Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2018
ĐÀM DUY TẠO: CHƯƠNG 06: KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
CHƯƠNG 06
KIM VÂN KIỀU ĐÍNH GIẢI
Hương Ngạn Đào Tử ĐÀM
DUY TẠO
trước tác năm 1986
(Thứ nam) ĐÀM TRUNG
PHÁP
hiệu đính năm 2018
° ° ° ° °
CÂU 133 ĐẾN CÂU 242
“Tơ duyên kỳ ngộ, giấc
mộng đoạn trường”
133. Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng. [1, 2]
137. Đề huề lưng túi gió trăng, [3]
Sau chân theo một vài thằng con con.
139. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, [4]
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. [5]
141. Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
142. Hài văn lần bước dặm xanh, [6]
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. [7]
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng. [1, 2]
137. Đề huề lưng túi gió trăng, [3]
Sau chân theo một vài thằng con con.
139. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, [4]
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. [5]
141. Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
142. Hài văn lần bước dặm xanh, [6]
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. [7]
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ núp vào dưới hoa. [8]
147. Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. [9]
149. Nền phú hậu, bậc tài danh, [10, 11]
Văn chương nết đất, thông minh tính trời. [12]
151. Phong tư tài mạo tót vời, [13]
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. [14, 15]
153. Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân. [16]
155. Vẫn nghe thơm nức hương lân, [17]
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều. [18]
157. Nước non cách mấy buồng thêu, [19]
Những là trộm nhớ thầm yêu chuốc mòng. [20]
159. May thay giải cấu tương phùng, [21]
Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa. [22]
161. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, [23]
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. [24]
163. Người quốc sắc, kẻ thiên tài, [25, 26]
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
167. Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
169. Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
171. Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng già thu không. [27]
173. Mảnh trăng chênh chếch dòm song, [28]
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175. Hải đường lả ngọn đông lân, [29]
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà.
177. Một mình lặng ngắm bóng nga, [30]
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
179. Người mà đến thế thì thôi, [31]
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
181. Người đâu gặp gỡ làm chi, [32]
Trăm năm biết có duyên gì hay không? [33]
183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. [34]
185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. [35]
187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, [36]
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. [37]
189. Sương in mặt, tuyết pha thân, [38]
Sen vàng lững đững như gần như xa.
191. Rước mừng đon hỏi dò la:
“Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?” [39]
193. Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay, [40]
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
195. Hàn gia ở mé tây thiên, [41, 42]
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
197. Mấy lòng hạ cố đến nhau, [43]
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. [44, 45]
199. Vâng trình hội chủ xem tường, [46]
Mà sao trong sổ Đoạn Trường có tên. [47]
201. Âu đành quả kiếp nhân duyên, [48]
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa! [49]
203. Này mười bài mới mới ra, [49a]
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.” [50, 51]
195. Hàn gia ở mé tây thiên, [41, 42]
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
197. Mấy lòng hạ cố đến nhau, [43]
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. [44, 45]
199. Vâng trình hội chủ xem tường, [46]
Mà sao trong sổ Đoạn Trường có tên. [47]
201. Âu đành quả kiếp nhân duyên, [48]
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa! [49]
203. Này mười bài mới mới ra, [49a]
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.” [50, 51]
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. [52]
207. Xem thơ nức nở khen thầm:
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. [52]
207. Xem thơ nức nở khen thầm:
“Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường [53]
209. Ví đem vào tập Đoạn Trường [54]
Thì lèo giải nhất chi nhường cho ai.” [55]
209. Ví đem vào tập Đoạn Trường [54]
Thì lèo giải nhất chi nhường cho ai.” [55]
211. Thềm hoa khách đã giở hài,
Nàng còn nắm lại một hai tự tình.
213. Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
217. Một mình lường lự canh chầy, [56]
Nàng còn nắm lại một hai tự tình.
213. Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
217. Một mình lường lự canh chầy, [56]
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
219. Hoa trôi bèo dạt đã rành, [57]
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
221. Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, [58]
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
223. Giọng kiều rên rỉ trướng loan, [59]
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: “Cơn cớ gì? [60]
219. Hoa trôi bèo dạt đã rành, [57]
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
221. Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, [58]
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
223. Giọng kiều rên rỉ trướng loan, [59]
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: “Cơn cớ gì? [60]
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya,
“Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?” [61]
227. Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. [62]
229. Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
231. Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
233. Cứ trong mộng triệu mà suy, [63]
Phận con thôi có ra gì mai sau!”
235. Dạy rằng: “Mộng ảo cứ đâu, [64]
229. Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
231. Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
233. Cứ trong mộng triệu mà suy, [63]
Phận con thôi có ra gì mai sau!”
235. Dạy rằng: “Mộng ảo cứ đâu, [64]
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.”
237. Vâng lời khuyên giải thấp cao
237. Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương
239. Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
241. Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
241. Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
Đính chính và xác định
Câu 150: “Văn chương nếp đất,
thông minh tính trời” – Chữ nếp
trong câu này nghĩa là lề thói đã quen như tờ giấy đã gấp thành nếp sẵn, lúc
gập lại rất dễ. Chữ đất đây là mồ mả tổ tiên táng vào được ngôi đất tốt,
khiến con cháu được phát đạt. “Văn chương nếp đất” = Kim Trọng được nền nếp sẵn
sàng của mồ mả tổ tiên phát về văn chương, nên chàng học giỏi. Nhiều bản quốc
ngữ in thành “văn chương nét đất” là lầm và vô nghĩa. Chữ nếp câu
này liền với chữ nền câu trên “Nền phú hậu, bậc tài danh.”
Câu 169: “Dưới cầu nước chảy trong veo
/ bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” lấy hai chữ cầu làm cốt
vừa để tả cảnh chiều buồn, vừa ngầm tả cảnh Kiều nghé theo mãi cho đến khi Kim
Trọng đã qua cầu và đi khuất bóng rồi, mà nàng vẫn còn vẩn vơ nghĩ: thế là
vắng chàng rồi, chỉ còn trơ chiếc cầu không trên dòng nước trong
veo, không còn bóng chàng cưỡi ngựa qua cầu nữa, và chỉ còn ngọn liễu phất
phơ thướt tha như đưa chàng đi. Những bản đổi chữ “dưới cầu” ra “dưới dòng”
thật là lầm, đã làm mất cả ý nghĩa tế nhị thâm trầm đó, và còn có thể biến nó
thành vô nghĩa nữa.
Câu 172: “Mặt trời gác núi chiêng già
thu không” lấy điển từ câu thơ của một thi sĩ đời Đường gửi cho bạn tơ lòng
mong nhớ [何 時 最 是 思 君 处, 日 入 斜 窗 晚 寺 鐘 = hà thì tối thị tư quân
xứ, nhật nhập tà song vãn tự chung = nhớ anh nhất ấy lúc
nào, nắng xiên cửa sổ, chuông chiều chùa vang]. Chiêng già
= Chuông chùa đánh lúc
chiều tối để niệm Phật và gọi các cô hồn về chùa nương bóng Phật. Câu này cũng
như câu trên vừa tả cảnh buồn, vừa ngẫm tả tình nhớ của Kiều. Những bản in “… chiêng
đà thu không” đã bỏ mất cái ý tế nhị âm thầm nhớ chàng Kim. Vậy cần phải
đính chính lại là “Mặt trời gác núi, chiêng già thu không.”
Câu 176: “Giọt sương trĩu nặng cành
xuân la đà” = Hạt sương bám dần vào thành những giọt nước ở dưới lá làm cành
cây nặng trĩu xuống. Có bản quốc ngữ in là “gieo nặng” thành ra vô nghĩa.
Chữ nôm trĩu [= thủ 扌+ liễu 了] có bản nôm in sai là 招 [hán = triệu, nôm = gieo].
Câu 190: Hai chữ “lững đững” ở câu này chữ nôm
viết là 浪 蕩[lãng đãng], nhưng tôi nghĩ chỉ có “lững đững” là vừa hợp tiếng vừa hợp lý hơn,
vì lững đững là dở như có, dở như không, gần không ra gần, xa không ra xa, đúng
như hồn ma hiện.
Câu 191: “Rước mừng đon hỏi dò la”
– Chữ đon đây nghĩa là đon đả tỏ tình thân quý. Nhiều bản quốc
ngữ in sai ra đón là thừa, vì đã ra rước mừng rồi còn đón làm gì nữa. Bản
nôm viết chữ nôm đon [= khẩu口 + đôn敦] thì
đúng hơn.
Câu 195: “Hàn gia ở mé tây thiên” – Chữ
nôm mé [= hán 厂+ mãi 買] ở câu này các bản
quốc ngữ đều dịch lầm ra mái thật vô nghĩa. Thiên là bờ ruộng; ở mé tây
thiên là ở bên bờ ruộng phía tây.
Câu 210: “Thì lèo giải nhất chi nhường
cho ai” – Chữ lèo đây là giải băng vải hay giấy treo ở trên giải thưởng,
ghi là phần thưởng hạng mấy. Trước khi ai muốn tranh phần thưởng nào thì trình
diện với ban giám khảo, rồi chắp hai tay sẽ vuốt cái lèo giải ấy mà ra
thi. Bởi vậy ta gọi phần thưởng là giải thưởng, và có câu “tranh lèo
giật giải.” Chữ lèo hết thảy các bản Kiều quốc ngữ đều dịch là treo,
nghĩa rất không trôi chảy, vì thế là không nhường cho ai sự treo giải nhất, chứ
không phải nhường giải nhất. Có sự lầm vậy là vì chữ lèo nôm [= mịch
糸+ liêu 尞), rồi sau khắc lầm ra treo nôm [= thủ 扌+ liêu 尞). Người dịch đầu tiên không nghĩ ra, dịch bừa là treo,
rồi người sau cứ theo lầm mãi.
Câu 231: “Đoạn trường là sổ thế nào” – Chữ sổ
ở câu này ứng với sổ đoạn trường ở câu lời Đạm Tiên nói ở trên: “Mà xem
trong sổ đoạn trường có tên.” Hết thảy các bản Kiều quốc ngữ đều dịch ra số,
thật không khẩn thiết với lời báo mộng.
Câu 235: “Dạy rằng mộng ảo cứ đâu” –
Chữ mộng ảo câu này có bản viết là mộng triệu. Mộng triệu là
điềm báo lúc mê ngủ, chứ không có nghĩa hão huyền chẳng đáng tin như mộng ảo. Tôi
nghĩ mộng ảo đúng vào nghĩa câu này hơn là mộng triệu.
Câu 240: “Nách tường bông liễu bay ngang
trước mành” – Nhiều bản Kiều quốc ngữ e chữ mành không vần với chữ nghiêng
ở câu sau nên đổi bừa ra là “Nách tường bông liễu bay sang láng giềng”
thật là vô nghĩa, mất cả vẻ đẹp vẻ hay của câu này. Họ không hiểu các vần anh,
inh, ênh vẫn có vần với iêng.
Chú thích và dẫn điển
[1] Lỏng buông tay khấu = tay khấu là
tay cầm cương ngựa. Khi cưỡi ngựa, tay cầm cương co đầu ngựa cao lên thì nó
chạy, buông lỏng chùng cương cho đầu ngựa hạ xuống thì nó đi chậm. Vậy, lỏng
buông tay khấu = tay cầm dây cương buông thật dài ra cho ngựa đi bước một
rất thong thả.
[2] Dặm băng = đường phẳng rộng rãi dễ
đi.
[3 Lưng túi gió trăng = phong lưu đi
dạo phong cảnh có mang túi thơ đi theo, để ngâm vịnh được bài thơ nào thì chép
đựng vào túi đó.
[4] Tuyết in sắc ngựa câu dòn = ngựa non
chàng cưỡi đẹp, sắc trắng ngần như tuyết. Ngựa câu = ngựa khỏe đang sức lớn chạy
nhanh. Dòn = tươi đẹp.
[5] Cỏ pha mùi áo nhuộm non
da trời = màu áo nhuộm sắc lam non nhợt, ta cũng gọi là màu thiên thanh hay
màu hồ thủy.
[6] Hài văn = giày có thêu hoa đẹp đẽ
lịch sự.
[7] Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
diễn tả hình ảnh người đàn ông đẹp, lấy
từ điển tích [王 衍 如 琼 林 玉 樹 = Vương Diễn như quỳnh
lâm ngọc thụ = Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao ở trong rừng ngọc quỳnh].
[8] Hai Kiều = hai cô gái đẹp, tức là
Kiều và Vân. (Xem lời giải số 18 ở dưới).
[9] Nhà trâm anh = dòng dõi làm quan. Các
quan lúc trước khi mặc triều phục vẫn gài cái trâm ở búi tóc để giữ mũ
cho ngay, và buộc đôi giải mũ (chữ
Hán là anh 纓) rũ xuống sau
lưng.
[10] Nền phú hậu = giàu có và lòng tử
tế trung hậu.
[11] Bực tài danh = nổi danh tiếng là
hạng người có tài hoa.
[12] Nếp đất – Xem lời đính
chính câu 150 bên trên.
[13] Phong tư 丰姿 = vẻ mặt đẹp đẽ đầy đặn. Tài mạo 才貌 = mặt mũi linh lợi, khôi ngô, trông biết ngay
là người tài giỏi.
[14] Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
= tính tình bên trong thì rất vui vẻ, nhã nhặn, và cách ăn ở bên ngoài thì
trông rất hào hoa, lịch sự.
[15] Hào hoa = cư xử hào phóng, lịch
sự.
16/ Song thân 窗親 = bạn học chung buồng học với nhau, khác
với song thân 双親 là hai bố mẹ.
[17] Hương lân 鄕鄰 = làng kế bên.
[18] Một nền đồng tước khóa xuân hai Kiều
mượn ý câu cuối cùng của bài thơ Đỗ Mục vịnh trận Xích Bích để nói nhà họ Vương
có hai cô con gái đẹp chưa chồng. Bài thơ đó như sau:
[折 戟 沈/沉 沙 鉄 未 銷 = triết kích trầm sa thiết vị tiêu = ngọn giáo
gẫy chìm ở các sông mũi sắt chưa tiêu hết] • [私 將 磨 洗 認 前朝 = tư tương ma tẩy nhận tiền triều = ta đem lên mài rửa để
xem về triều đại nào] • [東 風 不 與 周 郎 便 =
đông phong bất dữ chu
lang tiện = nếu trận Xích Bích gió đông không giúp phương tiện cho Chu Du] • [銅 雀 春 深 鎖 二 嬌 = Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều = thì hai cô gái họ Kiều sẽ bị khóa xuân ở nền Đồng Tước].
[19] Buồng thêu = buồng đàn bà, con gái
ngồi thêu dệt. Nước non cách mấy buồng thêu lấy điển từ câu trong sách cổ
[相 親 咫 尺 而 渺 若 山 河 = tương thân chỉ xích
nhi diểu nhược sơn hà = gần
nhau chỉ một gang một thước, mà hóa cách xa nhau như cách núi cách sông].
[20] Trộm dấu thầm yêu chốc mòng – Dấu = yêu một cách sâu xa êm đềm. Trộm dấu = đem
lòng mơ ước ngầm không dám nói với ai. Chốc mòng = ao ước mơ mòng (nhiều
bản quốc ngữ dịch chữ chốc mòng 祝蒙 này là chuốc
mòng và giảng nghĩa gượng là bao lâu nay hoặc biết bao nhiêu).
[21] Giải cấu tương phùng lấy điển từ Kinh
Thi [邂 遘 相 逢 適 我 願 兮 = giải cấu tương phùng,
thích ngã nguyện hề = tình cờ
gặp nhau, thật thỏa lòng ước nguyện của ta].
[22] Đố lá = Trong những dịp dạo cảnh
xuân, thường có những cuộc đố lá với nhau. Mỗi người mang một cái túi, gặp thứ
cây cỏ nào cũng sẽ hái một nhúm lá bỏ vào túi. Cốt phải hái cho nhanh, kẻo
tiếng hiệu gọi về hái không kịp. Khi về đấu nhau, ai được nhiều thứ hơn người
kia thì thắng cuộc.
[23] Bóng hồng là bởi nhóm chữ [美 人 紅 影 = mỹ nhân hồng ảnh = bóng dáng đẹp của đàn bà con gái].
[24] Xuân lan thu cúc – Vua Hậu Chủ nhà Trần bị nhà Tùy bắt,
vua nhà Tùy hỏi: “Hai người ái phi của nhà ngươi ai đẹp hơn ai?” Hậu Chủ thưa: [春 蘭 秋 菊 皆 一 時 之 秀 也 = xuân lan thu cúc, giai nhất thì chi tú dã = hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu đều
là thứ hoa đẹp nhất một mùa]. Ý nói mỗi người đẹp nhất một vẻ, không thể nào
phân bì hơn kém được.
[25] Quốc sắc = người con gái đẹp nổi
tiếng trong nước.
[26] Thiên tài = người có tài hoa trời
cho hơn hẳn mọi người.
[27] Chiêng già = tiếng chuông chùa. Thu không = đánh lúc hết ngày. Ở các vòm lính canh lúc chập tối đánh trống
báo hết ngày gọi là trống thu không; đánh báo hết đêm gọi là trống
tan canh.
[28] Gương nga = mặt trăng.
[29] Hải đường lả ngọn đông lân = mặt trăng buổi chiều tối hôm Thanh
minh, đầu tháng ba, đứng ở phía tây, nên bóng ngọn cây hải đường trông như lả
về phía đông. Câu này còn dùng ý tả ngầm: thế là lòng Kiều đã ngả về đông lân
rồi, không còn “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nữa. Nhiều câu tác giả tả
cảnh thường ngầm ý tả tình như vậy, thật là thần tình, thiên tài.
[30] Tố nga = mặt trăng.
[31] Người mà đến thế thì thôi – Người mà = Đạm Tiên.
[32] Người đâu gặp gỡ làm chi – Người đâu = Kim Trọng.
[33] Trăm năm = duyên vợ chồng.
[34] Câu tuyệt diệu = câu văn thơ hay tột bực, lấy điển ở bốn
chữ [絶 妙 好 辞 = tuyệt diệu hảo từ = lời hay rất mực]. Điển tích như sau:
Tào Tháo đọc một tấm bia, thấy có lời Sái Ung 蔡邕 phê 8 chữ [黄 絹 幼 婦 外 孫 齏 臼 (黄 絹 = hoàng quyên = lụa
vàng, 幼 婦 = ấu phụ = con gái nhỏ, 外孫 =
ngoại tôn = cháu ngoại, 齏 臼 = tê cửu = cối giã gừng
ớt]. Tháo không hiểu nghĩa mới hỏi nàng Sái Văn Cơ 蔡文姬: “Câu cha nàng phê thế nghĩa là gì?” Văn Cơ
không biết, Dương Tu thưa: “Đó là bốn chữ tuyệt diệu hảo từ 絶 妙 好 辞, và chàng giảng cho Tháo nghe: lụa vàng là ti sắc 絲 色 (sắc tơ tằm) hợp thành chữ 絶 (tuyệt = rất). Con gái nhỏ là
thiếu nữ少 女 hợp thành
chữ 妙 (diệu = thần
diệu). Cháu ngoại là 女 子 (con của con
gái) hợp thành chữ 好 (hảo = hay). Cối giã gừng là thụ
tân 受 辛 (chịu cay) hợp
thành 辤 (từ = lời). Tháo
giật mình và chịu Dương Tu là thông minh, tài đoán.
[35] Triện = chắn song cửa sổ đóng thành hình chữ triện (hoặc như chữ thọ
hình tròn, chữ phúc hình vuông).
[36] Tiểu Kiều = người con gái trẻ, lấy điển từ các chữ đại Kiều 大喬 và tiểu Kiều 小喬 là hai cô họ Kiều. Xem lời giải [18] bên
trên.
[37]
Phong vận = có vẻ tài hoa phong
nhã. Thanh tân = có vẻ trong trắng như con gái chưa chồng.
[38]
Sương in mặt, tuyết pha thân =
người trong trắng đẹp, nhưng có vẻ lạnh lùng như sương như tuyết. Lấy 6 chữ này
để tả vẻ đẹp của người con gái ma thì quá đúng.
[39]
Đào nguyên = nguồn đào. Truyện
kể đời nhà Tấn (205-420) có người ngư phủ ngược thuyền lên mãi vào một con suối
hai bờ toàn những cây đào hoa nở rất đẹp. Mến cảnh, ngư phủ vượt mãi lên vào
một khu động phong cảnh rất đẹp, dân cư rất vui vẻ thái bình, tranh nhau đón
tiếp ông ta. Họ kể cho nghe là tổ tiên họ tránh loạn nhà Tần (221-206 trước tây
lịch) vào ở đó. Họ rất thích thú khi được ngư phủ kể cho nghe chuyện ở ngoài – Tần mất, Hán lên, Hán mất, Tấn lên. Ngư
phủ về thăm nhà, rồi muốn mang gia đình lên ở thì không tìm được lối lên nguồn đào
nữa. Người sau dùng chữ đào nguyên để nói cảnh tiên.
[40]
Thanh khí = cùng chung một khí chất. Kinh dịch viết [同声相應同氣相求 = đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu = hai tiếng nhạc cùng một âm luật thì
vang ứng với nhau, hai vật cùng một khí chất thì tìm hút nhau]. Đây nói vì
Kiều chung một tâm tình với Đạm Tiên nên họ cảm mến nhau.
[41]
Hàn gia 寒家 =
nhà rét lạnh = lời nói khiêm tốn kêu nhà mình là nhà nghèo ở không được ấm áp.
Nhưng ở đây hàn gia rõ hợp với cảnh một ngôi mộ quanh năm lạnh lùng chẳng ai hương khói
thăm cúng.
[42]
Tây thiên 西阡 – Bốn
bờ ruộng thì hai bờ đầu nam đầu bắc gọi là thiên 阡, hai bờ đầu đông đầu tây
gọi là mạch 陌.
Câu này chỉ có 6 chữ mà tả rõ được mả nàng ở một mé bên bờ phía tây đầu nam đầu
bắc.
[43]
Mấy lòng hạ cố đến nhau = tấm lòng quý hóa biết bao nhiêu mà cúi
xuống đoái nhìn đến tôi!
[44]
Mấy lời hạ tứ = mấy bài thơ
ban xuống cho tôi. Hai chữ hạ cố 下顧 và hạ tứ 下賜
đúng với ý nghĩa dưới mả nói với người ở trên.
[45]
Ném châu gieo vàng = hai bài
thơ Kiều đề ở gốc cây vịnh nàng Đạm Tiên, lời như vàng như ngọc tuôn ra.
[46]
Hội chủ = bà chủ hội đoạn
trường. Chủ đoạn trường lấy nguồn gốc từ truyện một con vượn mẹ thấy con mình
bị người bắn chết, nó ôm lấy thây con rồi kêu thảm thiết mà lăn ra chết; khi
người ta mổ nó ra thấy ruột nó đứt thành nhiều đoạn. Sau có nhà văn sĩ dùng chữ
đoạn trường thanh (tiếng đứt ruột) mà đặt tên một cuốn sách ông ta viết.
Bởi thế ông Nguyễn Du mới đặt tên truyện Kiều là Tiếng đứt ruột mới.
[47]
Sổ đoạn trường = cuốn sổ biên
tên những người số mắc kiếp đoạn trường hoặc đã qua đời như Đạm Tiên, hoặc
còn sống mà chưa gặp kiếp đoạn trường như Kiều .
