Thứ Năm, 1 tháng 3, 2018
Phạm Phan Long / Viet Ecology Foundation: Việt Nam vướng mãi vào điện than như mắc phải một lời nguyền
Ngày 28, tháng 2, 2018
Dẫn nhập
Tăng thuế vào xăng ai phải gánh?
Giữ nguyên thuế cho than ai hưởng lợi?
Và những nghị quyết không thi hành ai chịu trách nhiệm?
Việt Nam đã có Luật Bảo Vệ Môi Trường Số: 55/2014/QH13 (2014) với những
quy định “ứng phó với biến đổi khí
hậu, quản lý phát thải khí nhà kính, phát triển năng lượng tái
tạo, sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, hợp tác quốc tế
về ứng phó với biến đổi khí hậu” nhưng quy hoạch điện và thuế môi trường hoàn
toàn đi ngược các quy định kể trên.
Tuy Nghị Quyết bảo vệ môi trường 41-NQ/TW
(2004) đề ra
những mục tiêu và quan điểm “bảo đảm sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững, công nghệ hiện đại”nhưng thực tế luật thuế bảo vệ
môi trường (Luật số: 57/2010/QH12) đánh thuế vào xăng/dân 153 lần nặng hơn vào than/chủ nhiệt điện. Nhiệt điện than là công nghệ lỗi thời, thải ô nhiễm hủy hoại
môi trường và có tác hại sức khỏe cư dân nhiều nhất.
Ngoài ra Nghị Quyết phát triển bền vững Đồng
bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu 120/NQ-CP (2017) đề ra “tầm nhìn dài hạn, phát
triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên” và “
Phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái
tự nhiên, phát triển năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ rừng và bờ biển” nhưng
QuyHoạch Điện VII không điều chỉnh
theo, vẫn bám chặt vào nhiệt điện than như hệ thống lãnh đạo bị khống chế bởi
một lời nguyền.
Thảo luận
Bộ Tài chánh lại đề nghị tăng thuế Bảo vệ Môi trường (BVMT) từ 3.000 đồng
lên 4.000 đồng/lít xăng (thay vì lên đến 8000 đồng/ lít) nhưng vẫn giữ nguyên
thuế ở mức 30 đồng/kg cho than. Nếu dựa vào cùng
lượng khí thải ra từ hai nguồn nhiên liệu này để so sánh, người tiêu thụ xăng hiện trả 115 lần và sắp
phải trả 153 lần nhiều hơn nhiệt điện than. (Xem phụ lục dưới về tính toán cho
con số 153).
Nếu điều chỉnh thuế BVMT cho nhiệt điện than dựa vào khí thải CO2 như xăng,
nhiệt điện than sẽ phải trả 4608 đồng/kg than, tương
đương 2072 đồng/kWh điện năng.
Chi phí thực sự cho điện than do đó phải kể là 2271 (giá điện EVN công tơ trả
bằng thẻ)+2072 (thuế BVMT)=4343 đồng/kWh.
Nhưng chưa hết,
dân cư (hay xã hội) đang âm thầm phải trả thêm vào chi phí ngoại vi, external cost dưới hình thức tiền thuốc men, giảm tuổi thọ, ô
nhiễm môi sinh, biến đổi khí hậuvào khoảng 1589 đồng/kW, do người viết đã tường
trình. Tổng chi phí do đó là 4343+1294=5637 đồng/kWh,
hay 25 xu US/kWh.
Dân thực thụ phải trả 150% chồng trên
tiền trả cho EVN có lẽ không ngờ? Làm sao nhà nước giải thích cho dân giá điện thực thụ đó, khi các nước như
Canada, Chile, Hoa Kỳ v.v. có thể mua năng lượng tái
tạo xanh và sạch với chi phí bình quân dưới 5 xu US/kWh.
Đề nghị tăng thuế BVMT vào xăng lần này của Bộ Tài
Chánh tuy đã hạ từ 8000 đồng xuống 4000 đồng/lít
xăng vẫn là ưu đãi nhiệt điện than không thể lý
giải; 90 triệu
dân không thể chấp nhận cưu mang điện than và gánh chịu ô nhiễm như thế nữa.
Nghị Quyết 41-NQ/TW 2004 dường như không ai đọc
Nếu đọc Nghị Quyết NQ 41 ta sẽ thấy cách đánh thuế BVMT xăng và than từ
không tuân theo một quan điểm hay mục tiêu nào trong Nghị Quyết này cả.
Kiểm điểm năm quan điểm trong NQ
41
1- Bảo vệ môi trường là một trong
những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng
cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội,
ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta.
Nhiệt điện than đi ngược xu hướng nhân loại, nhiên liệu than phần lớn phải
nhập cảng từ bên ngoài sẽ đặt an ninh năng lượng quốc gia vào tình huống bấp
bênh và an toàn sức khoẻ dân cư sống dưới đe doạcủa khói bụi than.
2- Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được
thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế -
xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát
triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường
là đầu tư cho phát triển bền vững.
Nhiệt điện than bẩn, công nghệ cận tới hạn lỗi thời và là than là nguồn
năng lượng kém hiệu quả kinh tế nhất, đáng lý phải xoá bỏ than khỏi quy hoạch
điện từ NQ 41. Nhưng than vẫn chiếm lĩnh phần rất lớn trongQuy Hoạch Điện VII theo Hình 1, ngay khi điều chỉnh rồi vẫn cho xây thêm 42 GW nhiệt điện than(thay vì 62 GW) trong khi Trung Quốc
chuyển hướng từ nay sẽ không xây thêm một nhà máy nhiệt điện than nào theo Hình
2.
Hình 1. Biểu đồ quy hoạch điện VII chưa điều chỉnh(dựa
vào ADB).
Hình 2.Trung Quốc không xây nhiệt điện than, chuyển sang NLTT sau 2017 (dựa theo IEA) |
3- Bảo vệ môi trường là quyền lợi
và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp
sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối
tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của cha ông ta.
Điều khoản này viết rất hay,
nhưng xem kỹ văn bản nghĩa vụ nàylà của tất cả xã hội nhưng không phải của … nhà nước.
4- Bảo vệ môi trường phải theo
phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết
hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn
thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực
trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với
các phương pháp truyền thống.
Quy Hoạch Điện VII không hạn chế ô nguồn ô nhiễm điện than màkết hợp đầu tư, huy động nguồn lực đẩy mạnh
huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế (nhất là
Trung Quốc); kết hợp giữa công nghệ hiện đại
với các phương pháp truyền thống xã hộităng công suất điện than và ô nhiễm
lên 400%.
5- Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ
vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần
có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý thống nhất của
Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Nhà nước nếu thật tình cần trân trọng lắng nghe khuyến cáo của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, ngân hàng
ADB, WWF-OXFAM, các NGO trí thức chuyên gia độc
lập và nhất là dân cư chung quanh các trung tâm nhiệt điện.
Kiểm điểm ba mục tiêu của NQ 41
1- Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia
tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động
của tự nhiên gây ra. Sử dụng
bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
2- Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở
những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy
thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường.
3- Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt,
có sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệmôi trường, sống
thân thiện với thiên nhiên.
Toàn bộ cả ba mục tiêu cũng như
năm quan điểm trên đều bị Bộ Công Thương
gạt bỏ khỏi Quy Hoạch Điện VIIvà luật thuế BVMT Bộ Tài Chánh đánh ngược lại.
Nghị Quyết 120-CP ký năm 2017 chưa thực hiện
Quy Hoạch Điện VIIphần lớn dùng than và luật thuế BVMT đánh thuế BVMT nhiều
nhất vào xăng ít nhất vào than, hoàn toàn đi ngược với Nghị Quyết 120, nhất là
hai điều khoản có tính bức phá cấp tiến nhất sau đây:
Điều
3 c)
Việc chuyển đổi mô hình phát triển phải dựa trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp
với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa, con người và các quy luật tự
nhiên; kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm
truyền thống, đảm bảo tính ổn định và sinh kế của người dân, trong đó người dân
và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn
dắt; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với
biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế
các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Điều 4 c)-
Phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái
tự nhiên. Phát triển năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ rừng và bờ biển.
Kết luận và giải pháp
Tăng thuế BVMT vào xăng ai phải gánh?
Thuế BVMT đã giúp ngụy tạo cho điện than ở giá 2271
Đồng/kWh, thực ra dân phải
trả đến
5647Đồng/kWh hay 150% nhiều hơn vì thuế và ô nhiễm.
Giữ nguyên thuế BVMT cho than ai hưởng lợi?
Nhiệt điện than hưởng lợi, năng lượng tái tạo (NLTT) rõ
ràng không được chào đón vào Việt Nam. Quy Hoạch Điện VII xếp cho họ ngồi tại
manh chiếu dưới cùng với thủy điện so với tấm chiếu trên to gấp năm lần để dành
biệt đãi điện than. Giới đầu tư vào NLTT mất tin tưởng đầu tư vào một thị
trường kỳ thị họ như vậy, và nếu họ cần có bảo đảm và sẽ đánh lãi xuất cao dự
phòng rủi ro vào các dự án ở VN. (Chú
thích: Giá bán vào lưới
điện, FiT cho NLTT tuy đã nâng lên 7.8 xu đến 9.3 xu US/kWh nhưng vẫn không thể
cạnh tranh với điện than trong quy hoạch hiện thời.)
Và những nghị quyết không thi hành ai chịu trách nhiệm?
Các bộ Công Thương, Tài Nguyên Môi trường và các tập đoàn EVN, Petro VN, Vinacomin có quyền lực quyết định nên có trách nhiệm tìm
nguồn điện tối ưu kinh tế và môi sinh đáp ứng nhu cầu quốc gia. Xã hội dân sự cần
lên tiếng yêu cầu nhà nước điều chỉnh mức thuế và tháo gỡ lời nguyền điện than
ra cho cả nước. Lời giải vốn nằm sẵn trong các luật NQ đã có nêu trên và sau
đây là những phương án không xa lạ, có thể trích ra từ những
khuyến cáo quy hoạch trong nước và quốc tế:
1. Quốc hội luật hóa các Nghị Quyết và điều
chỉnh dần luật thuế BVMT dù tăng giá điện nhưng giảm thuế xăng.
2. Tiết
kiệm tiêu thụ điện năng có thể giảm nhu cầu 15% là ưu tiên cao nhất.
3. Chuyển
điện than sang nhiệt điện khí tất cả nhà máy đã có theo độ khả thi từng trường
hợp như Hoa Kỳ.
4. Ngưng
đóng hồ sơ đang có không xét dự án nhiệt điện than nào trừ khi chuyển sang nhiệt
điện khí.
5. Không
duyệt xét thêm nhiệt điện than nào chưa xây như Trung Quốc.
6. Tăng
đầu tư vào NLTT lên tối đa ít nhất ngang hàng Trung Quốc.
Thực hiện cần có những bảo đảm cốt yếu sau:
1. Phải
có Đánh giá tác động môi trường chiến lược tích hợp cho toàn bộ trung tâm nhiệt
điện không chỉ làm độc lập cho từng dự án.
2. ĐTM
chiến lược phải do chuyên gia độc lập thực hiện có bảo đảm trách nhiệm nếu sai
lầm.
3. Tham
vấn công khai với dân cư và trí thức.
Đề nghị tăng thêm thuế xăng lần
này của Bộ Tài Chánh sẽ tiếp tục ưu đãi nhiệt điện than phải bác bỏ; 90 triệu
dân không thể chấp nhận cưu mang điện than và gánh chịu ô nhiễm như thế nữa.
Ghi nhận
Người viết trân trọng cám ơn những thân hữu đã giúp
duyệt xét, thảo luận, tu bổ bài khảo luậnnày và chia sẻ mối quan tâm chung.
Tài liệu tham khảo
[1] Thuế BVMT
[2] Giá điện VN
[3] Chi phí ngoại vi
[4] QuyHoạch Điện VII
[5] Quy Hoạch
Điện VII điều chỉnh
[6]
FiT-in Tariff
[7] ADB ALTERNATIVES FOR POWER
GENERATION IN THE GREATER MEKONG SUB-REGION
[8] Quy hoạch điện Trung Quốc
[9] Tăng ô nhiễm điệ than VN
[10] Nghị Quyết BVMT 41-NQ/TW
[11] Nghị Quyết BV ĐBSCL 120/NQ-CP
Phụ Lục 1
So sánh thuế
BVMT xăng và than
- Thuế bảo vệ môi trường đánh
vào xăng dân chúng tiêu thụ là 4000 đồng/lít, hay 5194 đồng/kg.
- Xăng phát thải 3,08 kg
CO2/kg, như vậy dân phải trả 1685 đồng/kg CO2 khi tiêu thụ xăng.
- Thuế bảo vệ môi trường đánh
vào than là 30 đồng/kg.
- Than phát thải 2,73 kg
CO2/kg, như vậy than trả 11 đồng/kg CO2 đốt than.
- Như thế, dân chúng đang bị trừng phạt nặng nề, họ phải trả thuế BVMT cho xăng 1685/11=153 lần nặng hơn so với nhiệt điện than.
Chú thích:TS Nguyễn Đức Thắng nhận định thuế môi trường đúng ra cần đánh
vào các ô nhiễm khác không chỉ CO2. Nếu
tính thêm thuế cho CH4, N2O, thuỷ ngân, SO2, NOx, tỉ lệ 153 có lẽ sẽ còn cao hơn nữa.