúng ta chăng nữa, chúng ta cũng đành liều bỏ qua cả
cuộc đời xuân xanh của chúng ta, không lấy ai nữa. ”
Câu
345, 346 = “Còn như chính cái độ lượng bao dung của cô như độ lượng vui hòa mùa
xuân bao dung cả muôn vật kia, nay nó lại quá hẹp hòi chẳng bao dung tôi, thì
chả hóa ra thiệt thòi cho công đeo đuổi của tôi lắm ru !”
Câu
347, 348 = Nàng đứng im lặng nghe lời chàng êm ái như ru. Những lời êm ái như
gió xuân đó dễ khiến lòng nàng mê say nao núng lộ ra khóe mắt ngại ngùng, e
thẹn ở trước mặt chàng.
Câu
349, 350 = Rồi nàng ngập ngừng ngỏ lời thưa rằng “Trong
buổi gặp nhau mới mẻ ta còn lạ lùng nhau này mà để chàng phải nài gạn mãi, em
nể lòng chàng lắm, không lẽ nào cầm lòng không nhận lời chàng được. ”
Câu
351, 352 = “Vậy em xin thưa, tấm lòng chàng quân tử đã đa mang đến em tha thiết
như vậy, thì em xin trân trọng nhận lời sẽ kết nghĩa trăm năm thủy chung với
chàng và xin giữ lời này lâu bền như tạc vào bia đá, khắc vào biển vàng.”
Câu
353, 354 = Được Kiều nhận lời, chàng thật hả hê, lòng như được cởi mở ra, liền
giở cành kim thoa và gói khăn hồng bọc đôi xuyến vàng cẩn trọng trao tận tay
Kiều.
Câu
355, 356 = Và nói “Cuộc trăm năm của đôi ta kể từ hôm nay, và tôi xin nàng nhận
cho một chút của này làm kỷ niệm, ghi nhớ mãi mãi.”
Câu
357, 358 = Kiều cũng lấy chiếc quạt nàng có vẽ đóa hoa quỳ cầm sẵn ở tay, và
chiếc thoa vừa nhận được, để vào hai bàn tay mà kính cẩn nâng lên ngang mặt
trao dâng cho chàng, để đánh đổi lấy đôi xuyến vàng do chàng tặng.
Câu
359, 360 = Hai bên cùng trao lời thề hẹn gắn bó chặt chẽ như keo sơn với nhau
vừa xong thì mé sau như có tiếng người xôn xao.
Câu
361, 362 = Thế là vội vàng chia tay nhau, chàng thì về thư phòng, nàng thì về
lầu trang.
Những
câu và chữ có ý móc nối
“Cho
hay là giống hữu tình / đố ai gỡ mối tơ mành cho xong” là câu rất hay để chuyển
tiếp cuộc tương tư của Kiều với cuộc tương tư của Kim Trọng. Tác giả khéo dùng hai
chữ “đố ai” vừa để khuyên người đời chớ có để lòng vướng vào mối tơ tình mong
manh lúc mới mà rồi gỡ khó ra, vừa để khuyên đời chớ trách giống hữu tình vương
vào lưới tình như Kim Trọng và Thúy Kiều, chỉ vì một cái “nghé theo” hay “nhác
thấy” lúc đầu mà rồi khó gỡ.
“Nỗi
nàng canh cánh bên lòng biếng khuây” dùng ý móc nối với nhiều câu ở dưới. Vì
chàng bâng khuâng nỗi nàng nên mới có sự giong sầu suốt đem dài mất ngủ, càng
khắc càng chầy, hết ngắm vầng trăng khuyết lại ngắm đĩa dầu hao. Cũng vì thế
mới có sự buồng văn lạnh lẽo, bút khô mực, đàn chùng dây ; mới có sự mơ
tưởng mộng hồn nàng đến, đốt hương chào mừng, pha trà cùng uống ; rồi ngày
hôm sau mới có sự vội vã ra nơi kỳ ngộ để bị nhìn lau sậy nó kháy trêu, lại xăm
xăm đến Lam kiều để bị nghe chim oanh nó mỉa mai.
“Mấy lần khóa
kín phòng the / bóng hồng liệu nẻo đi về chiêm
bao” móc nối khẩn thiết với câu “Mành tương phân phất gió đàn / hương gây
mùi nhớ, trà khan giọng tình” vì chàng Kim tưởng tượng như Kiều đã đóng cửa đi
ngủ, cho mộng hồn được lại với chàng nên khi thấy gió làm bức mành tương kêu,
chàng cho là mộng hồn Kiều đến thăm mình, nên chàng đốt hương pha trà đón tiếp.
Hai
câu “Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu” và “Gió chiều như gợi cơn sầu” tả
lòng Kim Trọng bâng khuâng nhớ Kiều, đối lại với hai câu : “Bóng tà như giục
cơn buồn” và “Dưới cầu nước chảy trong veo” tả lòng Kiều bâng khuâng nhớ
Kim Trọng.
Câu
“Lơ thơ tơ liễu buông mành” ở trước nhà Kiều ngầm tả lòng Kim Trọng bực vì
những cành liễu có thể che khuất bóng Kiều, đối lại với câu “Bên cầu tơ liễu
bóng chiều thướt tha” ngầm tả lòng Kiều trách liễu hình như phất phơ đưa Kim
Trọng đi để trêu nàng.
Ở
câu “Gió đâu sịch bức mành mành” thì gió thổi mành làm cho Kiều đương mơ tỉnh
dậy, mất bóng Đạm Tiên. Ở câu “Mành tương phân phất gió đàn” thì gió thổi mành
làm cho Kim Trọng đương tỉnh hóa mơ như thấy mộng hồn Kiều. Ý văn trong hai ngữ
cảnh lần lượt tả Kiều và Kim móc nối nhau một cách kỳ diệu.
Vẫn
một cảnh “nước trong,” câu “Dưới dòng nước chảy trong veo” thì làm cho
Kiều ngẩn ngơ vì không còn bóng chàng Kim cưỡi ngựa qua cầu nữa; câu “Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu” thì làm cho
chàng Kim ngẩn ngơ vì không còn bóng Kiều chiếu xuống dưới nước như hôm qua
nữa.
Hai
chữ “làm chi” ở câu “Người đâu gặp gỡ làm chi”
thì tả lòng Kiều đương mừng bỗng lo ; hai chữ “thì chi” ở câu “Thì chi
đem thói khuynh thành trêu ngươi” thì làm cho Kim Trọng đương lo hóa mừng.
Hai chữ “nét vàng” ở câu “Có hiên Lãm Thúy nét vàng
chưa phai” mới đọc thì tưởng là thừa, chỉ đặt để
lấy vần với câu trên, nhưng đâu phải thế – chính chữ vàng này là chữ rất
quan trọng trong câu. Lãm Thúy Hiên mà thếp vàng, nói ngược lại có phải
là Kim Lãm Thúy Hiên không ? Lời nói ngược này
có
hàm ý “đây là mái hiên nơi
chàng
họ Kim vơ được nàng Thúy” – một điềm
tốt quá sự suy đoán của chàng Kim : chàng
chỉ đoán lấy được Thúy chị, có ngờ đâu lấy được cả Thúy em !
[ĐÀM DUY TẠO]