[48]
Quả kiếp nhân duyên 果 劫 因 緣 – Theo sách nhà Phật thì kiếp này mình
được sung sướng hay phải khổ sở là cái quả báo của việc thiện hay ác mình đã làm kiếp trước. Bởi vậy,
ta hay dùng chữ quả kiếp để nói sự khổ nhục là cái quả báo để chuộc
lại tội ác mình đã làm kiếp trước. Câu Đạm Tiên nói này nghĩa là: Chúng ta chỉ
là vì có cái nhân duyên cùng chung một kiếp quả báo với nhau mà được gặp nhau
đây.
[49]
Một hội một thuyền = kẻ trước
người sau chung một số kiếp trong hội đoạn trường, cũng như cùng đi với nhau
trong một chiếc thuyền ở trên bến mê, đưa người đi trước, đón người đi sau.
[49a]
Đầu đề 10 bài thơ mới ra đó là:
1.
Tích đa tài [惜 多 才 = đáng
tiếc cho mình sao lại nhiều tài].
2.
Liên bạc mệnh [怜 薄 命 = thương
mệnh bạc].
3.
Bi kì lộ [悲 歧 路 = đau
cực chỗ đường rẽ].
4.
Ức cố nhân [億 故 人 = nhớ
người cũ].
5.
Niệm nô Kiều [念 奴 娇 = nghĩ
thương phận con gái].
6.
Ai thanh xuân [哀 青 春 = thương
tuổi xuân xanh].
7.
Ta kiển ngộ [嗟 騫 遇 = than
bước long đong].
8.
Khổ linh lạc [苦 零 洛 = khổ thân lưu lạc].
9.
Mộng cố viên [夢 故 園 = mơ quê cũ].
10.
Khốc tương tư [哭 相 思 = khóc nhớ nhau].
Mười
đầu đề này tả đủ kiếp khổ đau của Kiều sau này.
[50]
Câu thần = câu thơ hay như có thần giúp mới làm được, gọi là thần
cú 神句.
[51]
Bút hoa 筆花 –
Lý Bạch xưa lúc trẻ mơ thấy cái bút ông đương viết bỗng mọc cái hoa đẹp, từ đó
ông nảy tài làm thơ nổi tiếng khắp nước, nên người sau gọi bút người tài thơ là
bút hoa.
[52]
Khúc ngâm = bài thơ, bài hát.
[53]
Tú khẩu cẩm tâm 繡 口 錦 心 = lời
thơ ở miệng ra đẹp như thêu hoa, ý thơ nghĩ ở trong lòng ra đẹp như dệt
gấm.
[54]
Tập đoạn trường = tập thơ của
những khách đoạn trường tả cảnh đau thương của mình đưa cho chủ hội đoạn
trường.
[55]
Lèo giải nhất – Xem lời đính
chính câu 210 bên trên.
[56]
Lượng lự = suy lường lo nghĩ.
Bản nôm in là 量慮 (lượng
lự). Các bản Kiều dịch lầm ra lưỡng lự, không đúng nghĩa ở chỗ này, vì
lưỡng lự nghĩa là dùng dằng chưa biết theo đường nào trong hai đường,
không hợp lý ở đây.
[57]
Hoa trôi bèo giạt = kiếp long
đong khổ sở nay đây mai đó – như hoa
trôi theo dòng suối, bèo giạt theo luồng gió thổi.
[58]
Lớp lớp sóng giồi = chưa hết
điều lo nọ, lại dồn đến điều lo kia –
như cánh bèo ở mặt sóng, hết làn sóng nọ đến làn sóng kia nhận chìm xuống.
[59]
Giọng kiều = giọng non trẻ
của con gái. Nhiều bản quốc ngữ in là “giọng Kiều (nghĩa là giọng cô
Kiều) thật mất cái ý hay của chữ giọng.
[60]
Nhà huyên = mẹ, do chữ huyên
thất 萱室 dịch
ra. Kinh Thi có câu [安 得 萱 草 言 樹 之 背 = yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối = ước
sao được cây cỏ huyên để trồng ở trước buồng hướng bắc, (tức là buồng mẹ ở)].
Bởi vậy các nhà văn sĩ sau mới gọi mẹ là huyên đường 萱 堂 (nhà huyên). Cỏ
huyên giống cây huệ, lá hình lưỡi gươm, hoa 6 cánh màu vàng hay đỏ, ăn được,
phơi khô gọi là kim châm. Cây huyên xanh suốt năm, nên người xưa trồng ở trước
nhà mẹ ở để chúc mẹ khỏe mạnh luôn luôn.
[61]
Mầu hoa lê hãy đầm đìa hạt mưa lấy điển tích từ bài Trường Hận Ca 長 恨 歌 của
Bạch Cư Dị tả hình Dương Quý Phi ở cung tiên khóc khi thấy sứ giả của Minh
Hoàng đến tìm [玉容 寂 寞 淚 闌 干, 棃 花 一 枝 春 帶 雨 = ngọc
dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đái vũ = mặt ngọc u buồn, nước mắt đầm đìa,
như một cành hoa lê mang những giọt mưa xuân].
[62[
Dưỡng sinh đôi nợ = công lao
cha sinh, mẹ dưỡng.
[63]
Mộng triệu 夢 兆 =
điềm báo trong giấc mơ.
[64]
Mộng ảo = mơ ảo trong giấc mộng chẳng đáng tin.
[65]
Mạch tương = nguồn cơn tương tư Kim Trọng. Chữ mạch tương lấy
điển từ câu thơ [君 在 湘 江 頭, 妾 在 湘 江 尾, 相 顧 不 相 見, 同 飲 湘 江 水 = quân tại Tương giang đầu,
thiếp tại Tương giang vĩ, tương cố bất tương kiến, đồng ẩm Tương giang
thủy = chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, trông nhau chẳng
thấy nhau, cùng uống nước sông Tương”]. Dào mạch tương là giào giạt lòng nhớ ; nhiều bản Truyện Kiều giảng lầm
chữ mạch tương là nước mắt khóc lấy điển ở truyện hai bà Nga Hoàng, Nữ Anh khóc vua Thuấn ở bờ sông
Tương. Giảng thế thật không đúng trường hợp Kiều bây giờ, vì Kiều khi đó
chỉ ao ước lấy được Kim Trọng để gỡ số bạc mệnh chứ đâu có khóc.
Diễn
ra văn xuôi
Câu
133 và 134 = Ba chị em còn đang dùng dằng nữa muốn ở, nữa muốn về, thì bỗng
nghe tiếng nhạc ngựa lại gần.
Câu
135 và 136 = Đưa mắt lên trông thì thấy một văn nhân buông lỏng tay cương cho ngựa
đi thong thả trên đường rộng thẳng.
Câu
137 và 138 = Văn nhân vừa đi vừa ngắm cảnh, có vẻ ung dung. Lòng đầy cao hứng
vịnh thơ, sau ngựa có mấy đứa
nhỏ đi theo.
Câu
139 và 140 = Chàng cưỡi một con ngựa non sắc trắng ngần, và mặc áo nhuộm xanh
da trời.
Câu
141 và 142 = Chị em vừa trông rõ mặt ở nẻo xa, thì người khách đó đã xuống ngựa
tiến đến nơi nói truyện.
Câu
143 và 144 = Người khách lần lần đưa đôi giày thêu bước trên đường cỏ xanh, đi
đến đâu đẹp lây cho cả vùng đến đấy, trông như cây ngọc quỳnh cành ngọc dao một
lượt.
Câu
145 và 146 = Vương Quan vì quen mặt người khách thì chạy ra chào, còn hai cô
gái thì e lệ, lánh mặt vào bụi hoa.
Câu
147 và 148 = Chàng khách này nguyên vẫn là người vùng quanh quẩn gần đó, chứ
đâu xa lạ gì. Họ chàng là Kim, tên chàng là Trọng và vốn là một nhà dòng dõi
trâm anh xưa nay.
Câu
149 và 150 =
Chàng đã là con nhà nền nếp giàu có phúc hậu, lại nổi tiếng là bậc tài hoa, đã
sẵn đất phát văn chương, lại được trời
cho bản chất
thông minh.
Câu
151 và 152
= Mặt mày đẹp đẽ nở nang, rõ có vẻ tài giỏi hơn người,
trong lòng thì phóng khoáng nhã
nhặn, mà bên ngoài thì rất hào hoa lịch sự.
Câu
153 và 154
= Chàng cùng ở một vùng với nhà họ Vương và là bạn chung
đèn chung sách với Vương Quan.
Câu
155 và 156
= Chàng vẫn nghe tiếng đồn lừng lẫy là nhà họ Vương ở làng
bên có gái cấm cung đẹp như hai cô họ Kiều ở đời Tam Quốc.
Câu
157 và 158
= Tuy ở gần một vùng mà sao buồng hai cô ngồi thêu thùa
lại xa như cách sông cách núi, khiến chàng luống những mang lòng yêu dấu thầm
kín, ước mong tha thiết.
Câu
159 và 160 = May sao nay tình cờ được
gặp nhau trong cuộc đạp thanh đố lá này, thật là thỏa lòng tìm hoa của chàng.
Câu
161 và 162
= Nhác trông thấy bóng dáng hai cô ở nẻo xa, cô nào cũng
tươi đẹp thanh tao, cô thì như hoa lan mùa xuân, cô thì như hoa cúc mùa thu, cô
nào cũng một vẻ mặn mà tuyệt vời.
Câu
163 và 164
= Một bên là gái quốc sắc, một bên là trai
thiên tài ; hai bên trông thấy nhau, trong lòng đã để ý đầy tình cảm với
nhau ngay, chỉ còn e lệ chưa dám tỏ ra ngoài mặt với nhau thôi.
Câu
165 và 166
= Chàng thì chập chờn lúc như tỉnh, lúc như mê ; ngồi
dốn mãi đó thì không tiện, làm mất tự do của hai cô, mà đứng dậy ra về thì nào
có dứt được lòng tiếc rẻ.
Câu
167 và 168
= Bóng chiều xế thấp dần như thúc giục chàng về, làm cho
chàng tăng dần cơn buồn tiếc. Khi
chàng bất đắc dĩ lên ngựa ra về rồi,
nàng đưa ngay mắt nghé theo nhìn chàng mãi.
Câu
169 và 170
= Nàng nhìn theo mãi cho đến lúc khách đã qua cầu khuất
bóng rồi, chỉ còn ở dưới cầu thì dòng nước chảy trong veo, chẳng còn bóng khách
nữa và ở đầu cầu thì mấy cành tơ liễu thướt tha trong bóng chiều hôm như buồn
tiễn khách đi.
Câu
171 và 172
= Lúc Kiều về đến nhà
rồi, thì mặt trời đã nằm gác ở trên núi phía tây và chuông
chùa đã thỉnh hồi thu không làm lễ chiêu mộ.
Câu
173 và 174
= Mặt trăng
đã nghiêng nghiêng dòm vào trong cửa sổ, ánh trăng
thành những ánh vàng ở trên mặt nước, và bóng cây in xuống mặt sân.
Câu
175 và 176
= Cây hải đường trông như ngả ngọn sang nhà hàng xóm phía
đông ; cành lá xanh non mùa xuân đầm đìa nặng trĩu những hạt sương rũ
xuống như người la đà buồn ngủ đầu không ngóc lên được.
Câu
177 và 178
= Nàng ngồi một mình lặng lẽ ngắm trăng,
trong lòng rộn rã tơi bời, lúc thì nghĩ chuyện gần như thương Đạm Tiên, như nhớ
Kim Trọng, lúc lại nghĩ đến chuyện xa như lo số bạc mệnh, như mong lấy được Kim
Trọng để nhờ phúc âm chồng mà gỡ khỏi số kiếp đó.
Câu
179 và 180
= Nghĩ đến Đạm Tiên, nàng than :
Người mà bạc mệnh đến thế là cùng, cái đời phồn hoa của nàng thật là đời uổng
phí đáng bỏ đi.
