Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2018
Trần Huy Bích: Thơ làm trên thuyền về hưu: tâm sự của Trần Nguyên Đán
夜歸舟中作
萬國民生沸鼎魚
朔燕東汴已邱墟
歸舟未穩江湖夢
分取魚燈照古書
陳元旦
Dạ quy chu trung tác
Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư
Sóc Yên, đông Biện dĩ khưu khư
Quy chu vị ổn giang hồ mộng
Phân thủ ngư đăng chiếu cổ thư.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Ra về ban đêm, làm [thơ] trong thuyền
Nhân dân
muôn nước như cá trong vạc nước sôi,
Đất Yên
phương bắc, đất Biện phương đông đã thành gò đống.
Trên chiếc
thuyền quay về, chưa yên với giấc mộng sông
hồ,
Muợn ánh đèn
thuyền chài soi vào cuốn sách cổ.
Dịch thơ:
Như cá nước sôi, dân thảm chưa!
Tan hoang khắp chốn rã nên gò
Thuyền về, mộng hải hồ chửa vẹn
Mượn ánh đèn chài rọi sách xưa.
Hoàn cảnh và tâm sự của Trần Nguyên
Đán (1320-1390)
Trần Nguyên Đán là cháu bốn đời (chắt) của Chiêu
Minh đại vương Trần Quang Khải, vị anh hùng phá tan quân Nguyên ở Chương Dương
và khôi phục Thăng Long năm 1285. Cuối đời Trần Dụ tông, khi Dương Nhật Lễ muốn
dứt ngôi nhà Trần, Trần Nguyên Đán đem quân giúp Trần Nghệ tông (lúc ấy còn là
Cung Định vương) dẹp yên. Nghệ tông lên ngôi, phong Trần Nguyên Đán làm Tư Đồ.
Đến cuối đời, Nghệ tông không còn sáng suốt nữa, quá tin dùng và chỉ nghe một
người em con cô là Lê Quý Ly (sau lấy lại họ gốc là Hồ Quý Ly). Quý Ly thông
minh, có sáng kiến, nhưng nham hiểm, nhiều tham vọng. Trong triều nhiều người
khuyên can nhưng nhà vua không nghe, có khi còn đưa những bản sớ ấy cho Quý Ly
coi, khiến những người đã can phải sợ hãi, trốn tránh. Sau nhiều lần can gián
không hiệu quả, năm 1385 Trần Nguyên Đán cáo quan lui về ẩn ở Côn Sơn. Bài thơ
này được làm ra trong hoàn cảnh ấy.
Nhiều sử gia đời sau (Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ, Trần
Trọng Kim) phê phán Trần Nguyên Đán bằng những lời khá nghiêm khắc. Theo các vị,
thuộc tôn thất nhà Trần, lẽ ra Trần Nguyên Đán phải chia sẻ mối lo với vua, ở lại tận lực giúp triều đình.Cáo quan lui
về là một hình thức trốn trách nhiệm, chỉ nghĩ đến bản thân. Những chê bai ấy
không phải là vô căn cứ, nhưng để việc nhận định được công bằng, có một vài sự kiện chúng ta cũng nên
xét tới:
1. Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam của Trần Văn Giáp, Trần Nguyên Đán
sinh năm 1320. Khi cáo quan về hưu năm 1385, ông đã 65 tuổi. Ở thời trước, tuổi
ấy được kể là cao. Tuổi thọ các vua Trần
từ Thánh tông đến Dụ tông chỉ từ 33 đến 57. Vị tằng tổ (ông cố) của Trần Nguyên
Đán, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, cũng chỉ 53
tuổi. Về hưu ở tuổi 65 nên được
coi là hợp lý chứ không hoàn toàn chỉ là “trốn trách nhiệm.”