Câu
181 và 182
= Nghĩ đến Kim Trọng, nàng lo :
Trời
cho gặp gỡ nhau để làm chi vậy ? Chẳng biết sau này có nên vợ nên chồng không
đây ?
Câu
183 và 184
= Nàng nghĩ ngổn ngang trăm mối trong
lòng, rồi làm một bài thơ rất hay để tỏ tâm sự.
Câu
185 và 186
= Trăng lúc đó xuống thấp
ngang trước mành, nàng ngồi một mình tựa lưng vào bực trấn song ghép hình chữ
triện
mà thiu thiu ngủ.
Câu
187 và 188
= Bỗng nàng thấy một cô gái trẻ, vừa có vẻ lịch sự tài
hoa, vừa mơn mởn thanh tân rất đẹp.
Câu
189 và 190
= Mặt như in màu sương, thân như pha vẻ tuyết, lững đững
đưa đôi gót sen, phảng phảng phất phất lúc như tiến lại gần, lúc như lảng đi
xa.
Câu
191 và 192
- Nàng vội chạy ra đón rước và đon đả hỏi han :
Tiên nữ ở đào nguyên đi đâu mà lại lạc lối vào đây ?
Câu
193 và 194
= Cô gái thưa : Chị em ta là chỗ thanh khí với nhau, mới
gặp nhau lúc ban ngày mà giờ đã quên nhau rồi !
Câu
195 và 196
= Căn nhà nghèo lạnh của em ở mé bên bờ phía tây, gần một
ngòi nước chảy mà bên trên có cầu bắc qua.
Câu
197 và 198
= Em cám ơn chị đã có lòng tử tế rất nhiều đoái hoài ngó
xuống đến em, mấy bài thơ chị ban xuống cho em thật hay tinh những lời vàng
tiếng ngọc vang ra.
Câu
199 và 200
= Em đã đưa lên cho bà chủ hội đoạn trường xem rõ và tra
trong sổ đoạn trường thì ra cũng có tên chị.
Câu
201 và 202
= Ôi ta đành chịu vậy, âu đó cũng là nhân duyên của chị em
ta chung một quả kiếp, thành ra vẫn là người trong một hội một
thuyền
với nhau, chẳng xa lạ gì !
Câu
203 và 204
= Này đây có 10 đầu bài thơ vừa mới ra, cần phải nhờ cái
ngọn bút tinh hoa của chị vẽ vời nên những câu thơ thần tô điểm cho !
Câu
205 và 206
= Kiều vâng lĩnh nhận ngay 10 đầu đề và theo ý mỗi đầu đề
làm thành một bài. Nàng cầm bút và đưa tay thơ tiên nàng ra mà viết luôn một
hồi, chỉ trong chốc lát đủ cả mười bài.
Câu
207 và 208
= Đạm Tiên xem thơ nức nở khen thầm rồi nói
: Thơ lời đẹp như hoa thêu, ý hay như gấm dệt, giá trị thật
khác thường.
Câu
209 và 210
= Ví đem biên vào tập thơ đoạn trường,
thì cái lèo giải nhất chắc là chị chẳng để ai tranh được !
Câu
211 và 212
= Trước thềm hoa cô khách đã trở bước ra đi, mà Kiều còn
muốn nắm áo giữ lại để nói chuyện thêm nữa.
Câu
213 và 214
= Một cơn gió thổi lay động
bức mành xịch một tiếng, nàng sực tỉnh
ra mới biết là mình mơ ngủ.
Câu
215 và 216
= Nàng trông theo thì chẳng thấy cô khách mà hình như còn
thoảng thấy mùi thơm vẫn quanh quất bên mình nàng.
Câu
217 và 218
= Rồi nàng vào nằm suy lường lo nghĩ một mình lúc canh
khuya. Nàng nghĩ đến
những nông nỗi trong bước đường xa sau này của mình và
lo sợ lắm.
Câu
219 và 220
= Nàng lo nghĩ :
Theo
điềm mộng vừa rồi, thì rành rõ đời ta sẽ lưu lạc như hoa trôi theo giòng nước,
như bèo giạt trước gió sóng. Đạm Tiên đã nói ta cũng có tên trong sổ đoạn
trường như nàng, thì chắc ta cũng sống cuộc đời phồn hoa đầy đọa như nàng, chết
không ai viếng mả như nàng, ta
biết duyên phận ta chẳng ra gì thế thôi, nhưng biết gỡ sao khỏi được !
Câu
221 và 222
= Nàng càng nghĩ, lòng nàng càng cực cội, hết cơn nọ đến
cơn kia, dồn dập như làn sóng mặt sông mặt biển
;
mỗi cơn cực cội lại một cơn sụt sùi khóc theo.
Câu
22 và 224
= Giọng rền rĩ nỉ non của nàng ở trong mùng làm cho bà mẹ
tỉnh dậy hỏi can cớ gì mà khóc.
Câu
225 và 226
= Bà hỏi :
Cớ sao mà lại đêm khuya trằn trọc không ngủ lại giàn
giụa
nước mắt như cành hoa lê đầm đìa mưa xuân như vậy ?
Câu
227 và 228
= Nàng thưa rằng :
Con còn trẻ tuổi ngây thơ, chưa báo đáp được công đức cha sinh mẹ dưỡng một
chút mảy may nào.
Câu
229 và 230
= Vì ban ngày con thăm mả Đạm Tiên, vừa rồi con
chợt ngủ đi, thấy Đạm Tiên báo mộng cho con biết ngay số phận của con sau này.
Câu
231 và 232
= Nàng kể rõ cho bà nghe :
nào sổ đoạn trường là sổ thế nào mà
nàng cũng có tên ở trong, nào là mười đầu đề thơ Đạm Tiên đưa nhờ nàng làm, và
nàng làm như thế nào.
Câu
233 và 234
= Rồi nàng nói tiếp :
Cứ theo mộng triệu đó mà suy đoán ra, thì số phận con mai sau thật chẳng ra gì !
Câu
235 và 236
= Vương bà khuyên dạy nàng rằng :
Mơ mộng là điềm huyền ảo tin làm gì ! Rõ thật bỗng dưng mua não rước sầu vào
thân, lạ quá.
Câu
237 và 238
= Nàng nghe lời mẹ khuyên giải thấp cao đủ lẽ cũng bớt
lòng lo nghĩ, nhưng lại tiếp tục bồn chồn
nghĩ đến cuộc tình duyên gặp gỡ, nhưng lo chẳng biết có nên chuyện gì không, để
nàng nhờ chồng mà thoát khỏi
kiếp đoạn trường.
Câu
239 và 240
= Nàng còn đương nghĩ vẩn vơ, thì trời đã sáng. Ngoài cửa
sổ chim hoàng oanh đã hót như thỏ thẻ chuyện trò, mấy cành liễu ở khoảng nách
tường đầu nhà đã thấy gió đưa phất phơ ở trước mành.
Câu
241 và 242 =
Cảnh
buổi sớm mùa xuân tuy đẹp vậy, nhưng lòng nàng nào có khuây
; cho đến lúc mặt trời
đã cao hơn mái hiên chiếu bóng nghiêng xuống, nàng vẫn còn bận lòng nằm nghĩ
tới mọi nỗi lo riêng trong lòng.
Những
câu hay chữ có ý móc nối
Câu
“cỏ non xanh tận chân trời” đã có ý móc nối với câu tả Kim Trọng “hài
văn lần bước dặm xanh”, lại có ý làm tăng thêm vẻ thảm thê cho
đoạn tả cảnh mả Đạm Tiên “sè
sè nắm đất bên đường / dầu
dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh / rằng
sao trong tiết thanh minh / mà
đây hương khói vắng tanh thế mà ?”
Câu
Đạm Tiên nói “mấy lời hạ tứ ném châu
gieo vàng” ứng với việc Kiều đề thơ ở thân
cây gần mả.
Những
câu Kiều nói “dễ hay tình lại gặp tình …
hữu tình ta lại gặp ta” có ý móc nối với câu Đạm Tiên nói
“… thanh khí xưa nay… âu
đành quả kiếp nhân duyên /
cũng người một hội một thuyền đâu xa.”
Những
câu tả phong tư, tài mạo, phong nhã, tài hoa, của Kim Trọng móc nối với câu
Kiều nói sau này với Kim Trọng “…trộm liếc dung quang
/ chẳng sân ngọc bội, thì phường kim môn.”
Câu
“ khách đà lên ngựa người còn nghé theo” móc
nối khẩn thiết với câu tả lòng Kim Trọng nghĩ đến sau
này “ví chăng duyên nợ ba sinh
/ thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi ?”
Mấy
câu tả cảnh buổi chiều hôm đi tảo mộ về đều khéo mượn cảnh để ngầm tả nỗi
lòng của Kiều.
Câu
“mặt trời
gác núi chiêng già thu không” bề ngoài thì thật khéo tả đúng cảnh buồn lúc
chiều sắp tối, cái cảnh lúc mặt trời
lặn dần xuống bên kia ngọn núi phía tây, trời tối sầm dần,
đã như thu hết tinh thần vui tươi của vạn vật vào cõi u hồn, bên tai lại thủng
thẳng vang lên từng tiếng chuông chùa với từng câu lanh lảnh niệm phật làm lễ
chiêu mộ cô hồn. Trước cái cảnh ảm đạm ấy, người và vật đều lo tìm cảnh đoàn tụ
để yên ủi tâm hồn hiu quạnh. Bởi vậy thơ
Đường có câu: [何 時 最 是 思 君 处 = hà
thì tối thị tư quân xứ = lúc
nào là lúc nhớ anh nhất] • [日 入 斜 窗 晚 寺 鐘 = nhật nhập tà song vãn tự
chung = đó là lúc nắng chiều vào
trong cửa sổ lạnh vắng và tiếng chuông chùa đánh chiêu mộ].
Tác
giả mượn ý câu dưới để tả cảnh buồn buổi chiều và ngầm mượn ý câu trên để tả
nỗi lòng Kiều tưởng nhớ Kim Trọng.
Hai
câu “hải đường lả ngọn đông lân
/ hạt sương trĩu
nặng cành xuân la đà” lời văn thật hay, cảnh tả thật đẹp, nhất là ngụ ý càng
thâm thúy. Bề ngoài thì hai câu này
tả cảnh thật đẹp đẽ buồn lặng lúc chập tối hôm thanh minh :
dưới bóng trăng thượng tuần, cây hải
đường như lả ngọn về phía đông,
những hạt sương xuân làm cho cành lá rũ lả xuống la đà trước cơn gió thoảng.
Nhưng bên trong thỉ mỗi chữ ngụ một ý nghĩa ngầm rất thâm thúy, xin kể rõ như
sau : “hải
đường” ngụ ý nói Kiều buồn ngủ, hoa hải đường nở lâu hàng tháng, ngày nở nhưng
đêm cụp lại gọi là hoa ngủ. Vua Minh Hoàng thấy Dương Quý Phi buổi sáng ngồi thiu
thiu
như buồn ngủ, mới nói đùa nàng “hoa
hải đường đêm ngủ chưa đủ giấc sao?” Ý ngầm buồn ngủ của chữ hải đường này móc
nối với câu “tựa ngồi bên triện một
mình hiu hiu” (có buồn ngủ rồi mới ngủ ngồi). “Ngả
ngọn đông lân” ngụ ý nói Kiều tưởng nhớ Kim Trọng; thế là Kiều không còn “tường
đông ong bướm đi về mặc ai” nữa vì
nàng đã ngả lòng về khách tường đông đó rồi. “Hạt
sương trĩu nặng” ngụ ý nói Kiều
khóc nước mắt lã chã; chữ “hải
đường” có hạt sương trĩu
nặng này móc nối với câu “màu hoa lê hãy đầm đìa hạt mưa” ở dưới. “Cành
xuân la đà” ngụ ý tả vẻ mặt kiều lo âu, ủ rũ mỏi mệt gượng ngồi ngắm cảnh cho
khuây.
[ĐÀM
DUY TẠO]