2. Theo “Băng Hồ di sự lục” do Nguyễn
Trãi (cháu ngoại Trần Nguyên Đán) chép, thì Trần Nguyên Đán cũng từng can vua về chuyện Quý Ly nhưng không thành công:
“Công tuy thân gửi suối rừng mà chí thì ở tông xã, tấm
lòng ưu ái chưa một ngày quên. Hoặc đi hoặc ở, khi động khi tĩnh, đều có ý can
gián. Rút cục Nghệ tông đều không xét đến. Do đó họ Hồ uy thế càng thịnh, kẻ xu
phụ ngày càng nhiều, thế nước ngày càng suy, không làm sao được nữa, cái chí
lui về hưu của công mới quyết.”
Tuy trong
thân tộc nhà Trần nhưng liên hệ giữa Trần Nguyên Đán với vua Nghệ tông phải đi ngược lại 4 đời (Chiêu Minh đại
vương Trần Quang Khải là em vua Thánh tông). Trong khi ấy, thân mẫu vua Nghệ
tông là cô ruột Quý Ly (giữa Nghệ tông với Quý Ly có tình anh em con cô con cậu
ruột). Nghe lời Quý Ly, nhà vua từng truất ngôi Phế đế Trần Hiện
(con vua Duệ tông, cháu gọi Nghệ tông bằng bác ruột) rồi sai người thắt cổ chết.
Vì không ưa và ngờ vực Quý Ly, con lớn của Nghệ tông là Trang Định vương Trần Ngạc cũng bị Quý Ly
sai người sát hại. Năm
1392, ít năm sau khi Trần Nguyên Đán về hưu, một tôn thất gần Nghệ tông hơn là
Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly.Trước khi việc được thi hành, Nhật Chương bị
Nghệ tông xử tử.Liên hệ giữa Trần
Nguyên Đán với Nghệ tông không được thân bằng mối liên hệ giữa Nghệ tông với các nhân vật kể trên. Ông có nhiều lý do để lo ngại.
3. Khi Trần Nguyên Đán xin về hưu năm 1385, người cháu ngoại ông rất
yêu quý là Nguyễn Trãi đã
được 5 tuổi. (Nguyễn Trãi sinh năm 1380 trong dinh thự của Trần Nguyên Đán ở
Thăng Long). Thân phụ của Nguyễn Trãi (Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), từng được Trần Nguyên
Đán nâng đỡ và che chở. Là một thư sinh giỏi, nhà nghèo, Nguyễn Ứng Long được
tuyển chọn để kèm học cho tiểu thư Trần Thị Thái, con của Trần Nguyên Đán. Hai
người yêu thương nhau, với kết quả là cô Thái thụ thai. Sợ hãi, Nguyễn Ứng Long
bỏ trốn. Khi biết chuyện, Trần Nguyên Đán nói, “Vận nước sắp hết, biết đâu chẳng
là trời xui nên thế, vị tất không phải là phúc,” rồi cho tìm Ứng Long về, khuyên cố học hành. Ứng Long cảm
kích, chuyên tâm học và thi đỗ nhưng không được bổ dụng vì tội “con thường dân
mà dám lấy con nhà quý tộc.” Do từ nhỏ vẫn sống cùng mẹ trong dinh thự của Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Trãi được ông ngoại chăm sóc việc học. Năm 1385, Trần Nguyên
Đán về hưu, cũng là dịp để đem người cháu ngoại mà ông thương mến và rất thông minh về Côn Sơn tiếp tục việc giáo huấn. Suốt thời thơ ấu,
Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sự hướng dẫn của ông ngoại
về kiến thức cũng như về tâm hồn.
4. Cũng theo Nguyễn Trãi trong “Băng Hồ di sự lục,”đến cuối đời Trần Nguyên
Đán đau ốm nhưng không uống thuốc. Trước sự nài ép của con cháu, ông nói, “Thời sự như thế, ta được chết là may. Sao còn cầu
sống để thấy họa loạn?” Có vẻ như Trần Nguyên Đán tiên
liệu trước những việc họ Hồ sẽ
cướp ngôi, nước sẽ đại loạn và có thể sẽ mất. Cho rằng thế hệ của ông không còn làm được gì, ông nghĩ
đến thế hệ kế
tiếp. Cháu ngoại của ông là Nguyễn
Trãi và cháu nội của ông là Trần Nguyên Hãn sau đó đã góp sức một cách đáng kể vào việc khôi phục lại đất nước.
5. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có lần vua Nghệ tông đến nhà Trần Nguyên
Đán để thăm bệnh và hỏi việc nước nhưng Trần Nguyên Đán không nói gì, chỉ thưa,
“Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con thì nước nhà vô sự.”
Căn cứ vào chi tiết ấy, sử gia Ngô Sĩ Liên phê bình “chỉ là câu nói tầm thường.”
Sử gia Trần Trọng Kim nghiêm khắc hơn, cho là Trần Nguyên Đán “chỉ bàn những
chuyện làm tôi tớ, không có chí muốn nước mình cường thịnh.”
Sau khi Trần Nguyên Đán về ẩn dật,
năm 1387 Quý Ly được cử làm Đồng Bình Chương Sự, nắm quyền Tể tướng, coi giữ hết
mọi việc. Vua Nghệ tông còn sai người vẽ tranh tặng Quý Ly, ví Quý Ly như Chu
Công Đán giúp vua Thành vương nhà Chu, như Gia Cát Lượng giúp Hán Hậu chúa đời
Tam Quốc, như Tô Hiến Thành giúp vua Cao tông nhà Lý. Khi Nghệ tông đến thăm Trần
Nguyên Đán tại nhà riêng, không thể không có tai mắt của Quý Ly theo dõi. Trong
hoàn cảnh ấy, Trần Nguyên Đán khó có thể nói những điều ông thực sự muốn nói,
có khi chỉ nguy hại cho ông, cho con cháu ông, và cho chính vua Nghệ tông.
Trong sử Trung Hoa mà Trần Nguyên Đán chắc chắn thông thạo, không thiếu những
trường hợp giả bộ đau ốm nặng hoặc làm ra vẻ già lẫn, gàn dở, để tránh sự nghi
kỵ, theo dõi của đối phương.
Để mở đầu bài “Bình Ngô đại cáo,”
Nguyễn Trãi đã viết:
“Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập,
Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một
phương.
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
(Bản dịch của Bùi Kỷ, được in
trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng
Kim).
Đọc “Băng Hồ di sự lục,” chúng ta
cùng thấy rằng Nguyễn Trãi rất ngưỡng mộ ông ngoại của mình. Người giáo huấn
Nguyễn Trãi từ nhỏ và đã gieo ảnh hưởng sâu đậm đến tâm hồn, tư tưởng của tác
giả “Bình Ngô đại cáo” khó có thể là người “chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ”
như lời phê bình có phần hơi quá đáng của học giả Trần Trọng Kim.
Như trên đã thấy, Trần Nguyên Đán
không sợ cái chết cho bản thân. Khi lấy hiệu là Băng Hồ, ông mượn ý một câu thơ của Vương Xương Linh, “Nhất phiến băng tâm tại ngọc
hồ” (Một mảnh lòng băng trong chiếc hồ bằng ngọc).Trong những hoàn cảnh
khó xử, khó nói, ông chỉ có thể gửi tâm sự vào thơ.Bài “Dạ quy chu trung tác”
được giới thiệu ở trên là một trong những bài như thế. Câu 3 của bài thơ, “Trên
chiếc thuyền quay về, chưa yên tâm với giấc mộng sông hồ” đúng là điều Nguyễn
Trãi cũng viết ra trong “Băng Hồ di sự lục”: “Công tuy thân gửi suối rừng
mà chí thì ở tông xã”
(tông miếu, xã tắc, ngụ ý triều đình, đất nước).
Có một sự kiện chúng ta cũng nên chú
ý: Năm 1428, ngay sau khi đuổi xong quân Minh và công bố “Bình Ngô đại cáo,” Nguyễn Trãi đã viết “Băng Hồ di sự lục” để thuật
lại cuộc đời của ông ngoại mình.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét